KINH LĂNG GIÀ Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
__________________________________________________ ______________________________________
QUYỂN THỨ BA
PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
........
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
– Gỉả sử bậc Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn tự tri, chẳng như Thiên nhãn và Nhục nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà tri. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể kiến tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu được lìa vọng tưởng này? Chỉ có cảnh giới giác tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được vọng thức, xa lìa vọng tưởng phân biệt. Thế Tôn! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Tại sao? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh, và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.
– Thế Tôn! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướng là cảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới tự sở hành của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới tự tướng là cảnh giới, do cảnh giới của phàm phu mà tự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhất là Vô Tướng, Bản thể của Vô Tướng là Pháp Thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng tự tánh, cũng thấy có pháp thể nơi tự tánh, nơi tướng của tự tánh phân biệt pháp thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện tự tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là HỮU, chẳng nói vô nhân mà gọi là VÔ, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì đọa kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh “chẳng đọa nơi hữu và vô” như thế này là chẳng đọa nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì đọa nơi hữu, hoặc thấy cho là vô nhân thì đọa nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Tại sao? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể vậy.
– Thế Tôn! Do vọng tưởng tự tánh phân biệt, chẳng thể thấy được tánh tướng của tự tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng? Làm sao như thật mà biết vọng tưởng? Thế Tôn! Tướng vọng tưởng và tướng tự tánh có khác hay chẳng khác? Nếu nói tướng vọng tưởng và tướng tự tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng như thật biết chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp? Nếu nói là chúng sanh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sanh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trước có cảnh giới của bậc Thánh, đọa nơi hữu kiến? Sao chẳng nói pháp KHÔNG tịch tịnh phi tánh, mà lại nói sự Thánh Trí tự tánh?
Phật bảo Đại Huệ :
– Chẳng phải ta chẳng thuyết pháp KHÔNG phi tánh, cũng chẳng phải đọa nơi hữu kiến, nói sự Thánh Trí tự tánh. Vì muốn khiến chúng sanh lìa sự kinh sợ, do chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tánh tướng của tự tánh và sự Thánh Trí tự tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp KHÔNG thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của tự tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp KHÔNG như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh phi tánh do sự tâm hiện đắc tâm giải thoát, đúng như pháp ấn thật tướng sở ấn, nơi tánh của tự tánh do tự giác quán sát, lìa tướng thấy hữu và vô.
– Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chẳng nên lập “TẤT CẢ PHÁP BẤT SANH” làm tông. Tại Sao? Vì tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sanh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói “Lập tông phải hoại” là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng Vô sanh chẳng hoại, nên “Tất cả pháp chẳng th lập tông thì hoại”. Đại Huệ! Hữu và vô chẳng sanh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô bất khả đắc. Đại Huệ! Gỉa sử tông kia chẳng sanh, đem “tất cả tánh chẳng sanh” mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sanh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận (logic) có rất nhiều lỗi (Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận ghi có ba mươi lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có sở tác, dó đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sanh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp không có tự tánh thì chẳng nên lập tông.
– Đại Huệ! Nhưng Đại Bồ Tát thuyết tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ phải tùy cơ thuyết pháp, chớ khiến họ sanh tâm khủng bố, xa lìa pháp Đại thừa.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nà mà thuyết kệ rằng :
Vô thuyết vô tự tánh,
Vô sự vô tương tục.
Phàm phu vọng chấp thật,
Như xác chết có giác.
Tất cả pháp bất sanh,
Chẳng như tông ngoại đạo.
Các pháp vốn Vô Sanh,
Do nhân duyên thành tựu.
Tất cả pháp bất sanh,
Bậc trí chẳng phân biệt.
Việc do lập tông sanh,
Kẻ giác phải diệt trừ.
Ví như mắt bệnh nhặm,
Vọng thấy tướng hoa đốm.
Tánh chấp trước cũng thế,
Do phàm phu vọng tưởng.
Phân biệt hiện tam giới,
Sự Tự Tánh chẳng có,
Mà lập sự tự tánh,
Vì tư duy khởi vọng,
Tùy sự lập ngôn giáo,
Vọng tưởng rất lăng tăng.
Phật tử hãy siêu thoát,
Xa lìa các vọng tưởng.
Phi nước tưởng là nước,
Do khát nước vọng sanh.
Phàm phu mê như thế,
Bậc Thánh chẳng thấy vậy.
Bậc Thánh thấy trong sạch,
Chánh định tam giải thoát.
Xa lìa nơi sanh diệt,
Dạo đi cõi Vô Sanh.
Tu hành vô sở tu,
Cũng chẳng tánh phi tánh.
Tánh phi tánh bình đẳng,
Do đó sanh Thánh quả.
Thế nào tánh phi tánh?
Thế nào pháp bình đẳng?
Tâm tri tâm bất tri,
Trong ngoài và động tịnh.
Nếu người được đoạn dứt,
Ắt thấy tâm bình đẳng.