KINH LĂNG GIÀ Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
__________________________________________________ ______________________________________
QUYỂN THỨ NHÌ
PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
........
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Tất cả đều Vô sanh,
Cũng không nhân duyên diệt.
Ở nơi tướng sanh diệt,
Mà khởi nhân duyên tưởng.
Pháp diệt rồi lại sanh,
Do nhân duyên tương tục.
Vì đoạn dứt si mê,
Của tất cả chúng sanh.
Nên thuyết pháp duyên khởi,
Các pháp thật Vô Sanh.
Do tập khí mê hoặc,
Từ đó hiện tam giới.
Duyên thật vốn Vô Sanh,
Lại cũng chẳng có diệt.
Tất cả pháp hữu vi,
Như hoa đốm trên không.
Nếu lìa bỏ kiến chấp,
Năng nhiếp và sở nhiếp.
Chẳng có Vô nhân sanh,
Và đã sanh, sẽ sanh.
Sự sanh vốn chẳng có,
Thảy chỉ là ngôn thuyết.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì chúng con nói tướng của Tâm Kinh và ngôn thuyết của vọng tưởng. Con và các Đại Bồ Tát nếu khéo biết tướng Tâm Kinh và ngôn thuyết của vọng tưởng, thì được thông đạt hai nghĩa năng thuyết và sở thuyết, chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dùng hai thứ năng thuyết và sở thuyết tẩy sạch trần cấu của tất cả chúng sanh.
Phật bảo Đại Huệ :
– Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
– Lành thay! Thế Tôn! Con xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
– Có bốn thứ tướng ngôn thuyết vọng tưởng là : Tướng ngôn thuyết, Mộng ngôn thuyết, Vọng tưởng chấp trước ngôn thuyết, và vô thỉ vọng tưởng ngôn thuyết.
1. Tướng Ngôn Thuyết : Là từ tự tâm vọng tưởng chấp trước sắc tướng mà sanh.
2. Mộng Ngôn Thuyết : Là cảnh giới xưa kia đã trải qua, nay tùy niệm tưởng nhớ mà sanh, Nếu giác ngộ rồi thì cảnh giới ” Vô Tánh ” được sanh.
3. Vọng Tưởng Chấp Trước Ngôn Thuyết : Là như trước kia do oán ghét tạo thành nghiệp, nay tùy niệm tưởng nhớ mà sanh.
4. Vô Thỉ Vọng Tưởng Ngôn Thuyết : Là lỗi từ vô thỉ hư ngụy, chấp trước tạp khí của tự chủng mà sanh. Ấy gọi là bốn thứ tướng của vọng tưởng ngôn thuyết.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại dùng nghĩa này khuyến thỉnh Thế Tôn :
– Cúi xin Phật thuyết lại cảnh giới sở hiện của vọng tưởng ngôn thuyết. Bạch Thế Tôn! Ấy là ở nơi nào? Do cớ gì? Tại sao? Nhân gì mà sanh ra ngôn thuyết vọng tưởng của chúng sanh?
Phật bảo Đại Huệ :
– Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng, hòa hợp mà phát ra âm thanh.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
– Thế Tôn! Ngôn thuyết với vọng tưởng là khác hay chẳng khác?
Phật bảo Đại Huệ :
– Ngôn thuyết và vọng tưởng, chẳng phải khác hay chẳng khác. Tại sao? Vì là vọng tưởng làm nhân sanh ra tướng ngôn thuyết. Nếu ngôn thuyết với vọng tưởng khác nhau thì vọng tưởng chẳng nên làm nhân; nếu chẳng khác thì lời nói chẳng hiển bày nghĩa lý. Nhưng sự thật thì chẳng như vậy. Cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác.
Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
– Vậy ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa hay sở thuyết là Đệ Nhất Nghĩa?
Phật bảo Đại Huệ :
– Chẳng phải ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa, cũng chẳng phải sở thuyết là Đệ Nhất Nghĩa. Tại sao? Nói ” ĐỆ NHẤT NGHĨA ” là do ngôn thuyết sở nhập, nghĩa là sự an vui của bậc Thánh, mới gọi là Đệ Nhất Nghĩa, chẳng phải ngôn thuyết là Đệ Nhất Nghĩa. Đệ Nhất Nghĩa là do Thánh Trí tự giác sở chứng đắc, chẳng phải cảnh giới của ngôn thuyết vọng tưởng, cho nên, ngôn thuyết vọng tưởng chẳng hiện thị Đệ Nhất Nghĩa. Lại nữa, Đại Huệ! Vì do tự tâm hiện lượng sở nhập nên mổi mổi tướng ngoài tánh phi tánh. Thì vọng tưởng ngôn thuyết chẳng hiển thị Đệ Nhất Nghĩa. cho nên, Đại Huệ! phải lìa tướng ngôn thuyết và vọng tưởng, mới có thể hiển bày được Đệ Nhất Nghĩa.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Các Pháp chẳng tự tánh,
Cũng chẳng phải ngôn thuyết.
Không Không nghĩa sâu tột,
Phàm phu chẳng thể liễu.
Tự tánh của pháp tánh,
Lìa ngôn thuyết phân biệt.
Sanh tử và Niết Bàn,
Các pháp như mộng huyễn.
Như vua và Trưởng giả,
Vì muốn các con vui.
Trước cho vật tương tự,
Sau ban đồ chơn thật.
Nay ta cũng như thế,
Trước thuyết pháp tương tự,
Sau mới vì họ giảng,
Pháp thật tế tự chứng.