DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 83
  1. #1
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    CHƯƠNG I

    1- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN

    2- PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA


    Trước đời Phật Thích Ca, các Tông phái Bà La Môn Ấn Độ đều có pháp
    Thiền tu hành của họ, pháp danh tiếng nhất như: Mười Hai Tịnh Pháp Thiền,
    Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiền, đều là ngoại đạo dùng nó để tu được sanh
    cõi Trời. Khi Phật Thích Ca mới xuất gia, từng tham học các Thiện tri thức
    của Bà La Môn, đối với các pháp Thiền của họ đều chưa hài lòng, cho nên
    vào Tuyết Sơn tự tu. Ban sơ vẫn dùng Phi Tưởng Phi Tưởng Thiền đoạn
    niệm dứt dục trải qua sáu năm chẳng kết quả gì, biết pháp Thiền của Bà La
    Môn là sai, nên tắm gội ăn uống lại rồi đến ngồi dưới cây Bồ đề, dùng pháp
    Thiền Bát nhã Tam muội phản quán chiếu soi, trải qua 49 ngày liền chứng
    quả Phật, than rằng: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều sẵn đủ đức
    tướng trí huệ của Như lai, nhưng chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể
    chứng đắc”. Thích Ca sau khi thành Phật, muốn dùng sở chứng của Ngài
    khai thị cho chúng sanh khiến ngộ, nhập Tri Kiến Phật, vì căn cơ chúng sanh
    muôn ngàn sai biệt, nên pháp của Như lai thuyết cũng muôn ngàn sai khác,
    nói đại khái có thể chia làm bốn thừa: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, và
    Tối thượng thừa. Tiểu thừa tu thiền Tứ Đế, gọi là Thanh văn thừa; Trung
    thừa tu thiền Thập Nhị Nhân Duyên, gọi là Duyên giác thừa; Đại thừa tu
    thiền Lục Độ, gọi là Bồ tát thừa; Tối thượng thừa là chỉ thị trực tiếp Chơn
    như Phật tánh, chỉ có người chứng nói với người chứng mới biết được, gọi là
    Nhất Phật thừa, tức là pháp thiền “Niêm hoa thị chúng”, cũng gọi là Giáo
    ngoại biệt truyền vậy.
    Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu có chúng sanh căn cơ thấp kém thì thuyết hạnh
    Thanh văn cho họ; nếu căn cơ lanh lợi, ham Độc giác thì thuyết đạo Duyên
    giác cho họ; nếu có người từ bi, ham lợi ích chúng sanh thì thuyết hạnh Bồ
    tát cho họ; nếu có người tâm trí huệ thù thắng thì chỉ thị pháp Vô thượng của
    Như lai”.
    Phật Thích Ca dù giả thiết đủ thứ phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, nhưng
    tông chỉ duy nhất chẳng ngoài một việc kiến tánh thành Phật mà thôi, nói vì
    một nhân duyên đại sự ra đời là vậy. Nên duy có pháp Thiền được khiến
    chúng sanh đạt đến kiến tánh thành Phật, mới là sự phó chúc huệ mạng của
    chư Phật, chư Tổ.
    Kinh Pháp Hoa nói: “Trong mười phương quốc độ, duy có pháp Nhất Thừa,
    chẳng hai cũng chẳng ba, ngoài Phật thuyết phương tiện, chỉ dùng giả danh
    tự, dẫn dắt cho chúng sanh, nên nói trí huệ Phật, chỉ một sự thật này, ngoài
    ra đều chẳng chơn”.
    Khi Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử đều lấy tu Thiền làm cơ bản, sau khi
    Phật Thích Ca nhập diệt, do pháp Thiền cao thấp thành có bốn thừa, nhưng
    đồng thời được các tông chú trọng. Thiền tông độc lập thành một tông phái
    là bắt đầu từ Trung Quốc.





    Coi Nguon TT - 11.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  2. #2
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    CHƯƠNG I

    1- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN

    2- PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA


    3- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ SƠ TỔ CA DIẾP.

    Các pháp môn truyền dạy từ Phật Thích Ca đã có bốn thừa sai biệt, thì pháp
    Thiền của họ tu bèn có trực tiếp và gián tiếp khác nhau, như: Thế gian
    Thiền, Xuất thế gian Thiền, Thượng thượng Thiền, cho đến Ngũ chủng
    Thiền, Lục chủng đại Thiền… danh hiệu rất nhiều, có cách tu được kiến
    tánh, cũng có cách tu chỉ được sanh cõi Trời mà chẳng thể kiến tánh, nhưng
    đều chẳng xuất phát từ Thiền tông Trung Quốc.

    Dù nói Thiền tông Trung Quốc, nhưng bắt đầu từ Sơ tổ Ma Ha Ca Diếp,
    truyền đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, truyền vào Trung Quốc làm Sơ tổ,
    ấy là sự y cứ để kiến lập Thiền tông. Sự tích của chư Tổ từ đời từ đời truyền
    xuống đều có ghi rõ trong Truyền Đăng Lục, độc giả muốn biết rõ thì hãy tự
    xem lấy, ở đây chẳng thể kể xiết.

    ---o0o---

    4- PHÁP THIỀN TẠI TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI TỔ ĐẠT MA CHƯA ĐẾN

    Trước khi tổ Đạt Ma chưa đến, các kinh Thiền đã truyền vào Trung Quốc rất
    nhiều. Hằng Đế đời Hậu Hán có Sa môn An Thế Cao thông suốt kinh luận,
    lại giỏi về pháp Thiền, đến thành phố Lạc Dương, dịch kinh hơn trăm bộ,
    trong đó có các kinh nói về pháp Thiền gồm: Đại ban An Thủ Ý Kinh hai
    quyển, Thiền Hạnh Pháp Tưởng Kinh một quyển, Đại Thập Nhi Môn Kinh
    một quyển, Tiểu Thập Nhị Môn Kinh một quyển, Thiền Hạnh Ba Mươi Bảy
    Phẩm Kinh một quyển, Thiền Định Phương Tiện Thứ Đệ Pháp Kinh một
    quyển, Thiền Pháp Kinh một quyển.

    Cuối đời nhà Hán, có Cư sĩ Chỉ Khiêm người nước Nhục Chi đến Lạc
    Dương, dịch Tu Hành Phương Tiện Kinh hai quyển, Thiền Bí Yếu Kinh bốn
    quyển. Đời Tam Quốc có Khương Tăng Hội đến Dương Đô, dịch Tọa Thiền
    Kinh một quyển. Đời Tây Tấn có Sa môn Trúc Pháp Hộ dịch Hữu Pháp
    Quán Kinh một quyển; lại có Phật Đà Bạt Đà đến Trường An chuyên hoằng
    pháp Thiền, sau ứng lời mời của Huệ Viễn pháp sư ở Lư Sơn, dịch Đạt Ma
    Đa La Thiền Kinh hai quyển, ngài Cưu Ma Thập có dịch Thiền Bí Yếu Pháp
    Kinh ba quyển, Tọa Thiền Tam Muội Kinh hai quyển, Thiền Pháp Yếu Giải
    hai quyển, Tư Duy Lược Yếu Pháp một quyển… Ngoài ra còn nhiều lắm
    chẳng thể kể xiết.

    Các Kinh kể trên phần nhiều thuộc pháp Thiền Tiểu thừa, Trung thừa, các sư
    như An Thế Cao và Giác Hiền chuyên hoằng về pháp Thiền Tiểu thừa, Cưu
    Ma Thập là người Đại thừa mà dịch Thiền Kinh chẳng giống Đại thừa, cho
    đến Đạt Ma Đa La Thiền Kinh và Tọa Thiền Tam Muội Kinh xưa kia được
    xem là Đại thừa Thiền, nhưng ở trong cũng xen vào Thiền Trung thừa và
    Tiểu thừa. Đủ thứ pháp Thiền kể trên gọi là Thiền Số Chi Học, khác hẳn với
    Thiền “chẳng lập văn tự” của Thiền tông.

    Thiền Số Chi Học là Thiền tu tập theo thứ lớp, từ nhân đến quả, mà pháp
    Thiền của tổ Đạt Ma là chỉ thẳng bản tâm, đốn ngộ thành Phật, chẳng có giai
    cấp và thứ lớp. Người ta thấy đệ tử ngài La Thập là Đạo Sanh có cái thuyết
    “Đốn ngộ thành Phật”, bèn cho Thiền tông xuất phát từ Cưu Ma La Thập, ấy
    là sai lầm.

    Cùng thời với tổ Đạt Ma có Bửu Chí hòa thượng, Bố Đại Sĩ, Hàn Sơn, Thập
    đắc, Bố Đại hòa thượng, đều là người minh tâm kiến tánh, nhưng thừa kế
    thầy nào chẳng rõ, sở duyên ngộ đạo cũng chẳng thể khảo sát.


    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  3. #3
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    5- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ TỔ ĐẠT MA

    Trước khi tổ Đạt Ma chưa đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều Trung,
    Tiểu nhị thừa, kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối tu ngày càng phức tạp và chi
    ly, học giả ít được chứng ngộ. Khi tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn
    Tâm địa của Như lai, pháp ấy lại giản dị trực tiếp, thấu thoát ra ngoài cương
    yếu của giáo môn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Từ đó pháp
    Thiền riêng mở một trạng thái mới lạ. Lúc ban sơ vì phương pháp cao siêu,
    ít người được khế hội, nên ngồi im lặng chín năm để đợi người đặng truyền
    thừa, về sau ngày tin càng đông thêm, sự ảnh hưởng làm cho pháp Thiền và
    giáo lý đã truyền từ xưa bị lay động, nên đã sáu lần bị đầu độc, nhưng pháp
    môn trực chỉ của Thiền tông đã thay thế cho địa vị pháp Thiền cũ mà thịnh
    hành khắp Trung Quốc.

    Xem qua lời vấn đáp của tổ Đạt Ma đều là pháp chỉ thị Phật tánh, thẳng vào
    cội nguồn Bản thể. Trong Truyền Đăng Lục có ghi: “Nhập Đạo Tứ Hạnh”
    của Tổ dạy, cứu xét kỹ do người khác giả mạo, so với ý nghĩa lời nói của
    Ngài hoàn toàn khác hẳn, như trong bài nói “Bỏ vọng về chơn”, “Im lặng
    ngó hẳn vách tường”, “Dứt tưởng chẳng cầu, có cầu đều khổ, chẳng cầu mới
    vui”, “Chẳng có bỏn xẻn đối với thân mạng tiền tài, theo hạnh xả bỏ bố thí,
    tâm chẳng hối tiếc”… Những lời này toàn là lời dạy của Trung, Tiểu nhị
    thừa, so với lời “Quách nhiên vô thánh”, “Vô hữu công đức” của tổ Đạt Ma
    thì ý chỉ tuyệt nhiên xa cách, trí thông với nghẽn đã phân biệt rõ ràng.
    Thiền tông sau khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu có tu thì chẳng phải triệt
    ngộ, tổ Đạt Ma là bậc Thánh đã ngộ, đâu cần hướng vách tu thiền! Lại từ
    xưa nay chư Tổ của Thiền tông đều phản đối sự lắng tâm tĩnh tọa, Lục Tổ
    nói: “Kẻ mê lắng tâm tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, bọn này
    chẳng thể dạy bảo, vì tà kiến đã sẵn”. Lại nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh
    chẳng phải Thiền, ngồi lâu trói thân, có ích lợi gì!”

    Pháp Thiền của tổ Đạt Ma phế bỏ hư văn, chỉ ngay thực tế, khiến người đốn
    ngộ cội nguồn, thẳng chứng quả Phật, nên được quét sạch những tệ đoan
    phức tạp và chi ly, khiến Thiền học từ suy sụp trở thành thịnh vượng, thành
    một Tông phái lớn. Ngài truyền kinh Lăng Già để ấn tâm, và chư Tổ đời sau
    dùng hét dùng gậy, dùng phẩn nộ chửi mắng, cho đến dùng nhướng mày
    chớp mắt để tiếp dẫn hậu học, với Tông chỉ Lăng Già, niêm hoa thị chúng
    đều chẳng khác biệt.

    Tổ Đạt Ma được tôn làm Sơ Tổ của Thiền tông, truyền cho nhị tổ Huệ Khả,
    tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đến lục tổ Huệ Năng,
    môn đồ của Lục Tổ ngộ đạo rất nhiều, Thiền phong đại thịnh, Tứ Tổ có chi
    nhánh Pháp Dung thiền sư ở núi Ngưu Đầu, cũng rất thịnh vượng, người đời
    xưng là Ngưu Đầu Thiền, hành trạng và lời khai thị của chư Tổ đều có ghi
    trong Truyền Đăng lục.






    Coi Nguon TT - 12.jpg Coi Nguon TT - 13.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  4. #4
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    6- LỤC TỔ HUỆ NĂNG VỚI KINH PHÁP BẢO ĐÀN

    Tổ Đạt Ma truyền pháp Thiền trực chỉ của Phật Thích Ca, đến lục tổ Huệ
    Năng được phát huy cùng tột, từ đó Thiền tông được đại thành tựu. Lục Tổ
    vốn là một Sa môn không biết chữ, nhưng trí huệ tuyệt đỉnh, phàm sở phát
    huy đều xuất phát từ biển giác của Như lai, trực tiếp rốt ráo, cắt đứt tất cả
    dây dưa, trừ bỏ tất cả sai lầm, rất là thân thiết, rất là thấu triệt.

    Trước kia trong Phật giáo đối với lý đốn tiệm của Pháp thân tự tánh, phần
    nhiều kẹt nơi văn tự. Lục Tổ trực tiếp chỉ ra, như thổi tan mây mù mà bỗng
    hiện trong sáng, chẳng còn một hạt bụi để ngăn cách, do đó Thiền tông
    truyền bá rất rộng, người được lợi ích rất nhiều, cho đến kẻ cu ly hạ tiện, bà
    già tay bưng vai gánh rêu rao mua bán ngoài đường đều biết Tham thiền,
    đều được ngộ đạo. Từ lúc ấy, người minh tâm kiến tánh chẳng thể kể xiết,
    thật là việc hưng thịnh từ xưa nay chưa từng có.

    Bản sắc “chẳng lập văn tự” của Thiền tông từ Sơ Tổ cho đến ngũ tổ Hoằng
    Nhẫn, những lời dạy bảo truyền thừa rất ít, đến lục tổ Huệ Năng mới có kinh
    Pháp Bảo Đàn ra đời, pháp Thiền của tổ Đạt Ma tới đây mới được trọn vẹn
    hiển bày. Lý đạo phát huy trong kinh Pháp Bảo Đàn hoàn toàn xuất phát từ
    tự tánh, mỗi lời mỗi chữ đều chẳng lìa tự tánh, bởi vì sau khi chứng ngộ thì
    trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đem ra đều là tự tánh.

    Pháp của Lục Tổ nói là: Trì tự tánh giới, phát tự tánh nguyện, nhờ tự tánh
    lực, độ tự tánh chúng sanh, quy y tự tánh Phật. Lục Tổ nói: “Thiện tri thức,
    nơi niệm niệm tự thấy bản tánh trong sạch, tự tu, tự hành, tự thành Phật
    đạo”. Lại nói: “Pháp sở thuyết của ta chẳng lìa tự tánh, nếu lìa bản thể thuyết
    pháp gọi là tướng thuyết, làm cho tự tánh thường mê. Phải biết tất cả vạn
    pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là Giới, Định, Huệ chơn thật”.

    Thiền tông lấy Niết bàn diệu tâm làm bản thể. NIết bàn diệu tâm tức là Lục
    Tổ nói: “Bản nguyên tự tánh”, vậy kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu khởi chơn
    chánh Bát nhã, trong một sát na vọng niệm đều diệt, nếu biết tự tánh, hễ ngộ
    liền đến địa vị Phật. Thiện tri thức, trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng tỏ,
    nhận tự bản tâm, nếu nhận được bản tâm, tức vốn giải thoát; nếu được giải
    thoát tức là Bát nhã tam muội”.

    Thế nào là Bát nhã Tam muội? Người tham thiền cần phải biết rõ, nay đặc
    biệt giảng rõ như sau:
    Bát nhã có ba thứ:
    1/ Thật tướng Bát nhã (Thể).
    2/ Quán chiếu Bát nhã (Trí).
    3/ Phương tiện Bát nhã (Dụng).


    Nói một cách khác: Thật tướng bát nhã tức là Phật tánh, quán chiếu Bát nhã
    là kiến, văn, giác, tri, phương tiện Bát nhã tức là lục căn. Lúc đang tu hành,
    dùng quán chiếu Bát nhã làm chủ, sai khiến phương tiện Bát nhã để đập tan
    vô thỉ vô minh thì chứng Thật tướng Bát nhã. Sau khi chứng ngộ, Thật
    tướng tức là Bản thể Phật tánh, quán chiếu phương tiện là diệu dụng Phật
    tánh. Thật tướng là Định, quán chiếu phương tiện là Huệ; Thật tướng (Phật
    tánh) là Pháp thân, quán chiếu (kiến văn giác tri) là Báo thân, phương tiện
    (lục căn) là Ứng thân, ba tức một, một tức ba, gọi là nhất thể tam thân, thể
    dụng như một, Định, Huệ bình đẳng, diệu dụng Hằng sa.

    Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Tâm lượng rộng lớn, cùng khắp pháp giới, dụng
    tức liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả là một, một là tất cả,
    khứ lai tự do, tâm thể vô ngại, tức là Bát nhã”. Lại nói: “Tất cả trí Bát nhã
    đều từ tự tánh mà ra, chẳng từ ngoài vào, chớ nhận lầm tự tâm, gọi là Chơn
    tánh tự dụng”.

    Về việc phá tan vô thỉ vô minh, kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nên dùng đại Trí
    huệ (quán chiếu Bát nhã) phá tan ngũ uẩn trần lao (vô thỉ vô minh), tu hành
    như thế nhất định thành Phật”. Lúc dụng công phu tham thiền, dùng trí huệ
    Bát nhã hướng ngay chỗ hầm sâu vô minh chiếu soi, chiếu đến khi sơn cùng
    thủy tận, cơ duyên thuần thục, “Ồ” lên một tiếng thì hầm sâu vô minh bị phá
    tan, trong một sát na Phật tánh được hiện tiền, kinh Duy Ma Cật nói: “Ngay
    đó hoát nhiên, liền đắc bản tâm” là vậy, lúc ấy Tam thân, Tứ trí, Ngũ nhãn,
    Lục thông, viên mãn cụ túc, chẳng thiếu chẳng dư, gọi là Bát nhã tam muội,
    cũng gọi là Minh tâm kiến tánh.






    Coi Nguon TT - 14.jpg Coi Nguon TT - 15.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  5. #5
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    7- HÀ TRẠCH THẦN HỘI ĐỊNH TÔNG CHỈ NAM TÔNG

    Lục tổ Huệ Năng và Thần Tú đại sư đều là đệ tử của Ngũ Tổ, Thần Tú chủ
    trương Tiệm tu, chưa minh tâm kiến tánh, nên bài kệ “Thân như cây bồ đề”
    là phát huy nơi Nhân địa. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh, nên bài kệ “Bồ đề
    vốn chẳng cây” là phát huy nơi Quả địa, ngay đó đem Niết bàn Diệu tâm
    trọn vẹn trình ra được Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho y pháp.

    Lúc Lục Tổ đang hoằng tông chỉ Đạt Ma ở Tào Khê, Thần Tú đại sư thì
    xướng pháp Thiền tiệm tu ở Nam Kinh, gọi là Bắc tông. Sau khi Lục Tổ
    viên tịch, pháp tiệm tu của Bắc tông ngày càng hưng thịnh, môn đồ của Thần
    Tú có ba vị Quốc Sư, trong đó có Phổ Tịch thiền sư danh giá cao nhất, từng
    làm Quốc Sư trải qua ba đời vua Tắc Thiên, Trung Tông và Duệ Tông. Phổ
    Tịch tôn Thần Tú làm Lục Tổ, tự xưng là Thất Tổ, tông chỉ của Tào Khê
    ngày càng chìm lặng, do đó đệ tử của Lục Tổ là Thần Hội thiền sư, phấn
    chấn đứng ra chỉ trích môn tiệm tu của Bắc tông chẳng phải chánh thống của
    tổ Đạt Ma, chỉ có tông chỉ Tào Khê mới là đích truyền. Ngày 15 tháng giêng
    năm thứ 20 niên hiệu Khai Nguyên, Ngài ở Hoạt Đài (Hoạt Huyện tỉnh Hà
    Nam) Đại Vân Tự thiết lập vô giá đại hội, xác định pháp thống Thiền tông
    do tổ Đạt Ma truyền. Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Hữu, một lần nữa xác định
    tông chỉ Nam tông tại Lạc Dương, từ đó chánh thống Thiền tông là Lục Tổ
    Tào Khê mới được xác định.

    Thần Hội xác định Tông chỉ là công thần của Thiền tông mà lịch sử ít ghi
    chuyện này, nơi thạch động Đôn Hoàng có ghi bài “Bồ Đề Đạt Ma Nam
    Tông Thị Phi Luận do Độc Cô phái soạn” hiện nay lưu tại viện bảo tàng Ba
    Lê, trong bài này là ghi việc định Tông chỉ của ngài Thần Hội ở Đại Vân Tự
    Hoạt Đài.

    Thần Hội còn có bài Hiển Tông Ký để hiển bày Tông chỉ của Tào Khê,
    ngoài ra tác phẩm Chứng Đạo Ca cũng làm cùng lúc xác định Tông chỉ. Nay
    Chứng Đạo Ca đổi tên là Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca, nhưng tôi đã từng thấy
    một bản đời nhà Tống ghi rõ tác giả là Thần Hội, nay trích ra mấy đoạn
    trong Chứng Đạo Ca để chứng tỏ:

    Dựng pháp tràng, lập tông chỉ,
    Rõ ràng Tào Khê là kế thừa,
    Bắt đầu truyền đăng từ Ca Diếp,
    Hai mươi tám đời truyền từ Ấn,
    Pháp lưu Đông, vào đất này,
    Bồ Đề Đạt Ma làm Sơ Tổ,
    Sáu đời truyền y thiên hạ hay,
    Đời sau đắc đạo vô số kể.


    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  6. #6
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    7- HÀ TRẠCH THẦN HỘI ĐỊNH TÔNG CHỈ NAM TÔNG

    ..........
    Khi xác định Tông chỉ giành chánh thống ở Hoạt Đài, bằng chứng hiệu lực
    nhất là việc truyền y pháp, trong Hiển Tông Ký có nói: “Sau khi Thế Tôn
    nhập diệt, hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ cùng nhau truyền tâm vô trụ, đồng
    thuyết tri kiến của Như lai, cho tới tổ Đạt Ma đến Trung Quốc là Sơ Tổ,
    truyền Y để làm tin cho Pháp, Pháp là chỗ nương của Y, Thiền tông lấy Y,
    Pháp tương truyền, ngoài ra chẳng có pháp khác. Trong truyền Tâm ấn để ấn
    chứng Bản tâm, ngoài truyền Cà Sa để đại biểu Tông chỉ”.

    Trong Nam tông xác định Thị Phi Luận có nói: “Nay Thần Hội có thiết lập
    vô giá đại hội và trang nghiêm đạo tràng, chẳng vì công đức, chỉ muốn xác
    định Tông chỉ cho người học khắp thiên hạ, vì tất cả người học đạo phân rõ
    thị phi”.

    -Than mạt pháp, thời ác thế,
    Chúng sanh phước kém khó dạy dỗ,
    Cách xa bậc Thánh tà kiến sâu,
    Ma mạnh pháp yếu nhiều oán ghét.
    Vừa nghe đốn giáo của Như lai,
    Liền muốn diệt cho tan rã hết.
    ٭
    -Pháp viên đốn chẳng nhơn tình,
    Nghi chẳng giải quyết cần phải giành,
    Chẳng phải Sơn Tăng chấp nhơn ngã,
    Tu hành sợ đọa hầm đoạn thường.


    Theo việc tranh luận của ngài Thần Hội là muốn phá cửa Tiệm tu của Thanh
    Tịnh Thiền mà kiến lập cửa Đốn ngộ của Tổ Sư Thiền vậy.

    -Mặc người phỉ, mặc người báng,
    Lấy lửa đốt trời tự lao nhọc,
    Ta nghe đồng như uống cam lồ,
    Tiêu tan bỗng vào bất tư nghì.
    Quán ác ngôn là công đức,
    Phỉ báng ta là thiện tri thức,
    Chẳng vì phỉ báng nói yêu ghét,
    Sao tỏ vô sanh từ nhẫn lực.


    Khi ngài Thần Hội định Tông chỉ, bị người Bắc tông vu khống mà bị vua
    đày, nên mới có lời nói trên. Trong Nam Tông Định Thị Phi Luận nói: “Nay
    ta hoằng dương Đại thừa, kiến lập Chánh pháp, khiến tất cả chúng sanh đều
    hay biết, đâu tiếc thân mạng!”

    -Mặt trời lạnh, mặt trăng nóng,
    Bọn ma chẳng thể hoại chánh thống.
    Xe voi trên đường đang tiến tới,
    Bọ ngựa đâu thể chận lại được!
    Voi lớn chẳng dạo đường con thỏ,
    Đại ngộ chẳng kẹt nơi việc nhỏ.
    Chớ nhìn ống hẹp bóng hư không,
    Nay ta vì ông giải quyết xong.


    Ngoài ra như:

    “Gọi người gỗ máy lên để hỏi,
    Dụng công cầu Phật lúc nào thành”.


    “Yêu quái trăm năm uổng mở miệng”...

    đều là chỉ trích môn tiệm tu Thanh Tịnh Thiền. Xét kỹ toàn bộ Chứng Đạo
    Ca đều là ngài Thần Hội vì xác định Tông chỉ mà nói ra, so với ý chỉ trong
    Vĩnh Gia Tập hiển nhiên chẳng đồng. Ngài Vĩnh Gia trước học Thiên Thai,
    lời nói trong tập còn nhiều giọng nói giống tông Thiên Thai, nên biết Chứng
    Đạo Ca là tác phẩm của ngài Thần Hội, có thể vì người đời sau muốn tránh
    sự ác cảm của Bắc tông, nên gán tên cho ngài Vĩnh Gia mà thôi. Thiền tông
    ở ngày nay gai gốc khắp đường, lý Đốn Tiệm hỗn độn chẳng thể phân biệt,
    có ai kế tiếp theo ngài Thần Hội, phấn chấn khởi lên tái định Tông chỉ của
    Tào Khê chăng?


    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  7. #7
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    8- GIA PHONG CỦA NĂM PHÁI THIỀN.

    Dưới cửa Lục Tổ có bốn ba người đắc pháp, mỗi mỗi hóa độ một phương,
    đều là chánh thống, trong đó có Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên
    Hành Tư và Hà Trạch Thần Hội nổi bậc nhất. Phái Nam Nhạc sau này sanh
    ra Lâm Tế và Qui Ngưỡng hai tông, phái Thanh Nguyên sau này sanh ra
    Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động ba tông. Mỗi tông đều có phương pháp
    riêng để tiếp dẫn hậu học, gọi chung là Ngũ gia gia phong. Phái Hà Trạch
    truyền đến Khuê Phong Tông Mật, vốn là người tông Hoa Nghiêm, thuộc
    giáo môn, chưa thể gánh vác tông chỉ Tào khê mà mong điều hòa Thiền tông
    với các tông Giáo môn, lọt vào ngôn thuyết kiến giải, làm cho phái Hà Trạch
    Thần Hội tuyệt truyền, chỉ còn phái Nam Nhạc Thanh Nguyên được người
    đời sau công nhận là phái đích truyền của Tào Khê.

    Nam Nhạc có Mã Tổ cũng như Thanh Nguyên có Thạch Đầu, Mã Tổ được
    sự thọ ký “Dưới chân chà đạp khắp người thiên hạ”, còn Thạch Đầu thì có
    tiếng tăm “Thạch đầu đường trơn”. Mã Tổ chủ hóa Giang Tây, Thạch Đầu
    chủ hóa Hồ Nam, người tham học từ bốn phương đều tìm đến cửa hai phái,
    rất là thịnh vượng. Dưới cửa Mã Tổ có đệ tử một trăm ba mươi chín người
    ngộ đạo, trong đó có Bá Trượng Hoài Hải nổi bật nhất, ngài Bá Trượng là
    người bắt đầu sáng lập Thiền viện, soạn Thanh qui của Tòng lâm, đệ tử bậc
    thượng là Huỳnh Bá Hy Vận, Qui Sơn Linh Hựu. Dưới Huỳnh Bá có Lâm
    Tế Nghĩa Huyền, là Tổ của Lâm Tế tông.

    Qui Sơn là Tổ của Qui Ngưỡng tông, dưới Qui Ngưỡng có Ngưỡng Sơn Huệ
    Tịch, do thầy trò Qui Sơn, Ngưỡng Sơn xướng họa với nhau cùng phát
    dương mà thành gia phong của bản Tông.

    Dưới Thạch Đầu người đắc đạo cũng nhiều, trong đó Thiên Hoàng Đạo Ngộ,
    Dược Sơn Duy Nghiễm hai nhánh là chủ lưu, dưới Đạo Ngộ truyền qua
    Long Đàm Sùng Tín, Đức Sơn Tuyên Giám, đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn,
    Thiền phong chấn hưng, tứ chúng nhiễu quanh thường hơn một ngàn năm
    trăm người, đệ tử tiếp nối có Vân Môn Văn Yểm, Huyền Sa Sư Bị tất cả
    năm mươi sáu người, Văn Yểm là Tổ của Vân Môn tông.

    Dưới Huyền Sa truyền qua La Hán Quế Sâm, đến Pháp Nhãn Văn Ích là Tổ
    của Pháp Nhãn tông.
    Dưới Dược Sơn Duy Nghiễm truyền qua Vân Nham Đàm Thạnh, đến Động
    Sơn Lương Giới với đệ tử Tào Sơn Bổn Tịch cùng nhau sáng lập Tào Động
    tông. Ấy là cội nguồn thành lập của năm phái Thiền.
    Nói gia phong là tác phong riêng biệt của mỗi Tổ dùng để phát dương Tông
    chỉ biệt truyền của Thiền tông. Chư Tổ minh tâm kiến tánh dù đồng nhau,
    nhưng cá tánh mỗi mỗi chẳng đồng, nên phương pháp tiếp dẫn hậu học mới
    có sự khoan hồng, oai mãnh, ôn hòa, gấp bách mỗi mỗi khác nhau. Nói tóm
    lại, gia phong của các phái trong Thiền tông đều lấy “Niêm hoa thị chúng”
    của Phật Thích Ca làm mô phạm.

    Phương pháp phổ biến nhất của chư Tổ Trung Quốc là dùng gậy, dùng hét
    để tiếp dẫn hậu học. “Gậy” bắt đầu Lục Tổ đánh Thần Hội, “Hét” bắt đầu từ
    Mã Tổ tiếp Bá Trượng, tác dụng với niêm hoa chẳng khác. Cho đến Ca Diếp
    giơ tay, A Nan hiệp chưởng, nhị tổ Huệ Khả lễ bái xong về đứng chỗ cũ, Mã
    Tổ dựng phất trần, quăng phất trần, Bí Ma giơ chỉa, Hòa Sơn đánh trống,
    Thạch Cũng giương cung, tuyết Phong đá cầu, Quốc Sư để chén nước, Qui
    Tông kéo đá, La Hán vẽ chữ, Đại Tùy hầm khoai, Đức Sơn vào cửa liền đập,
    Lâm Tế vào cửa liền hét, “Là cái gì?” của Bá Trượng, “Chớ vọng tưởng”
    của Vô Nghiệp, Triệu Châu uống trà, Vân Môn ăn bánh, tất cả đều chẳng
    khác với sự niêm hoa thị chúng của Phật Thích Ca. Ấy đều là chư Tổ tùy cơ
    phát huy dùng để tiếp dẫn hậu học, vốn chẳng qui tắc nhất định. Như Lâm
    Tế Nghĩa Huyền thiết lập các quan ải Tam Huyền Tam Yếu và Tứ Liệu giản
    để khám xét đồ chúng, tiếp dẫn hậu học, con cháu truyền thừa nhau tỏ ra
    thành gia phong.




    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •