Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã
Mây trắng (11-17-2021)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪATác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư__________________________________________________ ______________________________________
LUẬN TỔNG QUÁT
I- ĐỊNH NGHĨA CỦA THIỀN.
II- PHÁP THIỀN RA ĐỜI LÀ DO NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI
III- SỰ KHÁC BIỆT CỦA THIỀN HỌC VỚI HÌNH NHI THƯỢNG HỌC
IV- MUỐN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BẢN THỂ CHỈ CÓ CÁCH THAM THIỀN
CHƯƠNG I - CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
1- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN
2- PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA
3- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ SƠ TỔ CA DIẾP.
4- PHÁP THIỀN TẠI TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI TỔ ĐẠT MA CHƯA ĐẾN
5- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ TỔ ĐẠT MA
6- LỤC TỔ HUỆ NĂNG VỚI KINH PHÁP BẢO ĐÀN
7- HÀ TRẠCH THẦN HỘI ĐỊNH TÔNG CHỈ NAM TÔNG
8- GIA PHONG CỦA NĂM PHÁI THIỀN.
CHƯƠNG II - YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
1- Ý NGHĨA “GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, CHẲNG LẬP VĂN TỰ”
2- SỰ KHÁC BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN
3- ĐẠI Ý CỦA BỐN THỪA
4- MỤC ĐÍCH CỦA THAM THIỀN
5- CÁC LOẠI THIỀN
CHƯƠNG III - THỈNH ÍCH (HỎI ĐẠO)
Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã
Mây trắng (11-17-2021)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪATác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư__________________________________________________ ______________________________________
LUẬN TỔNG QUÁT
Thế nào gọi là Thiền?
I- ĐỊNH NGHĨA CỦA THIỀN.
Thiền Na là tiếng Ấn Độ, xưa dịch là Tư Duy Tu, sau dịch là Tịnh Lự, gọi
tắt là Thiền.
Trước đời Phật Thích Ca, có ông Phất Đang La (Nirgranto Jnati Putra) đã
sáng lập giáo phái Thiền Na, dùng khổ hạnh để tu luyện. Sau này Phật Thích
Ca lập ra sáu thứ Ba La Mật, cái thứ năm cũng gọi là Thiền Na. Kỳ thực hai
chữ Thiền Na chỉ là một tên gọi thông thường về phương pháp tu luyện.
Ngôn giáo của Phật Thích Ca bất cứ Đại thừa, Tiểu thừa đều lấy Tu Thiền
làm chủ yếu. Các phái ngoại đạo mỗi mỗi đều tự lập pháp Thiền của họ. Tên
gọi dù đồng nhau, nhưng tính chất nội dung mỗi mỗi chẳng đồng, như Mười
Hai Tịnh Pháp Thiền của Phất Đang La, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng của Bà
La Môn đều khác; nói về Thiền của Phật giáo như Lục Độ Thiền của Đại
thừa, Tứ Đế và Thập Nhị Nhân Duyên của Tiểu thừa đều khác nhau. Còn
Bất Lập Văn Tự Thiền của Tối thượng thừa, gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”,
là do Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt
Ma truyền vào Trung Quốc. Phái Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực
hành, chẳng lập văn tự lý luận, nên gọi là Thiền tông, khác hẳn với các phái
Thiền kia.
Thiền tông ở Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống rất là thịnh vượng,
truyền đến ngày nay vẫn còn phổ biến khắp nơi. Cho nên người ta nói đến
hai chữ “Tham Thiền” đều chỉ pháp Thiền của Thiền tông này. Kỳ thật ở
trong Phật giáo, từ Tiểu thừa cho đến Đại thừa, các tông các phái mỗi mỗi
đều có pháp Thiền riêng biệt, lý lẽ và phương pháp, trực tiếp hay gián tiếp,
tích cực hay tiêu cực mỗi phái mỗi khác. Xét theo lịch sử kể trên, chúng ta
muốn lập ra một định nghĩa chính xác của chữ Thiền thật là rất khó, nhưng
quyển sách này chỉ sáng tỏ về pháp Thiền của tổ Đạt Ma truyền vào Trung
Quốc. Do đó chúng ta chỉ có thể dựa theo tông chỉ của Thiền tông, giả thiết
một định nghĩa cho chữ Thiền.
Theo pháp tu thông thường, đối với khái niệm của chữ Thiền là từ nhân đến
quả, tức là từ nhân vị theo thứ lớp tu tập cho đến chứng quả thành Phật, đều
là những phương pháp Tiệm tu. Nhưng theo khái niệm của Thiền tông thì
chẳng phải vậy, vì đường lối thực hành của Thiền tông là pháp trực tiếp,
ngay đó hiện thị quả Phật. Chư Tổ nói: “Thấy phải thấy ngay, suy nghĩ là
sai”.
Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã
Mây trắng (11-17-2021)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪATác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư__________________________________________________ ______________________________________
Kỳ thật quả đã được rồi thì nhân cũng đồng thời giải quyết xong, cho
nên nói là Thiền Đốn Ngộ. Định nghĩa của Thiền Đốn Ngộ là “Chẳng lập
văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Tại sao phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự? Vì văn tự là một tên gọi
giả danh, phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu hiện ra, nên chỉ là một việc
gián tiếp, còn bản thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là một sự thực tế
rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà đến được, vậy
cách gián tiếp ngôn ngữ văn tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả. Nên Phật
Thích Ca nói: “Ta thuyết pháp 49 năm, chưa từng nói một chữ”, lại nói:
“Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng
thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng”. Thế thì ngôn ngữ văn tự là ngón tay
để chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng, chỉ là một việc gián
tiếp, sự chỉ thị gián tiếp dù cũng là một phương pháp để đạt đến bản thể
chơn tâm, nhưng chẳng bằng sự rốt ráo giản dị của chỉ thị trực tiếp, lại sự chỉ
thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự) truyền đến đời sau, có người lại nhận lầm
cho ngón tay tức là mặt trăng. Do đó pháp Thiền trực tiếp Đốn ngộ của
Thiền tông bèn tùy nhu cầu thực tế mà ra đời, đồng thời phát triển rộng khắp
mọi nơi. Dù nói chẳng lập văn tự, nhưng chẳng phải phế bỏ văn tự, giá trị
của văn tự vẫn được chư Tổ của Thiền tông chú trọng, cũng như tổ Đạt Ma
dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học.
Thế Tôn ở nơi pháp hội Linh Sơn, đưa lên cành hoa, tất cả đại chúng đều
ngơ ngác, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp
nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng, Pháp môn vi diệu,
Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca
Diếp”. Từ đó pháp Thiền trực tiếp của Thiền tông căn cứ theo việc này lấy
Tâm truyền Tâm.
Coi Nguon TT - 01.jpg
Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã
cunconmocoi (11-16-2021),Mây trắng (11-17-2021)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪATác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư__________________________________________________ ______________________________________
Phương pháp trực tiếp biểu thị trực tiếp này, Phật Thích Ca đã dùng qua
nhiều lần, cũng như Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy Sắc hỏi Ngũ Phương
Thiên Vương rằng: Hạt châu này màu gì?
Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương tùy sự thấy của mình đều trả lời màu sắc
khác nhau.
Thế Tôn giấu hạt châu rồi lại đưa tay hỏi tiếp: Hạt châu này màu gì?
Các Thiên Vương nói: Trong tay Phật chẳng có hạt châu thì đâu còn màu
gì!
Thế Tôn nói: Các ngươi sao mê muội điên đảo quá? Ta đem hạt châu thế
gian cho xem thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, Ta thị hiện hạt châu chơn thật
thì chẳng biết gì cả!
Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương đều tự ngộ đạo.
Lại một hôm khác, ngoại đạo hỏi Thế Tôn: Không hỏi có lời, không hỏi
không lời?
Thế Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán rằng: “Thế Tôn đại từ đại bi,
khai phá đám mây mê muội cho con, khiến con được ngộ nhập”, đảnh lễ rồi
ra đi.
Ngài A Nan hỏi Phật: Ngoại đạo được lý lẽ gì mà tán thán?
Thế Tôn nói: Như con ngựa hay của thế gian, thấy bóng roi liền chạy nhanh.
Việc giấu hạt châu rồi đưa tay và im lặng giây lâu đều là phương pháp trực
tiếp chỉ thị bản thể của Chơn tâm, chẳng phải chỉ có một việc “Niêm hoa thị
chúng” mà thôi!
“Chẳng lập văn tự” chẳng phải tuyệt đối phế bỏ văn tự, nếu Phật Thích Ca
phế bỏ văn tự thì Tam tạng kinh điển từ đâu mà ra? Nếu tổ Đạt Ma tuyệt đối
phế bỏ văn tự thì chẳng nên dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học. Thiền
tông nói chẳng lập văn tự, bất quá dùng để sáng tỏ phương pháp trực tiếp và
phương pháp gián tiếp vốn là khác nhau mà thôi.
Coi Nguon TT - 02.jpg Coi Nguon TT - 03.jpg
Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã
cunconmocoi (11-19-2021),Mây trắng (11-17-2021)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪATác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư__________________________________________________ ______________________________________
II- PHÁP THIỀN RA ĐỜI LÀ DO NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI
Loài người đời Thượng Cổ ngu mê ngoan cố, trí tuệ bị vô minh che khuất,
linh tánh bị ngũ uẩn tam độc chi phối, sống trong cuộc sống dã man, nhưng
Phật tánh vốn viên mãn, giống như quặng thất bửu ẩn giấu dưới đất, chỉ đợi
người khai phá ra. Sau này trí thức mở mang, trước tiên đối với hiện tượng
thế giới cảm thấy đủ thứ kỳ lạ và nghi hoặc, rồi sanh tâm cầu bí mật của vũ
trụ, hy vọng được giải thích cho rõ ràng, kế đó trở lại tìm hiểu tự tâm, muốn
truy cứu nguồn gốc của sự biến hóa chẳng ngừng, sau cùng mới được nhờ
sức trí tuệ Bát nhã, mong chứng nhập cùng tột rốt ráo của Bản thể tự tánh để
vượt ra ngoài sanh tử luân hồi, ấy tức gọi là việc minh tâm kiến tánh thành
Phật vậy.
Ý nghĩa của hai chữ Như Lai là bổn lai như thế, vì Phật tánh và pháp Thiền
vốn sẵn đầy đủ, khắp không gian và thời gian, diệu dụng vô biên, nên Phật
Thích Ca thường dùng hai chữ Như Lai để đại diện cho bản thể Phật tánh và
diệu dụng, triệt để thấu rõ ý nghĩa của hai chữ Như Lai và giá trị chơn chánh
của pháp thiền.
Coi Nguon TT - 04.jpg
Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã
Mây trắng (11-17-2021)
Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)