DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 3/9 ĐầuĐầu 12345 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 21 tới 30 của 83
  1. #21
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    CHƯƠNG II - YẾU CHỈ THIỀN TÔNG

    1- Ý NGHĨA “GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, CHẲNG LẬP VĂN TỰ”

    Bích Nham Tập có bài bình xướng rằng: “Đạt Ma từ xa quán đất này có căn
    khí Đại thừa, bèn vượt biển đến Trung Quốc, chuyên truyền Tâm ấn khai thị
    cho kẻ mê, chẳng lập văn tự, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”.

    Nói “Chẳng lập văn tự”, vì văn tự phải nương bộ não suy nghĩ, suy nghĩ thì
    nương nhất nhiệm vô minh; nhất niệm vô minh hư huyễn chẳng thật, nên
    suy nghĩ văn tự cũng hư huyễn chẳng thật. Do hư huyễn chẳng thật gọi là
    tương đối, tương đối thì có sanh diệt, chẳng thể hiển bày tuyệt đối chẳng
    sanh diệt của bản thể, vì văn tự chẳng thể hiển thị Phật tánh, nên nói chẳng
    lập văn tự. Phật Thích Ca dùng lời nói văn tự để hoằng giáo pháp là do sự
    bất đắc dĩ, nên thí dụ ngón tay chỉ mặt trăng, vừa thuyết liền phá. Kinh Niết
    Bàn nói: “Bắt đầu từ Lộc Uyển, cuối đến sông Bạt Đề, khoảng giữa 50 năm,
    chưa từng thuyết một chữ” là vậy.


    Kinh Kim Cang nói: “Nếu nói Như lai có thuyết pháp tức là báng Phật,
    người ấy chẳng hiểu nghĩa sở thuyết của ta”. Ý cho rằng phàm thuộc về lời
    nói văn tự đều chẳng có nghĩa thật, tương đối chẳng thể diễn tả tuyệt đối.
    Phật Thích Ca vì từ bi độ chúng sanh, dù tạm mượn lời nói văn tự để thuyết
    pháp, chỉ gọi là phương tiện, nên khi đang thuyết pháp, thường cảnh cáo đại
    chúng chớ chấp lời nói là thật, để khỏi tự kẹt chẳng thông, đọa vào trong
    hầm sâu tương đối mà chẳng thể tự cứu.
    Phật đối với lời nói và nghĩa thật phân ra rõ ràng, chẳng cho lẫn lộn, thật rất khổ tâm.

    Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Những kẻ si mê nói rằng: Nghĩa như ngôn
    thuyết, nghĩa với thuyết chẳng khác. Tại sao? Vì nghĩa tự chẳng thân (không
    bản thể), ngoài ngôn thuyết chẳng còn nghĩa nào, nên nói nghĩa đúng như
    ngôn thuyết. Đại Huệ! Họ nói vậy là trí huệ bị cháy khét, chẳng biết Tự tánh
    ngôn thuyết, chẳng biết ngôn thuyết sanh diệt (pháp tương đối), nghĩa thì
    chẳng sanh diệt (pháp tuyệt đối). Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đều đọa nơi
    văn tự, nghĩa thì chẳng đọa, lìa tánh và phi tánh, cũng chẳng thân chẳng thọ.
    Đại Huệ! Như lai chẳng thuyết những pháp đọa văn tự, vì văn tự có với
    không đều bất khả đắc, nên nói chẳng đọa văn tự. Đại Huệ! Nếu nói Như lai
    thuyết những pháp đọa văn tự, ấy là hư vọng, vì pháp lìa văn tự, cho nên chư
    Phật và chư Bồ tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ. Tại sao? Vì
    pháp lìa văn tự (bản thể tuyệt đối chẳng dính dáng với văn tự). Dù ngôn
    thuyết là vọng tưởng của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn
    thuyết, nếu chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ bị hoại, nếu giáo pháp
    hoại thì chẳng còn chư Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, vậy ai thuyết
    cho ai? Đại Huệ! Đại Bồ tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng
    phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của
    chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi mỗi khác nhau của
    chúng sanh mà thuyết pháp, khiến lìa tâm (thức thứ tám _ A Lại Da thức),
    Ý (thức thứ bảy _ Mạt Na thức), và ý thức (thức thứ sáu); vì Tâm, Ý, Ý thức
    chẳng thể đạt đến chỗ tự giác Thánh trí vậy”.



    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  2. #22
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    Lời nói văn tự đối với bản thể của Phật tánh dù chẳng có giá trị để nói,
    nhưng đối với sự thuyết pháp độ sanh thì vẫn phải nhờ ngôn thuyết để làm
    công cụ chủ yếu, đến khi hội Linh Sơn Phật niêm hoa thị chúng, Ca Diếp tỏ
    ngộ, mới tuyên bố có pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự”
    để truyền cho Ca Diếp, pháp môn này là trực tiếp hiển bày thể dụng của Phật
    tánh, khiến chúng sanh chẳng nhờ văn tự mà trực tiếp ngộ nhập Bản thể của
    Chơn như. Các đại đệ tử được Thế Tôn dạy dỗ và huân tập đã lâu, Thế Tôn
    biết họ căn cơ đã thuần thục, nên đặc biệt truyền thị pháp môn vi diệu này,
    khiến đốn ngộ pháp Vô sanh, thẳng siêu Phật địa.

    Suy nghĩ, lời nói, văn tự cùng xuất phát từ nhất niệm vô minh. Khi một niệm
    chưa động, tịch nhiên trống rỗng, chẳng có tư tưởng cảm giác, dĩ nhiên cũng
    chẳng lời nói văn tự, đây gọi là vô thỉ vô minh. Khi vô thỉ vô minh bị kích
    thích, một niệm đã động, suy nghĩ liền sanh. Do suy nghĩ có lời nói, do lời
    nói mà lập văn tự, suy nghĩ là lời nói chẳng có tiếng, lời nói là suy nghĩ có
    tiếng, văn tự là nói có hình, lời nói là văn tự vô hình, cả ba đều gom trong
    chữ “tên gọi”. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Tên gọi” có hai thứ, một là tên
    gọi ngôn thuyết, hai là tên gọi suy tư. Nhà triết học Rousseau cũng nói “Tư
    tưởng là nói bên trong”, Lâm Tế thiền sư nói: “Tên gọi chẳng tự là tên gọi,
    chỉ do trước mắt ngươi cho là cái linh thiêng của kiến văn giác tri chiếu soi
    ấy, gắn cho tất cả tên gọi”. Nhưng cả ba đều khởi từ nhất niệm vô minh, nhất
    niệm vô minh có sanh có diệt, biến đổi vô thường, tên gọi văn tự cũng theo
    đó biến đổi vô thường. Vô thường thuộc tương đối, Phật tánh thuộc tuyệt
    đối, tương đối chẳng thể hiển bày tuyệt đối, nên tuyệt đối của Phật tánh chỉ
    có thể tự tu tự chứng mới có thể nhận biết được, chẳng thể dùng văn tự diễn
    tả, cũng chẳng thể dùng bộ não suy lường. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất
    nghĩa (Phật tánh tuyệt đối) là sở đắc của Thánh trí tự đắc, chẳng phải cảnh
    giới cảm giác của vọng tưởng ngôn thuyết, cho nên vọng tưởng chẳng thể
    hiển bày Đệ nhất nghĩa. Ngôn thuyết sanh diệt lay động do nhân duyên
    tương sanh với nhau, vì do nhân duyên tương sanh với nhau nên chẳng thể
    hiển bày Đệ nhất nghĩa”.



    Kinh Giải Thâm Mật nói: “Ta nói thắng nghĩa (Phật tánh) là sở chứng bên
    trong của bậc Thánh, việc làm suy tư (suy nghĩ đo lường) là sở chứng của
    chúng sanh”. Lại nói: “Sở hành của thắng nghĩa vô tướng, suy tư là hành
    theo cảnh giới có tướng. Thắng nghĩa chẳng thể ngôn thuyết, suy tư là hành
    theo cảnh giới ngôn thuyết; thắng nghĩa vốn tuyệt biểu thị, thắng nghĩa tuyệt
    cả tranh luận, suy tư là hành theo cảnh giới tranh luận”.
    Theo các kinh điển kể trên, nên biết suy nghĩ văn tự với Chơn như Phật tánh
    chẳng thể tiếp xúc với nhau. Người ta thường nói: “Chỉ có thể ý hội, chẳng
    thể ngôn truyền”. Kỳ thật tuyệt đối của Phật tánh dù muốn ý hội cũng chẳng
    thể được, huống là ngôn truyền ư! Chẳng những Phật tánh như thế, cho đến
    một kỹ thuật của thế gian chỗ huyền diệu của họ cũng chẳng thể ngôn truyền
    vậy.
    Như Trang Tử nói: “Hoàn Công đọc sách nhà trên, người thợ mộc đẽo bánh
    xe ở nhà dưới, buông chàng đục đi lên hỏi Hoàn Công rằng: xin hỏi sách
    Ngài đọc đó là sách gì?
    Hoàn Công trả lời: Lời nói của bậc Thánh.
    -Bậc Thánh đâu?
    -Chết rồi.
    Người đẽo bánh xe liền nói: Thế thì sách của Ngài đọc đó chỉ là cặn bả của
    bậc Thánh mà thôi!
    Hoàn Công nói: Quả nhân đọc sách, người thợ đẽo bánh xe sao được bàn
    luận? Nến nói có lý thì ta tha tội, nếu nói không được thì chém đầu.
    Người đẽo bánh xe thưa: Hạ thần đem việc của hạ thần ra mà xem, nếu hạ
    thần đẽo bánh xe hơi lỏng một chút thì xe chạy được nhưng không an toàn vì
    dễ sút ra, nếu đẽo hơi chặt thì bánh xe khít mà quay không được, do sự tự
    ngộ của hạ thần, tâm khiến tay, tay cầm búa đẽo vào bánh xe, chẳng lỏng
    chẳng chặt, dùng miệng chẳng thể nói, nhưng có sự tự động ở trong đó. Dù
    con của hạ thần cũng là một thợ mộc danh tiếng, nhưng hạ thần chẳng thể
    đem sự ngộ ấy để truyền dạy cho con. Nay hạ thần còn sống, có bánh xe, có
    búa, có tay mà còn truyền thọ chẳng được, huống là bậc Thánh đã chết, chỉ
    để lại lời nói không còn gì cả!

    Do đó chứng tỏ lời nói văn tự là việc gián tiếp trong gián tiếp, sức diễn tả rất
    hạn chế, huống là muốn truyền đạt bản thể của tuyệt đối ư! Nên Phật nói:
    “Bất khả thuyết! Bất khả thuyết!” Còn Văn Thù bồ tát tán thán Duy Ma Cật
    rằng: “Cho đến chẳng có ngôn có thuyết, ấy là chơn nhập pháp môn bất
    nhị”. Lão Tử nói: “Cho nên bậc Thánh ở nơi việc vô vi hành giáo giáo pháp
    vô ngôn”. Khổng Tử nói: “Ta muốn vô ngôn”. Tử Lư nói: “Văn chương qua
    Khổng Phu Tử có thể nghe mà tánh với thiên đạo thì chẳng thể nghe”. Liệt
    Tử nói: “Vì ngộ bản tánh nên chẳng thể bảo cho biết”. Các nhà Nho và Đạo
    giáo đều cùng một ý kiến này.

    Thế Tôn vì cứu sự hạn chế hẹp hòi của lời nói văn tự, nên ở ngoài ngôn giáo
    biệt truyền phương pháp trực tiếp, tức là việc niêm hoa thị chúng vậy. Chẳng
    những niêm hoa mà thôi, phàm nhướng mày nháy mắt, tằng hắng, ngó nhìn
    đều là phương pháp tiếp dẫn hậu học, khiến cho ngộ nhập bản thể tuyệt đối.
    Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Chẳng phải tất cả thế giới đều có ngôn thuyết,
    ngôn thuyết chỉ dùng để giả lập mà thôi. Hoặc có thế giới dùng ngó nhìn để
    thuyết pháp, hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng nhướng mày, nháy mắt, hoặc
    cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc lay động, hoặc ghi nhớ cõi Phật. Đại
    Huệ! Những tác dụng kể trên đều khiến chư Bồ tát đắc Vô sanh Pháp nhẫn
    và Tam muội thù thắng, cho nên chẳng phải ngôn thuyết gồm có tất cả tánh.
    Đại Huệ! Giống như những ruồi muỗi, con kiến, con trùng trong thế giới
    này, đều chẳng có ngôn thuyết mà mỗi mỗi làm xong việc hằng ngày”




    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  3. #23
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    Hét, gậy, chửi, mắng, dựng phất trần, giơ ngón tay của Tổ sư Trung Quốc đều từ
    đây mà ra, chẳng phải khi không bày đặt, hoặc có người hỏi nói Thiền tông
    là sáng lập từ Trung Quốc, ấy là do người chưa hiểu thấu vậy.

    Mặc dù sự diễn tả của ngôn thuyết văn tự có nhiều hạn chế, nhưng chẳng thể
    phế bỏ. Kinh Viên Giác nói: “Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt
    trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng, tất cả
    ngôn thuyết của Như lai khai thị cho Bồ tát đều cũng như thế”.
    Nên biết giáo
    pháp văn tự của Như lai đều từ bản tánh chảy ra, muốn khiến chúng sanh
    theo đó tu hành để đạt đến bản thể tuyệt đối, lìa nhị biên Có và Không,
    chẳng phải lời nói văn tự của thế gian có thể so bằng.




    Kinh Giải Thâm Mật nói: “Dù pháp tánh lìa ngôn, vì muốn khiến chúng sanh
    tự hiện Đẳng giác, nên giả lập danh tướng”
    . Còn nói: “Dù Tự tánh chẳng
    tánh, pháp sở chứng lìa những văn tự, nhưng chẳng thể bỏ ngôn thuyết văn
    tự mà được diễn thuyết”.
    Kinh nói: “Biết pháp chẳng do ngôn, người khéo
    diễn tả ở nơi vô ngôn, mà hiển bày ngôn thuyết, như tiếng vang khắp nơi”.

    Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chư Phật ra diệu âm thanh, vì chúng sanh
    làm Phật sự; tất cả chư Phật tịch lặng vô ngôn cũng vì chúng sanh làm Phật sự”.






    26 Coi Nguon TT.jpg 27 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  4. #24
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    Nên biết một nói, một nín, một động, một tịnh của Phật đều là dẫn dắt
    chúng sanh đạt đến chỗ giải thoát, như thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc, chỉ
    cần hết bệnh tức là toa thuốc hay, đâu cần phân biệt lộc nhung hay cứt bò!

    Xưa nay các Tổ sư Thiền tông như ngài Đạo Tín, Huệ Năng, Đạo Nhất, Bá
    Trượng, Đại Châu, Lâm Tế, Tuyết Phong, Tuyết Đậu... dù gắn cái bảng
    hiệu “chẳng lập văn tự”, nhưng đều có pháp ngữ và tác phẩm lưu hành trên
    đời, chẳng phải hoàn toàn phế bỏ văn tự. Nên biết nói “chẳng lập văn tự” là
    muốn chỉ rõ tìm Phật tánh trong văn tự bất khả đắc, người tu hành chớ nên
    đọa vào vọng tưởng văn tự mà bị văn tự trói buộc, nếu cứ chấp thật sự chẳng
    lập văn tự thì nghịch với bản ý của Phật với Tổ vậy.




    Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ chấp Không lại báng kinh rằng, trực ngôn
    chẳng dùng văn tự; đã nói chẳng dùng văn tự thì con người cũng chẳng nên
    ngôn ngữ, vì ngôn ngữ tức là tướng của văn tự”. Lại nói: “Trực đạo chẳng
    lập văn tự, đâu dè hai chữ chẳng lập cũng là văn tự, thấy người có lời nói,
    liền báng họ là dính mắc văn tự. Các ngươi nên biết, tự mê còn đỡ, lại báng
    kinh Phật, chớ nên báng kinh, tội chướng vô số kể”.






    28 Coi Nguon TT.jpg 29 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  5. #25
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    Tổ Đình Sự Uyển có nói: “Chư Tổ truyền pháp, ban sơ tu hành gồm tam
    tạng giáo thừa, sau tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm ấn, phá chấp giáo để hiển
    Tông (Thiền), gọi là giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm
    người, thấy tánh thành Phật. Nhưng đối với sự chẳng lập văn tự, người hiểu
    lầm rất nhiều, thường cho là bỏ cả văn tự, lấy im lặng tĩnh tọa làm Thiền, ấy
    là con dê câm của Thiền môn. Vả lại muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là văn tự
    chẳng lập thôi! Họ chẳng biết đạo tức phải thông, sao lại cố chấp nơi một gốc!”

    Nên người thông thạo ngay nơi văn tự mà văn tự bất khả đắc, đối với văn tự
    như thế, đối với các pháp khác cũng vậy, hễ kiến tánh thành Phật là xong,
    đâu đợi bỏ văn tự mới xong!

    Cho nên văn tự dù thuộc về Tương đối, nếu được nương ngón tay mà thấy
    mặt trăng thì văn tự chưa từng chẳng có công dụng, nếu được minh tâm kiến
    tánh, chứng nhập Nhất hạnh, nhất tướng Tam muội thì ngay nơi văn tự tức là
    Thật tướng, Tương đối biến thành Tuyệt đối; nếu chấp ngón tay là mặt trăng
    thì văn tự chưa từng là chẳng hại.




    Tam tạng mười hai bộ kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng do Phật phủ
    định; giả lập là vì độ chúng sanh, phủ định là vì khỏi làm hại chúng sanh.
    Nếu giả lập mà chẳng thể phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà
    chẳng thể giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập cũng hay phủ định.
    Cho nên Phật pháp mới được viên dung vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà
    chẳng có chỗ khuyết điểm.

    Phật từng thuyết “Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã” rồi ngay đó phủ định
    liền; Phật từng thuyết “Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên” rồi cũng ngay đó phủ
    định liền, nói giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết pháp như thế mới
    chẳng kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối mà chẳng có gì cả. Hoặc
    có người muốn dựa theo kinh điển pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng biết
    những kinh điển nhưng pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi! Phật
    vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích để tìm
    thì đâu còn gì để cho họ chỉ trích ư! Nên người vấn nạn muốn báng Phật,
    cũng như dùng ngón tay đánh hư không, như ngước mặt phun nước miếng
    lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho người cũng chẳng được. Được hiểu như
    thế rồi mới có thể học Phật tham thiền.






    30 Coi Nguon TT.jpg 31 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  6. #26
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    2- SỰ KHÁC BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN
    Tông môn, giáo môn phân ra riêng biệt bắt đầu từ Trung Quốc căn cứ nơi
    kinh Lăng Già. Phật bảo: “Đại Huệ! Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát,
    có hai thứ tướng thông: gọi là Tông thông và Thuyết thông. Nói Tông thông
    là do tự mình chứng đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng
    tưởng, rồi ngộ nhập Tự Tướng Tự Giác Địa nơi giới vô lậu, xa lìa tất cả giác
    tưởng hư vọng, hàng phục tất cả bọn ma đạo, do tự giác phát huy ánh sáng,
    ấy là tướng tông thông. Thế nào là tướng Thuyết thông? Nói thuyết đủ thứ
    giáo pháp nơi chín bộ Kinh, lìa các tướng đồng, dị và có, không, dùng
    phương tiện tinh xảo để tùy thuận chúng sanh, ứng cơ thuyết pháp khiến
    được độ thoát, ấy gọi là Tướng thuyết thông. Đại Huệ! Ngươi và các Bồ tát
    nên tu học.




    Phật nói “Tông thông” là pháp Thiền thực tiễn do mình tự tham tự chứng;
    nói “Thuyết thông” là Pháp sư giảng giáo lý, thuyết pháp tự tại, chẳng lìa tự
    tánh, chẳng đọa nhị biên. Một là trực tiếp, một là gián tiếp; một do tâm hành,
    một do khẩu thuyết, đức Phật hoằng pháp lợi sanh, đại khái chẳng ra ngoài
    hai lối này. Hai thứ phương pháp dù chẳng đồng, nhưng mục đích cuối cùng
    chỉ là một, nếu xét kỹ lại thì tông chẳng lìa giáo, giáo chẳng lìa tông, xưa
    nay Tông môn dù nói chẳng lập văn tự, chẳng trọng kinh điển, nhưng Thế
    Tôn sau khi niêm hoa thị chúng rồi liền nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng,
    Niết bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, Vi diệu pháp môn, Chẳng lập văn
    tự, Giáo ngoại biệt truyền, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”. Tám
    câu này tức là ngôn ngữ, tức là giáo lý, cho đến tổ Đạt Ma lấy kinh Lăng Già
    truyền cho ngài Huệ Khả, ngũ tổ Hoằng Nhẫn lấy kinh Kim Cang truyền thọ
    ngài Huệ Năng, Tứ Tổ có Pháp ngữ, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, ấy đều chứng
    tỏ tông chẳng lìa Giáo vậy.

    Lại như trong giáo điển Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Viên Giác, Lăng Nghiêm,
    Kim Cang, Lăng Già đều trực thị tông chỉ chẳng lìa Pháp thân, ấy đều chứng
    tỏ Giáo chẳng lìa Tông vậy. Nên Chứng Đạo Ca nói: “Tông cũng thông,
    Thuyết cũng thông. Định, Huệ sáng tròn chẳng kẹt Không”, chúng sanh đời
    mạt pháp chẳng rõ ý chỉ này, vì tiên nhập làm chủ, nên ít người thông suốt,
    lại mỗi mỗi tự lập cửa ải, bài xích lẫn nhau, kẻ học Thiền thì chấp Tông mà
    đè Giáo, kẻ học Giáo thì chấp Giáo mà khinh Tông. Thật ra Tông lìa Giáo
    thì đọa nơi rỗng không, Giáo lìa Tông thì thành ra tạp loạn; Tông với Giáo
    như hai bánh của xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe nào.

    Hành giả Tông môn dụng công tham thiền, ngoài việc thân cận Thiện tri
    thức, hiểu rõ phương pháp dụng công đứng đắn, vẫn cần biết rõ cảnh giới
    chẳng đồng của bốn thừa và sự khác nhau của phương pháp dụng công, mới
    chẳng lầm nhận cho Tiểu thừa là Đại thừa, lạc vào lối tẻ, chẳng thể đạt đến
    minh tâm kiến tánh.

    Muốn rõ bốn thừa cũng nên xem kinh điển giáo lý; người học giáo lý đã rõ
    bốn thừa rồi, cần phải chơn tham thật chứng mới được minh tâm kiến tánh.
    Nếu chẳng minh tâm kiến tánh, dù kinh điển văn tự chứa đầy bụng, biện tài
    như suối chảy, ngòi bút viết ra muôn ngàn văn chương, với bản thể của Phật
    tánh đều chẳng dính dáng, thậm chí hiểu lầm ý Phật, tự ý phát huy để di hại
    cho kẻ hậu học.






    32 Coi Nguon TT.jpg 33 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  7. #27
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    3- ĐẠI Ý CỦA BỐN THỪA

    Chữ Phật còn thuộc giả danh, huống là bốn thừa ư! Nhưng đức Phật đại bi
    cứu thế, phương tiện độ sanh, vì tùy căn cơ sâu cạn của chúng sanh nên giả
    thiết đủ thứ ngôn giáo pháp môn dùng để tu tập, theo thời ứng cơ, tùy nghi
    lập giáo, như lương y trị bệnh, tùy bệnh cho thuốc, nên có những thí dụ như
    xe dê, xe nai, xe trâu (tam thừa) và hóa thành (nửa đường), Bửu sở (quả
    Phật)... Khổ tâm ấy thật là chiếu sáng muôn đời.

    Tất cả pháp có thể nói ra đều thuộc về tương đối; pháp tương đối phải tùy
    theo không gian và thời gian mà biến đổi, vốn chẳng thật thể. Nên đức Phật
    thuyết pháp vừa thuyết liền phá, ban sơ Phật đã từng vì chúng sanh thuyết
    diệu lý của Chơn như Pháp thân, ý chỉ huyền ảo vi diệu, chúng đều bỏ đi, rồi
    trở lại thuyết pháp môn Tiểu thừa, người nghe mới tin được. Đến khi đồ
    chúng tu Tiểu thừa đã quen thuộc, ham thích Thiền vị, chỉ tự độ thân mình,
    Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, chưa lìa hẳn sanh tử, nên tu
    Trung thừa”. Đồ chúng mới chuyển tu Trung thừa, đạt nơi ngã, pháp đều
    Không. Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, tập khí từ vô thỉ chưa
    sạch, cũng còn biến dịch sanh tử, nên tu Đại thừa”. Từ đó chúng mới chuyên
    tu pháp Đại thừa, đến khi căn cơ thuần thục, Phật mới trực thị pháp Tối
    thượng thừa, kẻ tu hoát nhiên đại ngộ, thấu triệt bản tâm chẳng sanh chẳng
    diệt, chẳng biến chẳng khác, sẵn sàng viên mãn, chẳng do tạo tác, mới biết
    phi tâm, phi Phật, phi vật, cuối cùng chẳng có pháp nào để đắc, nói “Pháp
    môn” chỉ là nói suông, nói “bốn thừa” đều là hý luận, khi ấy mới tin Phật nói
    “Chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ” là chẳng phải cố ý bày đặt sự huyền bí.
    Nay lược thuật cảnh giới bốn thừa như sau:

    TIỂU THỪA:

    Cũng gọi là Thanh văn thừa, do nghe thanh giáo của Phật mà
    ngộ lý Tứ Đế, đoạn dứt Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng nhập Niết bàn Tiểu thừa,
    ấy là lối tu hạ căn trong đạo Phật. Kinh Thắng Man Bửu Quật rằng: “Hai
    chữ Thanh văn là kẻ hạ căn theo giáo lập nên, thanh tức là Giáo vậy”.
    Pháp môn Tứ Đế của thừa Thanh văn sở tu tức là khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là
    cái quả của thọ báo, tập là cái nhân chiêu quả, diệt là đắc quả tịch diệt, đạo là
    lối tu để đoạn trừ cái nhân chiêu quả. Nói một cách khác, tu theo Tứ Đế tức
    là biết Khổ đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo; Đế là ý nghĩa xác thật. Cách tu của
    họ là đoạn dứt công dụng của lục căn, lắng tâm tĩnh lự, cho đến chỉ còn một
    chút niệm trong sạch, ấy là cảnh giới của Tiểu thừa đạt đến, quả cùng tột gọi là A la hán.

    Động cơ của người tu Tiểu thừa là nhàm chán phiền não sanh tử mà cầu
    thanh tịnh Tịch diệt, cho rằng trong linh tánh vốn chẳng có phiền não, tất cả
    khổ đều do lục căn chiêu tập mới có, nên muốn được sự vui thanh tịnh tịch
    diệt chỉ có tu đạo làm cho công dụng của lục căn dừng lại, chẳng sanh tác
    dụng chiêu tập, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, mũi chẳng ngửi, lưỡi chẳng
    nếm, thân chẳng xúc, ý chẳng tưởng, công dụng của lục căn đã dứt sạch, sáu
    cửa đã đóng kín, trong linh tánh chỉ còn một niệm thanh tịnh, tịch tịnh an
    lạc, ấy là đạo quả sở chứng của Tiểu thừa. Nhưng lục căn dù tạm dứt, mà
    một niệm thanh tịnh chưa được buông bỏ, ắt chẳng phải cứu cánh.


    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  8. #28
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    TRUNG THỪA:

    Cũng gọi là Duyên giác thừa, do quán nhân duyên mà ngộ
    đạo. Xưa nay xưng Bích chi phật, dịch nghĩa là Độc giác. Pháp môn của
    Trung thừa là Thập Nhị Nhân Duyên, tức vô minh duyên hành, hành duyên
    thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc,
    xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh,
    sanh duyên lão tử. Thập nhị chi (mười hai nhánh) này bao gồm quá khứ,
    hiện tại, vị lai, tâm thế nhân quả tuần hoàn chẳng dừng.

    Ở đây Vô minh là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh nhất niệm vọng động,
    chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác khởi niệm, bèn sanh ra đủ thứ phiền
    não, tạo đủ thứ thiện ác nghiệp, gọi là Hành, hai chi này là nhân đời trước.
    Thức là nghiệp thức như thân trung ấm bị lôi kéo mà đến đầu thai; Danh sắc
    là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành, tứ ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức chỉ
    có tên gọi, chưa có thật chất; Lục nhập là nói ở trong thai lục căn đã hoàn
    thành, là chỗ sở nhập của lục trần; Xúc là sau khi sanh ra, lục căn tiếp xúc
    lục trần; Thọ là lãnh thọ các cảnh giới thuận nghịch, năm chi này là quả
    đang thọ ở đời này. Ái là đối với cảnh trần có sở ái; Thủ là chấp thủ việc
    mình ham muốn; Hữu là có quyền sở hữu, cho mình được tùy ý chi phối, ba
    chi này là nhân sở đắc của đời này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo
    ứng nghiệp quả. Sanh là tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử để thọ
    sanh nơi kiếp sau. Lão tử là kiếp sau đã có sanh, ắt phải có lão tử, hai chi
    này là quả báo phải thọ ở đời sau. Ấy là đại khái của Thập Nhị Nhân Duyên.
    Kẻ tu pháp Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị Thập Nhị
    Nhân Duyên chi phối, mà Thập Nhị Nhân Duyên thì nương nhất niệm vô
    sanh khởi, cho rằng Tiểu thừa chưa thể phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu
    cánh, nếu được đoạn dứt nhất niệm này thì vượt ra ngoài tam thế, liễu thoát sanh tử.

    Nên cách dụng công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô minh, đạt đến
    cảnh giới mênh mông trống rỗng chẳng có gì cả, tự cho đã chứng Niết bàn,
    chẳng biết đã lọt vào vô thỉ vô minh. Cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả,
    cũng gọi là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác gì gỗ đá! Huống
    chi nhất niệm vô minh dù tạm dừng, nếu bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên
    sở chứng của Trung thừa vẫn chưa cứu cánh.

    ĐẠI THỪA:

    Cũng gọi là Bồ tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba la mật, cũng gọi
    là Lục độ. Sáu Ba la mật là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na,
    Bát nhã. Người tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ đề dịch là Giác, Tát
    đỏa dịch là Hữu tình. Ý là giác ngộ chúng sanh hữu tình, gọi tắt là Bồ tát,
    tức là chúng sanh phát đại tâm Bồ đề, lấy tâm Bồ đề làm thể để tự độ; lấy
    tâm Đại bi làm dụng để độ tha, tự tha kiêm lợi, nên xưng Đại thừa. Phẩm
    Thí Dụ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn
    nghe pháp tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí,
    vô sư trí, Vô sở úy, dùng sức tri kiến của Như lai thương xót vô lượng chúng
    sanh, độ thoát tất cả trời, người đều được lợi ích an lạc, ấy gọi là Đại thừa.
    Lục độ bao gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền na làm chủ
    yếu để dụng công, người tu Đại thừa biết nhất niệm vô minh chẳng thể phá,
    nên lợi dụng nhất niệm vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến
    tánh, ấy là phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để bắt vua
    cướp (vô thỉ vô minh) vậy.

    TỐI THƯỢNG THỪA:

    Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm kiến tánh,
    hiển hiện Phật tánh chơn như, phát huy diệu lý tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng
    với kẻ chứng mới biết nhau được. Nên Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mỉm
    cười; Ca Diếp giơ tay, A Nan hiệp chưởng, dùng tâm ấn tâm, khế hợp ăn
    khớp, trình bày trước mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp tối cao cùng tột,
    chẳng còn gì hơn nữa, ấy gọi là Tối thượng thừa thiền.

    Tiểu thừa đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh, Đại thừa đoạn
    vô thỉ vô minh, Tối thượng thừa trực chỉ Chơn như Phật tánh, đây là đại ý
    của bốn thừa. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người
    tự có sai biệt mà hình thành; thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa; hiểu nghĩa
    ngộ pháp là Trung thừa; y pháp tu hành là Đại thừa; vạn pháp đều thông, vạn
    pháp sẵn sàng, tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là
    Tối thượng thừa”. Thế thì, đại ý của bốn thừa đã rõ ràng.

    Triệu Châu hòa thượng nói: “Ta Chẳng thích nghe một chữ Phật”, còn nói:
    “Hễ lão Tăng niệm Phật một tiếng thì phải súc miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ
    lời này thì chẳng bị bốn thừa trói buộc.




    34 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  9. The Following User Says Thank You to choconxauxi For This Useful Post:

    hoatihon (12-06-2021)

  10. #29
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    4- MỤC ĐÍCH CỦA THAM THIỀN

    Mục đích của Tham thiền là gì? Là muốn minh tâm kiến tánh. Cái quả minh
    tâm kiến tánh như thế nào? Là thấu triệt bổn nguyên, vượt ngoài tam giới,
    liễu thoát sanh tử, chẳng thọ hậu hữu, độ mình độ người, phổ lợi chúng sanh.
    Ấy là mục đích cuối cùng của loài người.

    Nhưng muốn minh tâm kiến tánh, trước tiên phải rõ thế nào là tâm tánh.
    Tâm tánh là bổn nguyên tự tánh của chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh, hoặc
    gọi Chơn như, Như lai. Thiền tông gọi là Bổn lai diện mục, Thanh tịnh pháp
    thân; Duy Thức tông gọi là Tự thân tịnh độ, Thường tịch quang tịnh độ; Tam
    Luận tông gọi là Thật tướng bát nhã; Luật tông gọi là Bổn nguyên tự tánh,
    Kim cang bửu giới; Thiên Thai tông gọi là Tự tánh thật tướng; Hoa Nghiêm
    tông gọi là Nhất chơn pháp giới; Mật tông gọi là Tịnh bồ đề tâm... danh
    hiệu dù nhiều, bản thể chỉ một. Duy Thức luận nói: “Chơn là chơn thật, tỏ
    chẳng hư vọng. Như là như thường, tỏ chẳng biến đổi. Nghĩa là cái chơn thật
    này, nơi tất cả pháp thường như bản tánh, nên gọi là Chơn như”. Kinh Duy
    Ma Cật nói: “Như là chẳng hai chẳng khác”. Kinh Kim Cang nói: “Như lai
    là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu”.

    Theo những kinh luận kể trên, nói “Tâm tánh” là chỉ ngay Chơn như tự tánh,
    chẳng phải tâm tánh của người đời. Người đời nói “tâm” ấy là vọng tâm, tức
    là vô minh, nay muốn minh tâm là minh cái tâm chơn thật cùng tột, nên gọi
    là Chơn như.

    Kinh Hoa Nghiêm phát huy cái lý Chơn như Phật tánh rất tường tận, trong
    phẩm Thập Hồi Hướng nói: “Siêng tu tất cả pháp xuất thế gian, đối với thế
    gian vô thủ vô y, đối với diệu đạo chánh kiến kiên cố, thấu pháp chơn thật,
    lìa chư vọng kiến, ví như chơn như, khắp tất cả nơi, chẳng có ngằn mé; ví
    như chơn như, chơn thật làm tánh; ví như chơn như, thường giữ bản tánh,
    chẳng có biến đổi; ví như chơn như, nơi tất cả pháp, vô tánh làm tánh... (còn
    rất nhiều, nay lược bỏ chẳng kể xiết).

    Đây là cảnh giới chơn như Phật tánh do Phật với Tổ đích thân chứng nhập,
    rồi dùng ngôn ngữ phương tiện để khai thị cho chúng sanh, chúng sanh nghe
    rồi, hoặc ngơ ngác chẳng hiểu gì, hoặc biết được đại ý nhưng chẳng thể cho
    là minh tâm kiến tánh; nghe rồi được hiểu gọi là giải ngộ, cần phải tự tham
    thực chứng, đích thân thấy rõ, mới có thể gọi là chứng ngộ, sở chứng với
    Phật chẳng khác, nên gọi là kiến tánh thành Phật.

    Thường có kẻ thông minh lanh lợi, xem nhiều kinh điển mà được giải ngộ,
    giảng giải cho người khác nghe, biện tài như suối chảy mà thật thì chẳng biết
    chơn như Phật tánh là vật gì. Cũng như người chưa từng đến thắng cảnh Tây
    Hồ, chỉ xem du ký của người khác, lại diễn tả cho người khác nghe giống
    như đã từng đi qua, thật thì chưa từng đích thân thấy thắng cảnh ấy, nếu gặp
    người đã từng du lịch Tây Hồ, hỏi về chơn cảnh ấy thì ngơ ngác chẳng thể
    trả lời. Vì thế nên Thiền tông chủ trương chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn
    tự là vậy.




    35 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  11. #30
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    Nên biết, muốn minh tâm kiến tánh toàn nhờ chơn thực tham chứng, người
    khác chẳng thể thay thế được, chẳng quí đa văn, chỉ quí thấy ngay, từ ngoài
    cửa chẳng phải gia bửu, lời của người khác nói chẳng dính dáng với mình.
    Xưa kia Hương Nghiêm hòa thượng ở trong hội Bá Trượng, thông minh lanh
    lợi, hỏi một đáp mười, bị Qui Sơn hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh nói thử một
    câu xem!” liền ngơ ngác chẳng đáp được. Về liêu phòng tìm tra hết thảy văn
    tự xem qua, muốn tìm một câu để trả lời trọn chẳng thể được, than rằng:
    “Bánh vẽ chẳng thể cứu đói”, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra. Qui Sơn nói: “Ta
    nói cho ngươi thì ngươi về sau sẽ mắng ta; ta nói là việc của ta, chẳng dính
    dáng với ngươi!” Hương Nghiêm bèn lấy tất cả ngôn giáo đốt bỏ, thẳng qua
    Nam Dương, nghĩ tại di tích của Huệ Trung quốc sư, tham cứu lâu ngày,
    một hôm nhổ cỏ, ngẫu nhiên quăng miễng trúng nhằm cây tre phát ra tiếng,
    hoát nhiên tĩnh ngộ, liền về tắm gội đốt nhang, hướng về Qui Sơn lễ bái
    rằng: “Hòa thượng đại từ, ân hơn cha mẹ, nếu lúc đó vì con nói trắng ra thì
    đâu có việc kiến tánh hôm nay”.






    36 Coi Nguon TT.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 8 người đọc bài này. (0 thành viên và 8 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Thiền Sư Nguyệt Khê
    Gửi bởi cunconmocoi trong mục Luận
    Trả lời: 67
    Bài cuối: 12-07-2021, 06:01 AM
  2. Tu Bồ Tát Đạo theo Truyền Thống Nguyên Thủy
    Gửi bởi Tuệ Thức trong mục Phật giáo Nguyên Thủy
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 04-11-2019, 06:56 PM
  3. Cội Nguồn Truyền Thừa
    Gửi bởi cunconmocoi trong mục THIỀN TÔNG
    Trả lời: 85
    Bài cuối: 05-26-2018, 09:18 AM
  4. Bài giảng của sư thầy Thích Tâm Nguyên về Facebook gây sốt mạng Việt
    Gửi bởi galuoi92 trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-10-2016, 05:14 PM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •