DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 6/12 ĐầuĐầu ... 45678 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 51 tới 60 của 113
  1. #51
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Chúng ta phải biết rằng mọi hoạt động tinh thần, mọi nhận thức, và mọi trách nhiệm tâm linh của chúng ta được thực hiện bằng tâm. Trí tuệ phân biệt là khả năng phân biệt giữa các sự vật, để phạm trù hóa, và một trong những khả năng khác là để phân biệt các giai đoạn khác nhau của con đường.

    Mặc dù đó là sự lưu tâm nhận biết trực tiếp, liên tục, nó không thể nhận ra chính nó, nên được đặt tên là “vô minh bẩm sinh”. Nó vô minh ra sao? Mặc dù mắt thấy mọi sự ngoài kia, nó không thể thấy chính bản thân nó. Tương tự, tâm không thấy, không biết, và không nhận thức chính nó, nên điều này gọi là “vô minh”. Ý thức xuất hiện đến chính nó được gọi là “tánh giác” và “trí tuệ bổn nguyên”. Tóm lại, nó chỉ là sự trong sáng này, ý thức kiên định đó là sự bình thường, hiện diện tự nhiên ngay chính lúc này.

    Chúng ta có khuynh hướng không nhận thấy lỗi lầm của mình, hoặc, thậm chí nếu có thấy, chúng ta có khuynh hướng muốn che giấu chúng. Nếu bản thân chư Phật không che dấu lỗi của các Ngài và nếu Chúa Jesu không cố gắng che giấu lỗi lầm, vậy bạn có thực sự nghĩ rằng mình có thể che giấu lỗi lầm hay không? Người khác có thể tìm thấy lỗi lầm trong chúng ta, và họ có thể phỉ báng các Phật tử và Phật giáo. Người phỉ báng người khác chỉ phô bày lỗi lầm của chính họ. Điều này không phải là nói chúng ta không có khuyết điểm; chúng ta thực sự có vì vẫn còn trên con đường. Chúng ta vẫn chưa thành Phật, và vì vậy buộc phải có lỗi lầm và giới hạn. Tuy nhiên, những người tiêu tốn thời gian tìm kiếm lỗi người khác và sau đó loan truyền, chỉ đem lại ô nhục trên chính họ. Ngoài ra, nếu chúng ta làm như vậy và tiêu tốn thời gian tìm kiếm lỗi người khác, đây là sự ô nhục của chính chúng ta. Nếu đi theo con đường Hinayana và thấy lỗi người khác, chúng ta có thể thu rút vào thực hành của chính mình vì lợi ích đạt giải thoát. Nhưng nếu đi theo con đường Mahayana và chúng ta nhận thấy lỗi của người khác, thì phản ứng thích hợp là lòng bi. Nếu đi theo con đường Kim Cương Thừa, dấn thân vào các giai đoạn phát triển và hoàn thiện, thì chúng ta phải trau dồi kiến thanh tịnh, thấy người khác trong khía cạnh thiêng liêng của họ. Trong trường hợp này, thì lỗi lầm của người khác không thành vấn đề, vì kiến thanh tịnh này làm bão hòa toàn bộ nhận thức thế gian của chúng ta.

    Ngoài ra, nếu đang tham gia trong thực hành Atiyoga, cái thấy của chúng ta là vượt lên phạm vi của thanh tịnh và bất tịnh. Với cái thấy này, chúng ta kinh nghiệm một tính bình đẳng, hay “vị bình đẳng,” của mọi hiện tượng. Khái niệm thanh tịnh và bất tịnh thực sự không khởi lên. Về mặt lỗi lầm, chúng ta nên hướng vào chính mình, vì sự tìm kiếm lỗi người khác là sự ô nhục của chính chúng ta. Đức Dalai Lama thường phân biệt giữa tư cách đạo đức danh giá và đáng hổ thẹn. Tìm kiếm lỗi lầm trong người khác là đáng hổ thẹn. Về mặt đạo đức và phi đạo đức, tìm kiếm lỗi người khác và lăng mạ họ là vô đạo đức. Các hành giả của Giáo Pháp làm như vậy là bỏ rơi mục đích nguyện quy y, cũng như tôn giáo họ đang theo, với những người đứng ở vị trí cao thì sự ô nhục càng lớn; với những người ở vị trí trung bình, đây là sự ô nhục trung bình; và với người ở vị trí thấp, thì đây là sự hổ thẹn nhỏ. Trong mọi trường hợp, nó là một sự hổ thẹn. Ngay khi chúng ta hướng vào người khác và nói “bạn nên làm điều này,” chúng ta đã hoàn toàn đi quá xa. Nếu muốn tìm kiếm lỗi lầm, hãy tìm lỗi của chính mình và làm việc trên chính chúng ta.

    Khi nghe về tánh giác hay trí tuệ bổn nguyên, người ta dễ nghĩ rằng, “À, loại tâm thức đặc biệt này là gì? Loại sự việc kỳ diệu này là gì? Nó ở đâu? Giá trị của nó là gì? Tôi phải tiêu tốn bao nhiêu để có được nó?” Trong việc so sánh với tánh giác, thậm chí một tỷ tỷ Mỹ kim cũng chẳng có gì đặc biệt; vì nó chỉ là tờ giấy. Ngược lại, tánh giác là nguyên nhân của sự toàn giác. Giác tánh được nói đến chỉ là sự tự nhiên, sự nhận biết bình thường không có bất cứ sự biến đổi, không có bất kỳ tạo tác nào. Nó không có khởi đầu, bất sinh, bất diệt và vô trụ. Không nhận biết bản tánh của nó, chúng ta đi vào bám chấp nhị nguyên, bám chấp vào chính mình, bám chấp vào người khác, bám chấp vào nhân dạng chính cá nhân mình, bám chấp vào nhận dạng các hiện tượng khác. Kết quả của điều đó, là chúng ta tiếp tục lang thang trong chu trình sinh tử.

    Nó không đặt nền tảng trong bất kỳ hình dạng hay màu sắc nào, nên thoát khỏi cực đoan của thuyết vĩnh cửu (thường kiến). Trong lúc nó không hiện hữu, nó là một sự đều đặn, trong sáng, quang minh tự nhiên không do tạo tác bởi bất kỳ ai, nên nó thoát khỏi cực đoan của thuyết hư vô (đoạn kiến). Nó không bắt nguồn từ một thời điểm nào đó, cũng không xuất hiện từ các nguyên nhân và điều kiện nào đó, nên nó thoát khỏi cực đoan của việc sinh ra. Tâm không chết hay dừng lại ở một thời điểm nào đó, nên nó thoát khỏi cực đoan của cái chết. Trong lúc nó không hiện hữu, năng lực sáng tạo không ngăn ngại của nó xuất hiện trong mọi cách, nên nó thoát khỏi cực đoan của tính duy nhất. Mặc dù xuất hiện trong nhiều cách, nó giải thoát khỏi bất kỳ bản tánh vốn sẵn nào, nên nó thoát khỏi cực đoan của tính vô số. Vì thế, nó được gọi là “cái thấy thoát khỏi các cực đoan”.

    Nó được nói là “thoát khỏi thành kiến và thiên vị”. Chỉ riêng điều này được gọi là “tâm của Đức Phật.” Tâm của một chúng sanh, tâm đó trở thành một vị Phật, tâm đó lang thang trong sinh tử, và tâm đó kinh nghiệm hạnh phúc và đau khổ, tất cả đều chỉ là điều này. Nếu điều này không hiện hữu, thì không ai kinh nghiệm luân hồi hay niết bàn, hoặc bất kỳ hạnh phúc hay đau khổ nào, mà điều đó ngụ ý một cực đoan hôn trầm của đoạn kiến.

    Om Mani Padme Hum !

  2. #52
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Khi nói tánh giác đó thoát khỏi thành kiến ngụ ý rằng nó không có chiều kích trong không gian, và không thiên vị ngụ ý rằng nó siêu vượt không gian và thời gian. Nghĩa là, nó không cư trú trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai, cũng không trong bất cứ phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc nào v.v...

    Nếu bạn nhận biết bản tâm, đó là tâm của một vị Phật. Nếu không nhận ra bản tánh của nó, nó là tâm của một chúng sanh. Đó chỉ là vấn đề của phương diện nào. Như một sự loại suy, một người có thể được nhận dạng theo nhiều cách khác nhau tùy theo phương diện họ bị quan sát.

    Chỉ riêng điều này chẳng ai tạo ra, mà là sự tự-hiện, bổn nguyên, và tự phát, nên nó được gọi là “trí tuệ bổn nguyên”. Giác tánh này không bắt nguồn từ hướng dẫn thâm sâu của một vị thầy tâm linh, cũng chẳng khởi nguyên từ trí thông minh sắc bén của bạn. Nguyên thủy và khởi nguyên, đặc tánh tự nhiên của tự-tâm hiện hữu giống như vậy, trước khi nó bị che ám bởi vô minh bẩm sinh, nhưng bạn không nhận biết hay biết chắc nó, nên bạn không thỏa mãn, và không tin. Do vậy, cho đến nay bạn vẫn còn trong nhầm lẫn. Nhưng giờ đây hãy chấp nhận nó như chủ nhân giàu có. Hãy biết bản tánh của chính bạn. Hãy biết những thói xấu của bạn. Điều đó được gọi là “nhận dạng tâm”.

    “Vô minh bẩm sinh” này là điều tất cả chúng ta đều có, và nó ngăn cản việc tìm kiếm sự thỏa mãn mà chúng ta đang tìm. Nó cản trở chúng ta khỏi niềm tin; và làm chúng ta vẫn trụ trong sự không rõ ràng và nhầm lẫn. “Chủ nhân giàu có” ám chỉ chính bạn, Phật tánh của bạn, tánh giác của bạn. Bạn là chủ nhân của sự giàu có này, viên ngọc như của giác tánh chính bạn. Khi bản văn nói, “hãy biết bản tánh bạn” và “hãy biết thói xấu của bạn,” là đề nghị chúng ta không hành động giống như con mèo dấu phân của nó. Hãy nhận biết lỗi lầm của bạn và để chúng được hoàn toàn rõ ràng với chính bạn.

    Nếu tâm là trống rỗng có nghĩa là không có gì, hoặc bổn nguyên không hiện hữu, vậy ai tạo ra người lang thang trong sinh tử và ai kinh nghiệm đau khổ? Một khi người ta thành Phật, do đâu xuất hiện trí tuệ bổn nguyên của tri kiến, lòng bi của khoan dung và hoạt động giác ngộ của hành vi? Tất cả những điều đó được kinh nghiệm và tạo tác chỉ bởi tánh giác liên tục này, đó là sự trong sáng, nhận biết, và rỗng không bất phả phân. Cụm từ, “sự không nhiễm ô, con mắt duy nhất của trí tuệ bổn nguyên” [36] ám chỉ điều này. Cụm từ “trong chốc lát mọi hiện tượng đều được thấm nhập và giữ gìn bởi trí tuệ bổn nguyên” và “sự đa dạng của hiện tượng với sắc tướng khởi lên từ tâm” ám chỉ riêng điều này. “Nó là sự kinh nghiệm đối tượng của phân biệt, tự-nhận thức, trí tuệ bổn nguyên” và đó là những trích dẫn có thẩm quyền khác.

    Mọi hiện tượng của luân hồi và niết bàn được lĩnh hội bằng việc hiểu biết ý nghĩa cái một này. như một loại suy, nếu nhận ra một giọt nước là ẩm ướt, bạn biết rằng tất cả nước đều ẩm ướt. Tương tự, do biết bản tánh của nhận biết, bạn nhận ra bản tánh của toàn bộ luân hồi và Niết bàn.

    Hãy nhận biết rằng giờ đây bạn có được một cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi. Bạn đã gặp được giáo lý cốt tủy nếu áp dụng vào thực hành sẽ có khả năng dẫn bạn đến thành tựu giác ngộ viên mãn chỉ trong một đời. Ngoài ra có rất nhiều bậc Thánh đến Mỹ mà bạn co cơ hội được gặp. Tự bạn hãy khởi lên suy nghĩ, “Bây giờ là lúc tin tưởng vững chắc và áp dụng điều này vào thực hành.” Nếu thấy chính bạn vẫn lãng phí thời gian và không thực hành, hãy tự nhắc nhở; suy nghĩ, “Được rồi, nói thêm là không cần thiết và có thể có hại! Giờ đây mọi thứ đã được sắp đặt cho thực hành, không lẽ bây giờ quay trở lại, bỏ tất cả việc này và chỉ làm điều dại dột, lãng phí thời gian?”

    Một số người có thể gặp được giáo lý này lại không có hiểu biết cơ bản về Phật giáo; và với những người này, giáo lý có thể có phần lạ lùng. Bạn có thể tự hỏi, “Bản văn này cho điều gì?” Nếu không có một nền tảng trong lý thuyết và thực hành, sẽ là điều tốt nếu bạn thiết lập điều đó. Cốt tủy của điều đó là hiểu biết ý nghĩa của thuật ngữ samsara, chu trình sinh tử là gì. Trình bày một cách ngắn gọn, hiện nay chúng ta là người, nhưng khó tránh khỏi bị tái sinh thành loài khác, ví dụ như một loài vật. Chúng ta không thích nghe hay suy nghĩ về điều đó, nhưng nếu tích lũy các nguyên nhân cho nó, thì dù có thích hay không, điều đó sẽ xảy ra. Chúng ta có thể bị tái sanh vào địa ngục , thậm chí còn tệ hơn một con vật; hoặc có thể bị tái sanh như tinh linh, mà chúng ta cũng chẳng thích chút nào. Nó không phải là vấn đề chúng ta thích gì; nếu dấn thân vào việc bất thiện, chúng ta dễ bị những tái sanh không may mắn như thế. Nếu tránh việc xấu, nhờ đó chúng ta có thể tránh được kết quả của việc xấu, đó là những dạng tái sanh khốn khổ.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #53
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Thậm chí trong cõi người, về mặt phẩm tính của cuộc sống cũng rất đa dạng giữa con người. Trong cuộc sống con người, điều giá trị là có được cuộc sống với nhàn rỗi và thuận lợi. Trái lại, được tái sanh là một bán thiên là vô giá trị. Họ có nhiều quyền năng nhưng không ích lợi và sinh ra việc không thực sự thỏa mãn. Tương tự, chư thiên có rất nhiều khoái lạc, nhưng khi đối diện với cái chết, họ kinh nghiệm một nỗi lo lắng to lớn vì thấy họ sắp trở lại các cõi thấp. Đó là sáu trạng thái của chúng sanh hiện hữu, điều quan trọng là nhận ra các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tái sanh trong sáu cõi. Giáo lý về chủ đề này được tìm thấy trong tất cả truyền thống của Phật giáo Tây Tạng: Sakya; Gelu, Kagyu, và Nyingma. Tất cả giáo lý đều hoàn toàn chi tiết và thấu đáo về chủ đề này, và bàn luận về những gì là vô thường và vĩnh cửu. Điều này gây ra câu hỏi, “Có thể giải thoát chủ thể chúng sanh khỏi thọ tái sanh nhiều lần trong sinh tử hay không?” câu trả lời là “có”. Điều đó có thể, tùy thuộc lòng từ của Đức Phật và giáo lý Ngài đã ban.

    Đi theo một số thực hành trong phạm vi Phật Pháp, có thể đạt giải thoát trong hai hay ba a tăng kỳ. Theo một số giáo lý khác, có thể đạt giải thoát trong năm hay sáu năm. Trong các giáo lý đạo Phật, có một số lớn các hướng dẫn đa dạng, được truyền dạy theo khả năng của cá nhân. Những người có khả năng sắc bén có thể sử dụng các giáo lý và thực hành hùng mạnh, thâm sâu hơn, trong lúc người có khả năng chậm hiểu hơn chọn một con đường chậm hơn. Khuôn khổ căn bản của của giáo lý này là Tứ Diệu Đế, và nền tảng là Bốn Tư duy làm Chuyển Tâm. Một phương diện trọng yếu của nền tảng này là thọ quy y. Nếu bạn không biết bản tánh của thọ quy y thì khó có thể tìm hiểu ý nghĩa của việc đi vào thực hành này.

    Tôi cũng muốn nói chuyện về vấn đề các bài nguyện khẩn cầu được làm bởi những vị thầy tâm linh và các hành giả khác của Giáo Pháp. Nếu chỉ có một người hoặc một cộng đồng nhiều người có nghiệp phải kinh nghiệm một số nghịch cảnh, liệu việc cầu nguyện có bất cứ lợi ích nào cho họ hay không? Nếu có, liệu có tùy thuộc vào ai đang cầu nguyện hay không? Đó là, nó hiệu quả chỉ với người thực hiện khẩn cầu như vậy nếu có năng lực tâm linh hay thanh tịnh to lớn hay không? Tôi không thể phán đoán năng lực cầu nguyện của một người trên những người khác. Điều tôi biết bây giờ là Tam Bảo – Đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Đoàn – thực sự có năng lực có thể giúp con người vào những lúc không may, bằng việc tẩy trừ các che ám của họ và v.v... Thế nên, vì năng lực của Tam Bảo, chắc chắn có lợi ích trong việc dâng cúng các cầu nguyện cho hạnh phúc của người khác. Đây là chân lý của cầu nguyện của mọi người, không chỉ dành cho các vị thầy tâm linh, nên việc cầu nguyện cho người khác là rất đáng giá. Một cách cụ thể, bạn có thể tự hỏi liệu có bất kỳ lợi ích nào trong việc cầu nguyện cho những đau khổ từ tai họa tự nhiên v.v... hay không? Câu trả lời của tôi là việc cầu nguyện cho những người đang đau khổ, là người lạ, người thương mến, thân nhân, hoặc bất kỳ ai khác đều chắc chắn có lợi ích. Cầu nguyện cho lợi ích của họ góp phần làm nhẹ bớt đau khổ của họ. Năng lực của các bài nguyện này xuất phát từ Tam Bảo, nhưng những cầu nguyện của bạn có thể ảnh hưởng góp phần cho lợi ích này. Những cầu nguyện như vậy có thể hiệu quả trong việc tẩy trừ những che ám tạm thời, cũng như các che ám tâm linh sâu hơn. Cũng nên nhớ trong tâm rằng việc cầu nguyện cho lợi ích người khác cũng là lợi ích cho chính người thực hiện cầu nguyện. Liên quan đến điểm này, tôi khuyến khích các bạn dẹp bỏ nghi ngờ sang một bên, và biết rằng các cầu nguyện như vậy là rất có công đức và lợi ích.

    Trong phần trước của bản văn, Đức Padmasambhava đã bàn luận về bản tánh của nhận biết bằng chính lời của Ngài. Trong phần sau Ngài sao lưu lại những lời của Ngài bằng sự trích dẫn kinh điển từ các tantra và luận thư vĩ đại, có thẩm quyền nhất về Atiyoga. Chủ tâm của Ngài là giúp thấm nhuần tự tin, xác quyết, lòng tin trong người đọc. Nói khác đi, Ngài phô bày rằng sự hiện diện của Ngài không chỉ là sự tạo tác của chính Ngài, mà dựa căn bản trên sự thấu suốt sâu thẳm nhất của Đức Phật.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #54
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Tantra Ba Diễn Đạt Của Giải Thoát Bằng Sự Quán Sát trình bày:

    Ôi, Đức Thế Tôn của Bí Mật, xin lắng nghe! Bản tánh thanh tịnh của giác tánh trí tuệ của bạn, tánh Không thanh tịnh này không đặt cơ sở trong bản tánh của bất cứ vật chất hay màu sắc nào, là Đức Phật Samantabhadra (Phổ Hiền). Nếu bản tánh của trí tuệ nhận biết của bạn chỉ là cực lạc và tánh Không thì nó sẽ không là sự hoàn toàn rỗng không;37 mà đúng hơn, tánh giác trí tuệ của riêng bạn là sự biện biệt và trong sáng bất tận, là Phật Samantabhadra. Bản tánh rỗng rang của tánh giác bạn không đặt nền tảng vào bất cứ vật chất nào, và sự hiện diện rõ ràng, phân biệt hiện nay của trí tuệ nhận biết của bạn là hiện diện bất khả phân; nên đây là Đức Phật Dharmakaya (Phật Pháp Thân). Giác tánh của bạn hiện diện như một kết tập vĩ đại của ánh sáng rõ ràng và tánh không bất khả phân, là sự bất sinh và bất diệt, nên là Đức Phật Bất Biến Quang. Nó có thể được nhận biết.

    Ở đây, Vajrapani (Kim Cương Thủ) là bậc được khẩn cầu như “Đức Thế Tôn của sự Bí Mật”. Trình bày về bản tánh của nhận biết ở trên là có lợi chỉ cho những người đã hoàn toàn có một số thấu suốt vào các thực hành trước về việc tìm ra bản tánh của tâm. Do đó, nếu đã tìm thấy bản tánh của tâm và đã đạt được sự thấu suốt về mặt đó, bạn được ưu tiên cho giáo lý hiện tại này. Nếu không tìm kiếm bản tánh của tâm, giáo lý này sẽ không có ích cho bạn.

    Bằng việc nhắc đến bản tánh của nhận biết như “sự thanh tịnh rỗng rang” và như sự bất tận, biện biệt và trong sáng, Đức Padmasambhava tránh sử dụng cả hai thái cực của thuyết hư vô và vĩnh cửu. Khi cố gắng dấn thân vào thực hành này, một số hành giả Tây Tạng và Phương Tây ngồi nhìn chằm chằm vào không gian phía trước với đôi mắt lồi ra như thể sắp thấy điều gì ở đó. Họ tự hỏi, “Khi nào tôi thấy nó? Nó ở đâu?” và hy vọng có thể tìm thấy điều gì đó làm họ hiểu ra điều gì. Họ sẽ không thành công, cái nhìn chằm chằm là để hướng ra không gian phía trước, nhưng không phải là có điều gì đó để thấy ngoài kia. Đúng hơn là cách nhìn chăm chú là phần đơn giản của kỹ thuật, cuối cùng sẽ dẫn đến sự thấu suốt vào sự bất khả phân của không gian bên ngoài và không gian bên trong. Sự hợp nhất của không gian bên ngoài và bên trong thường được nhắc đến trong thuật ngữ của sự loại suy của một đứa bé gặp được mẹ nó.

    Và:

    Ôi, Đức Thế Tôn Bí Mật, xin ban sự chú tâm trọn vẹn của Ngài cho con! Giác tánh trí tuệ rõ ràng của bạn là vị Phật, nên không cần tìm kiếm Phật ở đâu khác. Tánh giác rõ ràng, lung linh của bạn là liên tục, rõ ràng nên với Đức Phật Dharmakaya, không có thiền định nào phải được thành tựu. Tánh giác của chính bạn, Dharmakaya là không sinh, không chết, nên về mặt hành động không có đạo đức hay đồi bại.

    Trích dẫn trên củng cố thêm sự khẳng định trước đó rằng tánh giác của bạn không là điều gì đó mà bạn sở hữu hoặc có được bởi vì bạn có tâm linh rất sắc bén, hay vì bạn có một vị thầy giỏi. Khi bạn đọc, “nên với Phật Dharmakaya (tánh giác của bạn), không có thiền định nào để thành tựu,” bạn có thể nghĩ, “Tốt, vậy tôi không cần thực hành. Tôi giỏi như tôi là.” Đó là một kết luận thích hợp nếu bạn ở tại giai đoạn này của thực hành, nhưng nếu không, bạn không nên nghĩ rằng mình có thể thay việc thiền định bằng sự tiêu tốn thời gian trên điện thoại, máy fax, hoặc máy tính.

    Om Mani Padme Hum !

  5. #55
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Và:

    Ôi Đức Thế Tôn! Chính sự rõ ràng, trong sáng liên tục này, và tánh giác hiện tiền của các bạn là vị Phật. Vì nó bất khả phân với tánh giác rõ ràng liên tục của các bạn, với Dharmakaya thì không có gì để thiền định trên đó. Bạn có thể nhận biết rằng giác tánh rõ ràng và trong sáng này của các bạn là vị Phật.

    Làm thế nào chúng ta nhận ra tánh giác của chính mình như vị Phật? Một số trong chúng ta có thể nghĩ về Đức Phật như được mô tả trong các thangka (tranh cuộn). Đức Phật được mô tả theo cách đó là thường Nirmanakaya (Hóa Thân), hiện thân của Đức Phật có thân tướng, màu sắc, v.v... Ngược lại, Dharmakaya, bản tánh của giác tánh bạn, không có thân tướng. Nếu có thì sẽ là thân tướng gì? Khi bạn thẩm soát bản tánh của giác tánh mình, bạn có thể tìm ra nó có một thân tướng hay không? Nếu thật sự có một thân tướng, nó có một màu sắc hay không? Nếu có, thật tốt. Nhưng nếu không, nó là một sai lầm vì nhận ra tánh giác riêng bạn thật sự có một thân tướng với các hiện thân của Đức Phật. Phải nhớ rằng ba bậc loại suy sau đây về mặt trời gắn liền với Dharmakaya, Sambhogakaya, và Nirmanakaya. Mặt trời giống như Dharmakaya, là suối nguồn của những lưu xuất. Tia sáng chiếu ra từ mặt trời giống như Sambhogakaya, và kết quả sự xua tan bóng tối giống như Nirmanakaya.

    Về mặt này, sự tỏa sáng và những tia sáng không khác biệt với mặt trời; đúng hơn, chúng cùng bản tánh như mặt trời. Cái này là lưu xuất của cái kia. Tương tự, tánh giác riêng bạn như Dharmakaya, như vị Phật, lưu xuất vô số thân tướng tự nhiên, tự phát vì lợi ích của chúng sanh. Từ một viễn cảnh tối thượng, Đức Phật được xem là vô tướng; và từ bối cảnh tương đối, Đức Phật được xem như có thân tướng, bao gồm Sambhogakaya và Nirmanakaya. Nirmanakaya bao gồm nhiều thân tướng khác nhau của Đức Phật được phú cho ba mươi hai biểu tượng và tám mươi dấu hiệu của một vị Phật, và có trí tuệ hiện tượng tính và bản thể tính. Thuật ngữ Tây Tạng cho Đức Phật bao gồm hai âm tiết, chữ đầu tiên là sang, có nghĩa tỉnh thức hoặc làm tan biến. Một vị Phật đã tỉnh thức và làm tan biến mọi cảm xúc phiền não, như tham, sân, và si. Chữ thứ hai gye có nghĩa phát triển hay làm thỏa mãn, ngụ ý rằng một vị Phật đã hoàn thiện mọi phẩm tính xuất sắc của giác ngộ.

    Người có thể thực sự tìm hiểu ý nghĩa và sự sâu xa của giáo lý này là những người đã đạt được sự thấu suốt đích thực vào giai đoạn phát triển và hoàn thiện, ngụ ý một mức độ cao về sự trưởng thành tâm linh và thấu suốt. Vào lúc nghe những trình bày này về sự nhận ra vị Phật và tánh giác, bạn có thể bị sửng sốt. Nếu vậy, bạn nên biết rằng sẽ có nhiều bàng hoàng sắp xảy đến! Chẳng hạn, trong tiến trình chuyển tiếp của trạng thái-mộng, bản văn sẽ giải thích thậm chí bạn hoàn toàn không hiện hữu ra sao; và sau đó bản văn sẽ khảo sát tỉ mỉ những khía cạnh khác của thực tại gắn liền với trạng thái-mộng. Vậy hãy chuẩn bị.

    Và một đoạn văn từ Tantra Ngọn Đèn Của Trí Tuệ Bổn Nguyên trình bày:

    Ôi Đức Thế Tôn của Bí Mật, Xin lắng nghe! Vị Phật hoàn toàn viên mãn trụ ở giữa trái tim bạn. Dharmakaya của sự nhận biết liên tục, trong sáng an trụ với hạnh của trí tuệ bổn nguyên tự phát. Đức Thế Tôn Bí Mật, Dharmakaya ở giữa tim bạn không đặt nền tảng trên dấu hiệu, nên nó hiện diện như tánh Không.38 Nó an trụ như sự nhận biết rõ ràng, liên tục. Nó hiện diện vô chướng ngại không bị che ám. Vì nó tự phát, nên hiện diện liên tục như một nền tảng không thiên vị của hình tướng. Đức Thế Tôn của Bí Mật, sự hiện diện rỗng rang của Dharmakaya, không đặt nền tảng trên các dấu hiệu, là bản tánh thanh tịnh của ý thức nhận biết chính bạn. Nó không đặt nền tảng trên bất cứ vật chất hay màu sắc nào, nên nó là sự thanh tịnh này, sự hiện diện rỗng rang.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #56
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Và:

    Đức Thế Tôn của Bí Mật, tính tự phát hiện diện ở giữa trái tim bạn như một tập hợp quang minh của tánh giác chính bạn. Nó là nền tảng liên tục của hình tướng cho mọi thứ; vì tánh giác lưu xuất từ mắt bạn, các thân tướng xuất hiện để có thể được thấy một cách liên tục. Vì tánh giác lưu xuất từ mũi bạn, mùi được ngửi một cách liên tục. Sự nhận biết của người ý thức được mùi là Dharmakaya. Tùy theo nhận biết của bạn lưu xuất ra, sinh dục của nam và nữ tiếp xúc nhau, và hỷ lạc khởi lên liên tục. Sự nhận biết của người kinh nghiệm hỷ lạc cũng là Dharmakaya. Hãy biết bản tánh của nó!

    Chương 119 của Tantra ngang bằng với hư không, kết hợp với ý nghĩa cuối cùng của Đại Viên Mãn trình bày:

    Dhramakaya này, thoát khỏi các thái cực, không phải không hiện hữu, mà là tỉnh thức và nhạy bén. Nó không là thuyết hư vô, mà là sự nhận biết và trong sáng. Nó không là thuyết vĩnh cửu, nhưng không có vật chất. Nó không là sự nhị nguyên, mà là không có đôi. Nó không là một hợp nhất, nhưng tỏa khắp mọi thứ.

    Sự trình bày Dharmakaya là “không có đôi” có nghĩa nó không có bạn đồng hành. Bản tánh của nhận biết, Dharmakaya có thể nhận dạng. Nó là Dharmakaya trải qua mọi loại kinh nghiệm này – thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, kinh nghiệm đại lạc của giới tính, v.v... Tuy nhiên, đừng đơn giản đánh đồng nó với nhận thức nhảy quanh như con khỉ từ cửa sổ này sang cửa sổ khác. Chúng không giống nhau. Bạn có thể nói về nhận biết quá khứ, hiện tại, và vị lai và trạng thái nhận biết của bạn trong ngày và đêm. Pháp Thân không giống như tất cả các trạng thái nhận biết chỉ xảy ra ở một số thời gian này chứ không phải ở thời gian khác, nhưng các trạng thái đó có thể được xem như phẩm tính của Pháp Thân. Bản tánh của Dharmakaya chính là bản tánh của toàn bộ luân hồi và niết bàn. Nó không hiện hữu như một vật chất, cũng như không có thân tướng. Đúng hơn, Dharmakaya là hiện thân của trí tuệ bổn nguyên. Đừng đúc kết thực tại quy ước với thực tại tuyệt đối thành một, vì chúng không giống nhau. Những hướng dẫn của thực tại quy ước có thể dẫn chúng ta đến chân lý tuyệt đối, nhưng không nên nghiên cứu về thực tại quy ước bằng con đường của các hướng dẫn về thực tại tuyệt đối. Kinh nghiệm hiện tại ngay bây giờ của chúng ta ở đây là quy ước, và chúng ta bắt đầu từ những kinh nghiệm này cho đến lúc rốt ráo. Nếu đơn giản đánh đồng thực tại quy ước với thực tại tối hậu, bạn sẽ chẳng hiểu được cái này hoặc cái kia.

    Sự Trong Sáng, Tự Nhiên, Bất Sinh, trình bày:

    Nếu bạn biết thực tại của nhận biết bất biến, liên tục này, đó là hiện tại bổn nguyên, đó là sự thiền định của Vajrasattva.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #57
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Và:

    Vì tự-tâm không sinh hay diệt nên nó hiện diện không khởi đầu và không kết thúc. Do đó, vì tâm bất biến trong ba thời, nó không có thực chất và tỏa khắp, và do vậy nó giống hư không. Thoát khỏi các cực đoan của lấy, bỏ,41 thoát khỏi hiện hữu, không có khái niệm, nó không phải không hiện hữu, và thoát khỏi tính hư vô (đoạn kiến). Thoát khỏi các thái cực của hiện hữu và không hiện hữu, nó là sự tự-hiện. Vì bản tánh của nhận biết là không sinh, không diệt, nó là một hiện thân của trong sáng tự nhiên. Thanh tịnh và tỏa sáng, nó không có bên ngoài hay bên trong, nên nó là sự tự-nhận biết của Dharmakaya.

    Thảo luận này tiếp tục với đầy đủ chi tiết. Tất Cả Thành Tựu Tối Cao trình bày:

    Ôi bậc vĩ đại, xin lắng nghe! Bản tánh của con là như vầy: sự hiện hữu của con không hơn một thực thể; sự phô diễn của con bộc lộ trong khía cạnh nhị nguyên; nguồn gốc của con xuất hiện như chín yana (thừa); sự tổng hợp của con được tổng hợp như Đại Viên Mãn; cuộc sống của con là tinh thần của tỉnh thức; nơi an trụ của con là để an trụ trong bản tánh tuyệt đối của thực tại; sự trong sáng của con là trong sáng trong không gian của nhận biết; sự tỏa khắp của con là để tỏa khắp vũ trụ hữu tình và vô tình; và nguồn gốc của con là để xuất hiện như toàn bộ hiện tượng thế gian. Về phần sự phô diễn của con, con không có các dấu hiệu của vật chất. Về phần cái thấy của con, con thoát khỏi các đối tượng được chú tâm. Về phần ý thức của con, không có lời nào để mô tả nó. Tinh túy này, không khởi lên từ nguyên nhân, thoát khỏi mọi lựa chọn ngôn từ.

    Chín yana là chín phương tiện tâm linh trong phạm vi Phật giáo, khởi đầu với Sravakanaya và lên đến tột bậc là Đại Viên Mãn. Có sự phân loại khác về tám, chín, và mười yana, nhưng tất cả đều chỉ cùng hệ thống của thực hành Pháp. Nếu mô tả đầy đủ chi tiết, chúng có chín yana, nhưng tất cả có thể tổng hợp như Đại Viên Mãn. Hãy nhớ rằng mọi sự liên quan đến “không gian của nhận biết” việc sử dụng chữ “không gian” mang tính ẩn dụ. “Toàn bộ vũ trụ vô tình và hữu tình” bao gồm toàn bộ luân hồi và niết bàn. “Các đối tượng của chú tâm” là những gì bạn có thể thấy hay thể hiện cụ thể. Ý thức đơn giản là không thể diễn tả được, vì nó vượt lên mọi chọn lựa của ngôn từ. Tất Cả Thành Tựu Tối Cao tiếp tục:

    Nếu muốn nhận thức thấu đáo thực tại đó với sự tin chắc, hãy khảo sát nó khi bạn trống rỗng. Thực tại đó là sự bất sinh của tự thân-thực tại. Dựa trên sự khảo sát, tự bản thân-tâm thức là không có sự ngừng dứt; và tự thân-thực tại giống như hư không, là sự ẩn dụ của không gian. Tự thân-thực tại đó là không có đối tượng, được minh họa bằng tính không khách quan. Nó không thể diễn tả bằng lời nói, mà để thốt ra lời nói không thể diễn tả, nó được bộc lộ trong bản tánh của thực tại không khách quan. Nếu ý nghĩa cuối cùng của điều này không được nhận biết, thì bất cứ thuật ngữ nào về thực tại được bộc lộ, bạn sẽ không gặp được tôi; chuyển hướng ngược với tôi, tôi bị che ám; và không đạt được bản tánh của Giáo Pháp.

    Om Mani Padme Hum !

  8. #58
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Và:

    Bản tánh của Tâm Linh Tỉnh Thức là tinh hoa của mọi hiện tượng không có ngoại lệ. Bất sinh và nguyên sơ, nó không có sự che ám; không có con đường để tiến hành, không có khó khăn cạm bẫy, bổn nguyên tự phát, không cần phải nỗ lực.
    Thảo luận này tiếp tục một cách chi tiết. Danh Sách Vajra Trích Dẫn Kinh Điển Về Trí Tuệ trình bày:

    Ý nghĩa của bản thân-thực tại là không khác hơn trí tuệ bổn nguyên, trong sáng, tự-hiện. Đừng tìm kiếm viên ngọc như ý quý báu này; chính bản thân bạn đã có nó.

    Tất Cả Thành Tựu Tối Cao trình bày:

    “Trí tuệ bổn nguyên tự-hiện” là sự tự-xuất hiện, và khởi lên không có nguyên nhân và điều kiện. Nó là trí tuệ bổn nguyên trong sáng bất tận.

    Và:

    Tinh túy đó, không có nguyên nhân hay điều kiện, chi phối mọi sự và là mọi sự.

    Và:

    Mọi hiện tượng là tôi, vậy nếu bản tánh này của tôi được nhận biết, thì sẽ biết được mọi hiện tượng.

    Và:

    Tôi là người phát hiện mọi thành tựu, Tâm Linh của Tỉnh Thức. Tâm Linh Tỉnh Thức là tất cả thành tựu tối cao. Chư Phật ba thời được tạo bởi Tâm Linh Tỉnh Thức. Hiện tượng của thế gian hữu tình và vô tình được tạo ra bởi sự tỉnh thức của tâm linh.42

    Mọi thảo luận như vậy trong sutra và tantra chỉ nhắc đến tâm liên tục, trống không, và trong sáng này của hiện tại. Việc không biết bản tánh này của bạn là nền tảng của sự nhầm lẫn; nó là “vô minh”. Nó được gán cho là “sự vô minh là nền tảng nhầm lẫn của chúng sanh trong tam giới.” Biết được bản tánh này của chính bạn được gán cho là “Nền tảng Samantabhadra của giải thoát.” Khi sự hiện diện này như tánh sáng và tánh Không trung lập hợp với đạo lý, thì được đặt tên là “nền tảng.”

    Tất cả chúng sanh – nhân loại, loài chó, và mọi loài khác – đều có Phật tánh, vì chúng ta là chúng sanh hữu tình, do vậy tất cả chúng ta đều có loại tâm đã được bàn luận ở đây.

    Nền tảng của luân hồi, niết bàn, và mọi hạnh phúc, đau khổ đều không khác hơn chính ý thức nhận biết hiện tiền này. Tùy theo sự hướng dẫn của vị thầy tâm linh, các đệ tử biết được bản tánh của họ, tin tưởng vào nó và đi đến sự tin chắc, nền tảng là sự giải thoát trong chính nơi chốn của nó. Do vậy, đây là hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống được gọi là “sự giải thoát tự nhiên của nền tảng.” Hãy biết điều này trong cách đó. Đây là chương đầu tiên để thành tựu sự an định và được giới thiệu vào tính thấu suốt của trí tuệ bổn nguyên của giác tánh. Samaya.

    Đã niêm ấn, niêm ấn, niêm ấn.

    Om Mani Padme Hum !

  9. #59
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    4

    Sự Giải Thoát Tự Nhiên của Nhầm Lẫn:
    Các Hướng Dẫn dựa trên Kinh Nghiệm
    về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Giấc Mộng

    Chủ đề phổ biến thứ hai, tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, bao gồm các hướng dẫn thiết thực, có thể so sánh với việc giơ cao một ngọn đèn trong phòng tối. Các hướng dẫn này gắn liền với khuynh hướng tiềm tàng và dẫn đến việc chuyển hóa thanh tịnh quang vào con đường. Trong chủ đề này có ba phần: (1) các hướng dẫn về huyễn thân vào ban ngày và sự giải thoát tự nhiên của hình tướng, (2) các hướng dẫn về giấc mộng vào ban đêm và sự giải thoát tự nhiên về sự nhầm lẫn, và (3) các hướng dẫn kết thúc về thanh tịnh quang và sự giải thoát tự nhiên về ảo tưởng.

    CÁC HƯỚNG DẪN VỀ THÂN HUYỄN

    Ở đây có hai phần: huyễn thân bất tịnh và huyễn thân thanh tịnh.

    Huyễn Thân Bất Tịnh

    Trong một nơi cô tịch hãy ngồi trên một đệm dễ chịu và trau dồi tâm linh tỉnh thức, suy nghĩ, “Cầu mong tất cả chúng sanh khắp hư không đạt được Phật quả viên mãn! Với mục tiêu đó con sẽ thiền định trên sự giải thoát tự nhiên về hình tướng qua các hướng dẫn về thân huyễn.” Sau đó dâng hiến khẩn cầu, “Xin ban phước để con có thể thực hành huyễn thân. Xin ban phước để con có thể nhận ra samadhi (đại định) như-huyễn.”

    Thân của chính bạn là một huyễn thân bất tịnh, và có thể thấy chính bạn có huyễn hay không bằng cách áp dụng giáo lý này vào thực hành. Lý do của việc đi vào nơi cô tịch là để bạn thoát khỏi quấy rầy. Nhưng điều gì quấy rối bạn? Bạn tự quấy rối chính bạn, nếu không tự mình lo âu thì bạn hoàn toàn ổn định. Nói khác đi, sự nhấn mạnh không ở hoàn cảnh mà là cách bạn phản ứng với hoàn cảnh. Tâm chúng ta bị khích động và lo âu vì chạy theo các đối tượng của năm giác quan. Nếu có thể kiểm soát điều đó, chúng ta hoàn toàn đạt được sự tĩnh mịch. Nếu vấn đề thực sự nằm trong năm đối tượng của giác quan, chúng cũng sẽ có khả năng quấy rối xác chết. Do đó, sống trong một nơi không bị quấy rầy có nghĩa là bạn dừng lại việc quấy rối chính bạn.

    Điểm quan trọng đầu tiên của thực hành là trau dồi một động cơ đúng đắn. Việc chỉ ngồi ở đó với động cơ hoàn toàn của thế gian mà tiến hành thiền định là không đủ. Đúng hơn, giữa các khả năng có một động cơ đạo đức, không đạo đức, hay trung lập, điều cần thiết là phát sinh một động cơ đạo đức, đặc biệt là động cơ của Tỉnh thức Tâm linh vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Khi bạn đem đến cho tâm chúng sanh khắp không gian, hãy nhớ rằng tất cả chúng sanh đều mong muốn hạnh phúc mà không biết cách gieo trồng hạt giống hạnh phúc. Tất cả chúng sanh đều mong muốn thoát khỏi đau khổ nhưng không biết làm cách nào tránh các nguyên nhân gây đau khổ.
    Sự giải thoát tự nhiên của hình tướng là sự giải thoát tự nhiên của mọi sự xảy đến với năm giác quan của bạn. Có thể dâng hiến bài nguyện khẩn cầu đến vị thầy tâm linh của bạn hay đến chư Phật, Pháp, và Tăng Đoàn khi bạn muốn.

    Nó cũng giống như vầy: mọi hiện tượng đều không hiện hữu, nhưng chúng xuất hiện để hiện hữu và được thiết lập như đa dạng các sự vật, giống như trắng và đỏ. Điều đó là vô thường lại bị bám chấp là vĩnh cửu, và không thực sự hiện hữu lại chấp là thực sự hiện hữu. Mặc dù người ta nói rằng điều này gây ra sự trói buộc của tất cả chúng sanh là như một ảo ảnh, vì bám chấp vào sự hiện hữu thực sự của hình tướng lừa dối, hiện tượng giờ đây xuất hiện như hiện hữu thật sự. Khởi nguyên này xuất hiện từ tính không có thực, giờ đây chúng xuất hiện ngay cả dù chúng không hiện hữu, và vào lúc cuối chúng sẽ trở thành không có gì. Hãy suy niệm rằng vì những điều này, đó là không có tính vĩnh cửu, ổn định, hoặc bất biến, không có tự tánh, chúng giống như ảo giác.

    Om Mani Padme Hum !

  10. #60
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Hiện tượng được định rõ là đạo đức, không đạo đức, tốt, xấu, v.v.... Mặc dù chúng là huyễn và không thực sự hiện hữu, chúng ta lại chấp vào chúng như có thực hay thực sự hiện hữu. Thế gian này có phải khởi nguyên từ điều gì đó có thật hay không? Không, nó xuất phát từ tính không có thực. Bản tánh đích thực của thực tại là như huyễn; đây không phải là điều gì đó mà chúng ta giả tạo thêm vào trên hiện tượng. Thậm chí dù hiện tượng xuất hiện như thể chúng hiện hữu thực sự, chúng cũng không thực sự hiện hữu trong cách đó. Đúng hơn, chúng giống như hình ảnh trên một màn ảnh truyền hình: mặc dù bạn thấy mọi loại sự vật trên màn hình, cũng không có thực tại tương ứng bên trong máy truyền hình.

    Sau đó hãy buộc một gương thật rõ cao khoảng một sải tay (cubit) treo phía trước bạn. Hãy tắm rửa và nhìn vào gương hình dạng của bạn với các đồ trang sức. Hãy tán thưởng nó v.v..., và thấy nếu có một trạng thái tâm thích hay không thích. Nếu có, hãy tự suy nghĩ, “Mỗi lần khởi lên vui thích vì tán thưởng thân này, cũng giống như một phản chiếu trong gương, bạn đã nhầm lẫn. Thân này chỉ là một hình tướng tùy theo sự kết tập liên quan phụ thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện, mà trong thực tại nó chưa từng hiện hữu. Tại sao lại bám chấp vào nó như là chính bạn và vui thích trong nó?: hãy thiền định trong một thời gian dài về sự phản chiếu của thân trong gương.

    Một cubit là khoảng cách từ khuỷu tay đến đầu ngón tay bạn, nhưng điểm quan trọng ở đây đơn giản là có điều gì đó yểm trợ cho một gương. Vì bạn có thể có nhiều gương khắp nhà, nên hoàn toàn không cần lo về vị trí. Tuy nhiên, nếu không có gương treo tường, thì hãy làm như bản văn đề nghị. Sau khi tắm rửa, dù bạn là nam hay nữ, hãy mặc quần áo sang trọng, lịch sự; trang sức quý giá, v.v... sau đó nhìn bạn phản chiếu trong gương. Hãy cố nhìn những phần đẹp nhất của bạn. Nếu bạn là một đứa bé có thể sẽ tự vui đùa khi làm trò xấu trong gương. Khi quán sát phản ứng của tâm thức bạn, phải nhớ rằng không có nền tảng thích hay không thích vì không có bản chất, hoặc thực tại trong sự phản chiếu này. Nếu thực sự kinh nghiệm một số vui thích khi tự tán thưởng mình, hãy nhận ra bản tánh nhầm lẫn của phản ứng này. Giống như sự phản chiếu trong gương xảy ra đối với một kết tập liên quan phụ thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện, do vậy sự thật này có phải là của chính thân chúng ta. Trong trường hợp phản chiếu trong gương, các nguyên nhân và điều kiện liên hệ phụ thuộc này là gì? Trong sự phụ thuộc vào một gương, là vị trí của thân bạn ở trước nó và sự quán sát phản chiếu xuất hiện của gương. Tương tự, có những nguyên nhân và điều kiện mà cũng từ đó thân xuất hiện, và trên nền tảng của thân có sự bám chấp tinh thần vào một cái tôi. Mặc dù chúng ta bám chấp vào bản ngã, trong thực tại lại chẳng có bản ngã.

    Nếu thử thực hành điều này một hay hai lần vì tò mò và sau đó quên nó thì không đủ. Để thực hành này được hiệu quả, chúng ta cần thiền định trong một thời gian dài về sự phản chiếu của thân trong gương. Điều này có hiệu lực mạnh mẽ trên sự bám luyến của chúng ta, thân thể chúng ta, v.v... Chẳng hạn, từ lúc chúng ta còn rất bé, nhiều người trong chúng ta trở nên quen thuộc với sự khen thưởng của cha mẹ mình, và chúng ta học tập sự tán thưởng chính mình theo cách tương tự như vậy. Kết quả là chúng ta trở nên thèm khát nhiều tán thưởng, chấp nhận, và khen tặng, và sợ người khác xem thường, không tôn trọng, và phản đối. Bị lưỡng lự giữa hy vọng và sợ hãi liên quan đến sự chấp nhận và phản đối của người khác, chúng ta không e dè làm bất cứ cái gì có thể nhằm có được sự kính trọng của họ. Chúng ta ăn mặc chải chuốt chỉnh tề, cố gắng xuất hiện trong cách thể hiện tốt nhất của chính mình v.v... Trong cách này, chúng ta hoàn toàn tự mình làm mắc bẫy vào tám mối quan tâm thế gian. Sự thèm muốn xảy ra khi chúng ta hy vọng đạt được điều gì đó, và sợ hãi phát sinh với suy nghĩ không có được nó. Hoặc nếu hoàn toàn có nó, chúng ta sợ bị mất và hy vọng có thể giữ được nó. Tất cả mối hy vọng và sợ hãi này, thương và ghét xuất phát từ việc bám chấp vào những gì là vô thường mà cho là vĩnh cửu. Ngoài sự nhầm lẫn đó, chúng ta hy vọng lớn lao vào samsara. Nếu mọi người sống vĩnh cửu như chúng ta quan niệm, thì không có ai chết và thế giới này không đủ lớn để chứa tất cả những người bất tử này. Các đối tượng của bám luyến, sân hận, hy vọng và sợ hãi tất cả đều khởi lên từ ảo tưởng này, có tác dụng trong trạng thái thức và trong giấc mộng.

    Sau đó thốt ra những lời lăng mạ và vạch ra nhiều khuyết điểm, nếu thấy có sự bất mãn hãy suy niệm, “Mọi ca tụng và lăng mạ giống như các khuynh hướng tiềm tàng, và vì thân không có bản chất nên thái độ thích hay không thích là nhầm lẫn.” Hãy thiền định một cách rõ ràng về sự phản chiếu trong gương như đối tượng tâm linh của bạn. Thay đổi luân phiên giữa ca tụng, lăng mạ và đánh đồng chúng. Đó là thời công phu thứ nhất.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Giải thoát trong lòng tay
    Gửi bởi hoangtri trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 369
    Bài cuối: 10-16-2020, 08:26 AM
  2. Bảy Kỳ Quan Thế Giới Của Phật Giáo
    Gửi bởi caydendau trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-27-2020, 07:46 AM
  3. Phật nói kinh Duyên mệnh Địa tạng Bồ tát
    Gửi bởi uubatac trong mục Giáo lý Nhất Thừa
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 05-18-2020, 08:59 AM
  4. Huyền Thuật Và Các Đạo Sĩ Tây Tạng
    Gửi bởi Tuấn Kiệt trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 05-15-2020, 08:59 AM
  5. Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng
    Gửi bởi hoangtri trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 59
    Bài cuối: 07-22-2019, 09:08 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •