DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 5/12 ĐầuĐầu ... 34567 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 41 tới 50 của 113
  1. #41
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ngay cả dù bạn đang thiền định về đối tượng như trước, nếu thói quen tư duy bất lợi khởi lên, hãy tập trung trên chính tư duy ép buộc đó như sự hỗ trợ cho thiền định bạn. Bất chấp những xu hướng thói quen bất lợi nào của bám luyến, và sân hận khởi lên, hãy nhận biết chúng; và trong một cách thanh thản hãy giải thoát tâm ngay trên chúng. Mỗi khi niệm tưởng khởi lên, hãy nhanh chóng nhận ra nó và buông xả để nó biến mất một cách tự nhiên. Nếu hai niệm tưởng xuất hiện, hãy nhận biết chúng. Đừng chạy theo bất cứ những gì xuất hiện, hãy để chúng xuất hiện và tan biến. Đôi khi, hãy tập trung trên đối tượng thiền quán; và đôi lúc hãy để niệm tưởng khởi lên và tan biến. Trong lúc đó không tạo tác bất cứ những gì về sự xuất hiện, buông lỏng và tan biến của chúng. Do thực hành luân phiên như vậy, chuỗi ý tưởng thúc ép sẽ ngưng kết nối, và niệm tưởng sẽ bị tan vỡ. Do đó, niệm tưởng có hại sẽ ngày càng ít hơn, và cuối cùng sự an định sẽ xuất hiện. Thiền định trong cách này ba ngày hoặc theo kinh nghiệm của bạn. Nếu sự an định đích thực với các đối tượng đó xuất hiện trong dòng tâm thức các bạn, hãy rèn luyện trong việc tìm kiếm sự tỉnh giác của chúng ta. Tổng quát, vì khó hàng phục thói quen gây hại của khuynh hướng tiềm ẩn, việc sử dụng nhiều phương pháp để đặt tâm trong trạng thái tự nhiên của nó là điều quan trọng.

    Trong lúc đang thiền định, nếu tư tưởng bám luyến hay sân hận khởi lên, hãy chú tâm trên chính đối tượng của sự bám luyến hay sân hận đó. Hãy để điều đó là đối tượng thiền định của các bạn. Hãy đặt sự tỉnh giác của bạn ngay trên những niệm tưởng này khi chúng xuất hiện. Trong những giai đoạn đầu của thiền định, dường như niệm tưởng xuất hiện như một dòng chảy liên tục, nhưng khi bạn tiến bộ trong thiền định, những niệm tưởng này dần dần giảm bớt. Chúng trở nên vi tế hơn, số lượng ít hơn và bạn bắt đầu phát hiện khoảng thời gian tạm ngưng hoạt động giữa những niệm tưởng thay vì chúng liên tục. Ở đây hoàn toàn là một chuỗi. Trước tiên, hãy để sự an định đích thực khởi lên. Nỗ lực cho điều đó cho đến khi nó thực sự xuất hiện, và sau đó dấn thân vào giai đoạn kế tiếp của thiền định, đưa đến việc tìm kiếm ra bản chất của giác tánh.

    Tất cả các thực hành mà chúng ta được giới thiệu, bao gồm thực hành chuẩn bị và rất nhiều kỹ thuật trau dồi sự an định được thiết kế để giúp tâm của chúng ta có được sự kiểm soát. Đó là điểm trọng yếu. Tôi đã đề cập rằng điều quan trọng là không nên nhận cách tiếp cận gây hấn để hàng phục tâm, vì nó rất khích động khi chúng ta làm như vậy. Lý do của điều này là những thói quen của rất nhiều độc chất khác nhau từ vô thủy của tâm bao gồm bám luyến, sân hận, và ảo tưởng. Đây là điều tại sao khi Đức Padmasambhava nói điều quan trọng ở đây là sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để điều phục tâm.

    Điểm đặc trưng chính của tất cả rèn luyện này là sự tự-giải thoát, hay sự giải thoát tự nhiên của giác tánh. Có nghĩa những phiền não của tự tâm được giải phóng, hay được tháo gỡ, giống như con rắn khoanh tròn tự tháo ra. Sự giải thoát tự nhiên này xảy ra bởi chính nó, không do một số tác nhân khác. Điều quan trọng là nhận ra sự khác biệt giữa giải thoát tự nhiên và giải thoát bổn nguyên. Về mặt giải thoát tự nhiên, chẳng có vấn đề khó khăn nào để tháo gỡ, và do vậy, không có gì để giải thoát; vì tâm là sự giải thoát bổn nguyên. Về mặt con đường, việc nói về sự giải thoát tự nhiên là điều thích hợp. Tuy nhiên, cuối cùng thì tâm là sự giải thoát bổn nguyên.

    Sự rèn luyện trong năng lượng cần cho sự sống. Giữ thân trong tư thế bảy điểm Vairocana, hãy để xương sống đứng thẳng, và chống hai bàn tay xuống đất. Trong lúc làm vậy, thở ra ba hơi dài, một qua lỗ mũi phải, một qua lỗ mũi trái, và một từ chính giữa. Cùng lúc đó hãy quán tưởng những tội lỗi và che ám được tịnh hóa, và các tội lỗi được thải ra khỏi mũi bạn trong dạng các con bọ cạp, và sau đó chúng bị đốt ra tro trong ngọn lửa ầm ầm của lửa trí tuệ bổn nguyên trên không gian phía trước. Điều này loại bỏ độc tố của năng lượng sự sống. Kế tiếp, cùng với hơi thở vào, trong lúc nuốt nước bọt một lần, ép xuống thành tiếng ở dưới rốn; và không có bất cứ suy nghĩ về đối tượng thiền quán nào, hãy để giác tánh bạn nghỉ ngơi trong sự sáng sủa. Khi bạn không thể làm như vậy nhiều hơn, hãy hoàn toàn thở ra. Làm điều đó trong ba ngày.

    Om Mani Padme Hum !

  2. #42
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Trong trường hợp bạn không có ba lỗ mũi và tự hỏi về lỗ mũi thứ ba đó – lỗ mũi ở giữa – điều này đơn giản có nghĩa là bạn thở ra qua hai lỗ mũi. Một số ít hành giả Tây Tạng chọn việc hít vào, và khi họ thở ra, một số những gì hít vào sẽ bay ra ngoài, nên sự quán tưởng có thể dễ dàng hơn với họ. Bản văn đề nghị hình dung tội lỗi “trong dạng các con bò cạp”, nhưng điều này chỉ có thể có một khả năng xảy ra. Chẳng hạn, nếu đặc biệt thích con gián, bạn có thể tưởng tượng những con gián thoát ra khỏi mũi bạn.

    Rèn luyện trong sự tụng niệm-vajra bất sinh của ba chủng tự. Thải ra những năng lượng sự sống còn dư ra ngoài, và giữ vị trí như trước. Giờ đây khi hít vào, hãy quán tưởng thân của tất cả chư Phật ba thời được rút vào trong chữ OM trắng. Sau đó đẩy năng lượng sự sống phần trên xuống dưới, kéo năng lượng sự sống ở dưới lên trên, và cả hai gặp nhau ở dưới rốn.

    Ở ” của năng lượng sự sống¡giữa “bùa hộ mạng kín phía trên và dưới, hãy quán tưởng tinh túy ngữ của tất cả chư Phật ba thời trong bản tánh chữ AH đỏ rõ ràng, rỗng không, sống động, xuất hiện nhưng không có tự tánh. Hãy đặt nhận biết của bạn ở đây càng lâu càng tốt.

    Khi không thể làm lâu hơn nữa, hãy thở ra cùng lúc với quán tưởng tinh hoa của tâm tất cả chư Phật ba thời phát ra trong dạng một chữ HUM màu xanh dương, và suy nghĩ của các Ngài như một dòng chảy liên tục của Hóa Thân lưu xuất vì lợi ích của thế gian.

    Trong cách đó, hãy kéo dài sự chú tâm của bạn với sự tỉnh giác không dao động, khi hít vào trong bản tánh của chữ OM, khi giữ hơi trong bản tánh của chữ AH, và khi thở ra trong bản tánh của chữ HUM. Làm điều này vào mọi lúc được gọi là sự tụng niệm-vajra bất sinh. Mỗi ngày có hai mươi mốt ngàn sáu trăm chuyển động của năng lượng cần cho sự sống. Vô lượng công đức kết quả từ việc có cùng số lượng tụng niệm-vajra bất sinh của ba chủng tự đó với sự chuyển động của năng lượng sự sống. Làm điều đó trong ba ngày, sau đó làm liên tục. Tất cả điều đó đã được bàn luận liên quan đến sự đạt được an định với các dấu hiệu.

    Dĩ nhiên, sự hô hấp của chúng ta trải qua suốt ngày và đêm. Thay vì lãng phí hơi thở trong việc tham gia nói chuyện phiếm vô ích, v.v..., chúng ta có thể áp dụng sự tụng niệm-vajra vào hơi thở, và điều này đã được nói là có lợi ích to lớn. Người ta thường xuyên hỏi tôi, “À, điều gì xảy ra nếu Ngài thực hiện thở bình?” Câu trả lời của tôi là, “Tại sao bạn không thực hành, và bạn sẽ tìm ra cho chính bạn.”

    Rèn luyện trong sự an định với các dấu hiệu. Vị trí của thân bạn như trước. Kế tiếp, trong khi kiên định nhìn chằm chằm vào không gian phía trước bạn, không thiền định về bất cứ điều gì, tập trung kiên định trên ý thức bạn trong không gian phía trước, không dao động. Gia tăng sự kiên định và sau đó nghỉ ngơi trở lại. Thỉnh thoảng hãy ghi nhận, “Ý thức được tập trung đó là gì?” kiên định lập lại tập trung và sau đó ghi nhận nó lại lần nữa. Làm điều đó một cách luân phiên. Thậm chí nếu có vấn đề sao lãng hay hôn trầm, phải loại bỏ chúng. Trong mọi hoạt động của bạn, hãy dựa trên sự tỉnh thức không dao động. Làm điều đó trong một ngày.

    Trong các thực hành về an định với những dấu hiệu trước đây, có một đối tượng thiền quán như một cây gậy hay một hòn sỏi, nhưng bây giờ không có đối tượng như vậy. Giờ đây hãy đơn giản để cái thấy chằm chằm và tâm thức tỉnh giác nghỉ ngơi trong không gian phía trước bạn, không nhìn quanh. Dù thế nào đi nữa, có gì ở đó để nhìn? Cùng lúc, điều rất quan trọng, nhất là cho người mới tu là duy trì ba phẩm tính: tỉnh thức, tận tâm, và nội quan (tự xem xét nội tâm).

    Gia tăng sự kiên định có nghĩa tập trung, hoặc chú tâm, một cách mãnh liệt hơn. Thỉnh thoảng tập trung trong thiền định và sau đó thư giãn lại. Đừng cố tập trung quá mạnh mọi lúc; đúng hơn là thay đổi luân phiên giữa sự tập trung mãnh liệt và sự thư giãn. Có nhiều cách khác nhau duy trì sự tỉnh thức suốt ngày. Một cách là liên tục kéo dài sự nhận biết của hư không. Cách khác để duy trì sự tỉnh thức là sự tụng niệm-vajra. Bất kể kỹ thuật nào bạn đi theo, điều rất quan trọng là giữa thời công phu bạn đừng loại bỏ tất cả thực hành.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #43
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Kế tiếp giữ thân bạn như trước, đưa tầm nhìn xuống dưới, giải thoát tâm bạn một cách nhẹ nhàng, và không thiền định về bất cứ điều gì, hãy từ tốn giải thoát thân và tâm bạn vào trạng thái tự nhiên của nó. Không có bất cứ điều gì để thiền định, và không có bất kỳ sự biến đổi hay pha trộn nào, đơn giản hãy đặt sự chú tâm của bạn không dao động, trong trạng thái tự nhiên, sự trong sáng, các đặc tính của chính nó, đúng như nó là. An trụ trong sự trong sáng, và an nghỉ tâm để nó được buông xả và tự do. Thay đổi luân phiên giữa sự quán sát ai đang thiền định bên trong và ai đang giải thoát bên ngoài. Nếu nó là tâm, hãy tự hỏi, “Chính tác nhân đó là gì, cái giải thoát tâm và cái tập trung tâm?” hãy kiên định quán sát chính bạn, và sau đó giải phóng trở lại, thậm chí bạn có thể nhận ra tánh giác. Hãy làm điều đó cũng trong một ngày.

    Ý nghĩa của việc đặt tâm “không có bất cứ sự biến đổi hay pha trộn” là gì? Sự biến đổi hay pha trộn của nhận biết bao gồm tư duy thiện và ác, các kế hoạch, và mọi loại đánh giá. Bạn cũng phải thực hành “không dao động”, vậy nếu bạn chỉ ngồi đó với một tâm lang thang, thì bạn không đang thực hành. Hãy để tánh giác của bạn an nghỉ “trong trạng thái tự nhiên, trong sáng tự nhiên của nó,” ngụ ý nếu để sự nhận biết của bạn bị lộn xộn trong lúc thiền định thì bạn không thực hành đúng.

    Sau đó hãy làm như trước. Bây giờ luân phiên chú tâm chặt chẽ ý thức của bạn, tập trung toàn bộ vào nó không dao động, và sau đó nhẹ nhàng giải thoát nó. Trong cách đó, hãy thiền định với sự thay đổi luân phiên chặt chẽ và buông xả. Đôi lúc, hãy hướng cái nhìn chằm chằm của bạn liên tục vào bầu trời. Kiên định tập trung sự tỉnh giác của bạn với khao khát không có bất cứ điều gì để thiền định. Hãy buông xả lần nữa. Đôi khi, một cách kiên định, không dao động hướng sự tỉnh giác của bạn vào không gian bên phải bạn; đôi lúc hướng nó vào bên trái, và thỉnh thoảng hướng nó xuống dưới. Trong mỗi thời, hãy xoay tròn cái nhìn chằm chằm chung quanh những hướng đó.

    Trong giai đoạn thực hành này, bạn kinh nghiệm một cảm giác của hư không, vậy bạn không cần nói với người khác rằng bạn “cần khoảng không”; bạn sẽ có khoảng không. Khi “hướng cái nhìn của bạn lên bầu trời,” bạn ngước cái nhìn chằm chằm của bạn lên, mà không ngửa đầu ra sau. Chỉ nhẹ nhàng nâng tầm nhìn lên hư không. Tánh nền tảng của sự nhận biết mà bạn đem vào không gian này là Phật tánh, giống như hư không, bao la và không có tự tánh. Đây là giác tánh mà bạn đang dần dần tìm kiếm để nhận ra, và đây là tánh giác mà tự thân nó rất rõ ràng.

    Thỉnh thoảng tự hỏi, “Tánh giác của người đang tập trung quan tâm là gì?” hãy để tự thân tánh giác tự quán sát nó đều đặn. Đôi khi hãy để tâm bạn đến và nghỉ ngơi ở giữa ngực, và để mặc cả hai ở đó. Thỉnh thoảng, tập trung nó một cách đều đặn trong sự rộng mở của bầu trời và để mặc nó ở đó. Do đó, bằng việc nâng cái nhìn chằm chằm với nhiều cách thay đổi luân phiên, tâm được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó. Như một hướng dẫn về điều này, nếu sự nhận biết an trụ một cách đều đặn, minh bạch, và vững vàng, thì bất cứ nó được đặt ở đâu, sự an định sẽ xuất hiện.

    “Sự rộng mở của bầu trời,” ngụ ý phẩm tính bao la của giác tánh không ranh giới hay giới hạn. Thuật ngữ “giải thoát” xuất hiện trong những bối cảnh khác nhau ở luận thư này, và nó có ý nghĩa khác nhau trong mỗi bối cảnh. Nó xuất hiện lần nữa với sự liên quan đến tịnh quang của tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng và cũng trong tiến trình chuyển tiếp của sự thiền quán ổn định, mỗi lúc với ý nghĩa có phần khác nhau.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #44
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Giác tánh an trụ liên tục là Phật tánh, hay tathagatagarbha (Như Lai Tạng), có nghĩa phôi thai, hoặc tinh túy của Tathagata, Đức Phật. Đây là sự bao la, bản tánh như hư không của giác tánh chính chúng ta. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện tại của mình, như thể chúng ta nhồi nhét nó vào một đường ống cong queo rồi đem vứt vào thùng rác. Tinh túy của Phật tánh này đưa đến sự bình đẳng của luân hồi và niết bàn. Nó là nền tảng của luân hồi và niết bàn và siêu vượt ba thời, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Do vậy, bản tánh của nhận biết là vượt lên hiện tại. Một số người trong các bạn có thể tự hỏi, “Ngài nói tánh giác đó vượt lên hiện tại, nhưng một chỗ nào đó trong bản văn này có đề cập đến ‘sự nhận biết của hiện tại’ hay ‘tánh giác hiện tiền’. Ngài làm thế nào để hòa hợp hai trình bày này?” có những cách sử dụng khác nhau về thuật ngữ “hiện tại”. Trong trường hợp trước, “hiện tại” ám chỉ những gì đang xảy ra bây giờ, như sự tương phản với quá khứ hoặc tương lai. Trường hợp sau liên quan đến “tánh giác hiện tiền”, có nghĩa tánh giác là sự bổn nguyên không khởi đầu và không kết thúc. Do vậy, giác tánh này là của hiện tại bổn nguyên. Sự phân biệt ở đây là giữa chân lý quy ước và chân lý tối thượng.

    Đoạn văn này kết thúc với trình bày, “Do đó, nhờ nâng cái nhìn chăm chú vào nhiều hướng khác nhau một cách luân phiên, tâm được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó. Như một chỉ dẫn về điều này, nếu sự nhận biết tồn tại sinh động, liên tục, và ổn định, dù nó được đặt ở bất cứ đâu thì sự an định sẽ xuất hiện. Có những chỉ dẫn nhờ đó bạn có thể biết sự an định đó có khởi lên trong dòng tâm thức mình hay không. Khi đạt được điều đó, bạn sẽ chẳng cần phải nói với mọi người là “hãy cho tôi khoảng không”, và bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô độc. Bạn đặt sự chú tâm của mình ở bất cứ đâu, nó sẽ được thấm nhuần phẩm tính của thanh thản, giống như ngọn lửa đèn cầy không bị bập bùng vì gió.

    Trong tiến trình thực hành, bạn có thể kinh nghiệm bất kỳ trong ba phẩm tính sau: hoan hỷ, trong sáng, và phi khái niệm. Nếu không bám chấp vào chúng, chúng sẽ dẫn đến sự thành tựu của ba hiện thân Phật: Pháp Thân, Báo Thân, và Hóa Thân. Nếu phản ứng chấp bám vào các kinh nghiệm này, thì sự hoan hỷ sẽ dẫn đến tái sanh trong cõi dục giới, sự trong sáng sẽ dẫn đến tái sanh trong cõi sắc giới, và khao khát sự phi khái niệm sẽ dẫn đến tái sanh vào cõi vô sắc. Tất cả ba cõi này đều ở trong chu trình sinh tử, nên trong thực hành thiền định không có quan điểm nào để đạt được bất cứ ba trạng thái này. Quan điểm là “đừng bám chấp vào chúng.” Nếu nhận biết trở nên lộn xộn và không tỉnh thức, đó là vấn đề của uể oải hay mơ hồ (hôn trầm); vậy hãy làm nó rõ ràng, gợi cảm hứng nó và nâng cái nhìn chăm chú của bạn lên. Nếu nó bị sao lãng và khích động (trạo cử), điều quan trọng là bạn hãy hạ thấp tầm nhìn xuống và buông xả nhận biết. Nếu samadhi (đại định) khởi lên thì trong đó chẳng có điều gì mà bạn có thể nói, “đây là sự thiền định,” và “đây là sự khái niệm hóa” điều này là vấn đề của sự không biết. Vậy hãy thiền định với sự thay đổi luân phiên của tập trung và buông xả, và nhận biết ai đang thiền định. Hãy nhận thức các thiếu sót của an định và lập tức loại bỏ chúng.

    Như tôi đã đề cập trước đây, sự uể oải làm tâm bị chìm đắm trong đó tính nhạy bén của tâm bị mất đi. Điều này xảy ra khi chúng ta “bị say thuốc” và mất sự sắc bén, hay sinh động của việc chú tâm. Khi sự hôn trầm gia tăng, nó chuyển thành sự ngủ mê giống như bầu trời u ám. Khi sự ngủ mê gia tăng, sự trong sáng giảm xuống; nên chúng có mối liên hệ đảo ngược. Ngoài ra, khi sự mơ hồ bắt đầu, tâm bị mờ tối và sự trong sáng biến đi. Khi tâm bị hôn trầm trong bất cứ những cách này, nó không tỉnh thức, nên bạn phải áp dụng việc nâng cao sự trong sáng của tâm.

    Tại sao chủ thể tâm lại trở nên lộn xộn, không tỉnh thức, lỏng lẻo, mơ hồ, và hôn trầm? Nói chung, trước hết chúng ta đã quen thuộc với những trạng thái không lành mạnh của tâm từ thời vô thủy. Mà khi đang trụ trong thiền định bạn cũng có thể bị dẫn đến uể oải và hôn trầm. Thứ hai, thời gian và mùa khi bạn thiền định có thể gây ra mệt mỏi và hôn trầm. Thứ ba, nếu bạn đang thiền định với người mà giới nguyện mật tông của họ bị hư hoại thì điều này sẽ cản trở sự thực hành của bạn bằng việc phát sinh mệt mỏi hay hôn trầm. Thứ tư, chế độ ăn hàng ngày của bạn cũng có thể tạo ra vấn đề này. Thứ năm, nếu tư thế của bạn kém trong lúc hoặc giữa các thời thiền định, cũng có thể gây ra mệt mỏi và hôn trầm. Cuối cùng, nếu đang thiền định không đúng cách, tự thân sự thực hành sẽ gây ra mệt mỏi và hôn trầm. Do vậy, bạn có nhiều lý do cho việc mệt mỏi và hôn trầm!

    Về phần môi trường sống của bạn, để tránh mệt mỏi và hôn trầm, điều quan trọng là bạn đừng thiền định trong một vùng trũng, như trong một thung lũng sâu hoặc ở bất cứ nơi nào thấp hoặc kín. Đúng hơn nên thiền định ở một nơi rộng rãi và thông thoáng. Cũng nên tránh nơi bị nhiều ô nhiễm, ví dụ với những người đã sống ở đó và giới nguyện mật tông của họ bị vi phạm. Nếu thấy môi trường có vẻ cản trở sự thực hành của bạn, hãy tịnh hóa nó. Bạn có thể làm điều này với nghi thức đốt hương trầm, hoặc áp dụng các phương tiện tẩy tịnh khác. Hãy cẩn thận việc chính bạn làm ô nhiễm nó. Về phần thời gian cho thiền định, mùa hè có thể là thời gian dễ hôn trầm vì sức nóng, và mùa xuân dễ phát sinh cảm giác lười biếng, dễ dẫn đến mệt mỏi và hôn trầm. Do vậy, đây là những mùa không tối ưu để thiền định. Ở Tây Tạng thông thường có sự ưa thích thiền định trong mùa thu và đông.

    Nói chung, trên căn bản một ngày, thời gian tốt nhất để thiền định là sáng sớm; và tốt thứ hai là buổi chiều tối. Việc thiền định sẽ không tốt trong sức nóng của ngày vì dễ dẫn đến mệt mỏi và hôn trầm. Về mặt thực phẩm, điều quan trọng là bạn phải có chế độ ăn thích hợp không làm bạn cảm thấy nặng nề, hôn trầm, và buồn ngủ. Bạn cũng có thể ban phước cho thực phẩm bằng việc tụng niệm cầu nguyện hoặc tối thiểu là niệm OM MANI PADME HUM. Bằng bất cứ phương tiện nào, hãy chắc chắn chế độ ăn của bạn là tốt, hãy tịnh hóa thực phẩm với sự ban phước v.v...

    Om Mani Padme Hum !

  5. #45
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Về mặt tư thế, tốt nhất là không nên nằm để thiền định vì dễ xảy ra mệt mỏi và hôn trầm, vì khi nằm làm bạn cảm thấy buồn ngủ. Hãy ngồi thẳng lưng, không cong xuống. Cuối cùng về tự thân kỹ thuật thiền quán, nhất là người mới bắt đầu, nếu chỉ cố ngồi đó nhìn chăm chú vào không gian, không có đối tượng thiền quán nào, thì tự thân kỹ thuật – là sự thực hành không khéo léo – có thể dẫn đến hôn trầm và tâm thức đi rông, do vậy, bạn bị mất hết thời gian. Trong cách này, bạn có thể bị kẹt vào chướng ngại của niệm tưởng lan man, và có thể thực sự ngủ gật. Để chống lại điều này, điều quan trọng là nhận biết cách thực hành đúng. Trong kỹ thuật đặc biệt này, tánh giác của bạn được thực sự nghỉ ngơi trong không gian phía trước; nhưng sự nhận biết của bạn phải được thấm nhuần với ba phẩm tính của tỉnh thức, nội quán, và tận tâm. Nếu thực hành theo cách đó, các vấn đề sẽ được đẩy lui.

    Sự mệt mỏi, hôn trầm, và mơ hồ hình thành một chuỗi suy thoái. Đó là chuỗi tương quan khác của khích động, tán loạn, và sai quấy. Khi sự khích động bắt đầu, bạn có thể nhớ lại mọi loại sự việc từ quá khứ. Ký ức tràn ngập tâm bạn, bạn bám chấp vào chúng và bị chúng lôi đi. Bạn không chỉ thực sự nhớ lại sự việc xảy ra trong quá khứ mà còn làm tồi tệ hơn do tạo tác trên chúng. Sau đó tâm thức còn nhảy vào tương lai và suy nghĩ về mọi sự việc cần làm, và sau đó tâm trụ trong sự việc xảy ra ở hiện tại. Tâm lang thang quanh quẩn trong bối rối lo âu suốt ba thời. Khi điều này tiếp diễn, nó có thể dẫn đến một cảm giác lo lắng trong lòng, và sự lo lắng đó có thể kết hợp với một tâm thức mất thăng bằng. Sự chán nản có thể khởi lên, mà bạn có thể cảm thấy trong ngực mình. Đó là những dấu hiệu của khích động.

    Khi sự tán loạn khởi lên, tâm bị tấn công tới tấp với những tưởng tượng có xu hướng ép buộc về các sự việc trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Tâm thức bị ở trong sự náo động của khái niệm hóa, và kết quả là mất ngủ. Điều này cũng có thể là kết quả của cảm giác sự căng thẳng trong vai hay trong ngực, và bạn có thể cảm thấy khích động. Nếu tán loạn tiếp tục không giảm bớt, điều này dẫn đến cảm giác hối tiếc, tự lên án, và phạm tội. Ví dụ, khi bạn thấy thiền định của mình tiến bộ kém, có thể bạn kết luận, “Thiền định của tôi vẫn tồi tệ, chẳng đến được đâu. Tôi sẽ chẳng bao giờ đến được đâu cả. Tôi đã lãng phí thời gian ngay từ đầu. Tôi ngu dại đi quanh quẩn như vậy cho điều gì?” Đó là ba giai đoạn. Tất cả ba giai đoạn này của sự khích động, tán loạn, và hối tiếc bao gồm việc tạo thành tư tưởng ép buộc, ở đó tự bản thân tâm thức chỉ làm cho nó tệ hại hơn. Lẽ dĩ nhiên, trong lúc đó, bạn chẳng đạt được sự an định.

    Có nhiều cách khác mà bạn có thể tạo ra những vấn đề trong thiền định của mình. Ví dụ, khi sự thiền định có vẻ tiến triển tốt, bạn có thể tự tán thưởng mình với suy nghĩ, “Tôi đang làm thực sự tốt. Thực hành này chắc chắn sẽ dẫn đến thành tựu, vì tôi là một thiền giả tốt như vậy.” Tất cả tư duy như vậy là sự biểu lộ của bám luyến, níu giữ và chấp bám, điều này cản trở thực hành. Chẳng hạn, bạn có thể níu giữ sự hoan hỷ, trong sáng khởi lên trong thiền định. Sự bám giữ như vậy giống như mùi thơm bám vào quần áo ngay cả khi nguồn của mùi thơm đã được lấy ra. Do đó, tâm bám vào đối tượng của kinh nghiệm giống như mùi thơm bám vào quần áo. Sự bám chấp xảy ra một cách đặc biệt khi bạn không biết về những thành tựu cao hơn trên con đường tâm linh. Nếu không nhận biết về những thành tựu cao hơn này bạn bị buộc phải bám chấp, và nhận biết chỉ với kinh nghiệm của mình, suy nghĩ, “Ồ, điều này là tất cả”. Thái độ này làm ngăn trở sự tiến bộ cao hơn trên con đường. Điều này có thể là một lý do tại sao những hành giả Hinayana tự họ ngừng đi theo con đường của Mahayana. Họ bám chấp vào thực hành của riêng mình, suy nghĩ, “Điều này là tất cả,” và họ khước từ xem xét các thực hành cao hơn, sâu hơn. Tương tự, trong bối cảnh của tantra, một số người bám chấp vào hai giai đoạn phát triển và hoàn thiện (tương ứng với Mahayoga và Anuyoga) và suy nghĩ, “Điều này là cao nhất. Chẳng có gì vượt hơn điều này.” Bởi vì thái độ bám chấp vào hai giai đoạn này của thực hành, họ không thể đi vào thực hành của Atiyoga hay Đại Viên Mãn. Do đó, sự bám chấp có thể xảy ra trong một bối cảnh đa dạng, rộng lớn.

    Sự chấp bám có thể xảy ra liên quan đến quốc tịch hay chủng tộc của bạn; đó là bạn có thể bám chấp vào nhân dạng của chính mình, suy nghĩ, “Tôi là người Trung Quốc,” “Tôi là người Mỹ,” hoặc “Tôi là người Anh.” Tất cả các trường hợp nhận dạng này đều là biểu hiện của bám chấp và níu giữ. Trong thiền định, bất cứ khi nào bạn cảm thấy mình là một hành giả giỏi, hãy nhận thức điều này là một biểu hiện của bám chấp, níu giữ, và bám luyến. Bất cứ lúc nào có sự bám chấp vào bất kỳ ba phẩm tính hoan hỷ, trong sáng, hoặc vô niệm, thì sự bám luyến và chấp giữ chắc chắn hiện diện. Đây là một chướng ngại.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #46
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Các vị thầy tâm linh có thể có thiếu sót và giới hạn. Ví dụ, một vị thầy có thể giữ chắc một quan điểm giáo phái, suy nghĩ, “Bất kỳ giáo lý nào chỉ có giáo lý của Nyingma là tốt.” Các vị thầy của những phái khác của Phật giáo Tây Tạng có thể nghĩ chỉ có giáo lý của Kagyupa, Gelugpa, hay Sakyapa là con đường thuần khiết, và tất cả giáo lý khác đều sai. Tương tự, một số giáo lý hệ phái tuyên bố rằng chỉ có giáo lý Mahayana hoặc Hinayana là hiệu lực. Tuy nhiên, có khả năng rằng việc thiếu sót có thể chỉ do sự thiếu kém trong việc tiếp thu về trí tuệ và trí thông minh của đệ tử. Do đó, Đức Padmasambhava khuyên đệ tử và những vị thầy nên tránh rơi vào chủ nghĩa hệ phái và tâm thức chật hẹp. Nếu thấy bạn có vấn đề về hệ phái, thì trước hết, bạn nên tiếp nhận giáo lý. Sau đó với chỉ dẫn của một vị thầy tâm linh chân chính, bạn có thể tự mình thoát khỏi lỗi đó. Cũng là việc thích hợp và có ích khi dâng cúng bài nguyện khẩn cầu đến vị thầy tâm linh và vị Bổn Tôn bạn đã chọn. Đây là những cách hiệu quả để loại bỏ những vấn đề và chướng ngại của chúng ta. Tóm lại, mọi vấn đề như vậy đều khởi lên từ một nguồn, đó là sự chấp bám.

    Tất cả chúng ta đều là chủ thể của sự bám chấp. Nó không xảy ra chỉ với một hay hai người, tất cả chúng ta phải nhận ra và chống lại nó. Hãy sử dụng các giáo lý đã tiếp nhận để kiểm tra cách cư xử và tâm thức của bạn để thấy phạm vi tâm thức của bạn vẫn là chủ thể của ba độc bám luyến, sân hận, và ảo tưởng. Kiểm soát tâm bạn là công việc của bạn. Công việc của bạn không phải là khảo sát và đánh giá người khác. Trong số các đệ tử của Giáo Pháp, không may có một số người tự họ dành hết thời gian để phán xét người khác. Những đệ tử như vậy đã không áp dụng giáo lý vào thực hành, mà chỉ cho phép mình quan tâm đến tám việc thế gian. Do vậy, cho dù mọi giáo lý đã tiếp nhận, trong thực tế họ trở thành người tệ hơn. Một lần nữa, tôi nhấn mạnh lại rằng công việc của chúng ta là quán sát cách cư xử của chính mình và thấy tâm chúng ta còn là chủ thể của bám luyến, sân hận, và ảo tưởng biết bao nhiêu. Kiểm soát cư xử của người khác không phải là việc của bạn: như khi họ thức dậy, họ ăn thực phẩm gì, khi nào họ đi ngủ, họ thiền định được bao nhiêu, khi nào họ đi tắm, và mọi thứ. Trong mọi vấn đề như vậy, chúng ta nên nhớ công việc của mình. Một mặt, người Mỹ có quá nhiều tự do, và mặt khác, họ chẳng được tự do. Sự thừa thãi tự do làm họ nói chuyện phiếm và nói xấu trong mọi mặt. Mà điều này không phải tự do thực sự. Tôi nghĩ rằng tất cả các bạn cần tự do cho chính mình. Nếu muốn tự do chân chính, hãy dâng hiến chính bạn cho thực hành tâm linh chân chính.

    Sự an định hoàn toàn giống như một đèn dầu không bị dao động vì gió. Dù đặt nhận biết ở đâu, nó sẽ hiện diện không dao động; giác tánh là sự rõ ràng sống động không bị nhiễm ô bởi mệt mỏi, hôn trầm, hay mơ hồ, dù đặt nhận biết ở bất cứ đâu, nó đều ổn định và tập trung sắc bén; không dao động bởi tư duy bất định, nó là sự chân thật. Do đó, một trạng thái thiền định thuần tịnh khởi lên trong dòng tâm thức bạn; và trước khi điều này xảy ra, tâm phải được đặt trong trạng thái tự nhiên của nó. Nếu không có an định chân chính khởi lên trong dòng tâm thức, thì ngay cả khi sự nhận biết được chỉ ra, thứ được đơn thuần đưa ra sẽ như lời nói ngoài miệng về quan điểm và sự nguy hiểm là hành giả có thể không chống nổi với chủ nghĩa giáo điều. Do đó, gốc rễ của mọi trạng thái thiền định tùy thuộc vào điều này. Vì lý do này, đừng đưa đến nhận biết quá sớm, mà hãy thực hành cho đến khi có một kinh nghiệm ổn định. Cho đến thời điểm ấy, sự chỉ dẫn liên quan đến việc thực hành có dấu hiệu và không dấu hiệu. Samaya.

    Sự nói đến nhận biết là “trí tuệ sắc sảo” và “chân thực” đi đôi với sự so sánh của một ngọn lửa không bị dao động bởi gió. Nhóm từ, “quan điểm chỉ là lời nói đãi bôi” có nghĩa đen là “quan điểm chỉ ở trong miệng bạn” thay vì có hiểu biết chân chính của cái thấy. “Chủ nghĩa giáo điều” xảy ra khi bạn cảm thấy, “Ồ, tôi đã đạt được nó,” và bạn chẳng thể lắng nghe bất kỳ ai khác. Khi bạn nói, “Ồ, chỉ một mình tôi có được nó,” thì những gì bạn thực sự có chỉ là quan điểm trong miệng bạn, không phải sự thấu suốt chân chính. Chủ nghĩa giáo điều như vậy xảy ra giống như khi bạn tiếp nhận giáo lý trên bản tánh của nhận thức mà trước hết không có sự an định đích thực.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #47
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    SỰ THẤU SUỐT (Thiền quán)

    Hiển Lộ Bản Chất Của Tánh Giác

    Theo cách đó, trước khi an định đích thực khởi lên trong dòng tâm thức bạn, hãy sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để đặt tâm bạn trong trạng thái tự nhiên của nó. Như một phép loại suy, nếu bạn muốn nhìn sự phản chiếu của các hành tinh và ngôi sao trong một hồ nước; bạn sẽ không thấy chúng nếu nước bị khuấy động bởi sóng gợn. Nhưng bạn sẽ nhìn thấy rõ ràng khi nhìn vào hồ mà nước thì trong trẻo và không chuyển động. Tương tự, khi tâm bị dao động bởi cơn gió của các đối tượng, giống như cưỡi một con ngựa chưa thuần nhảy chụm bốn vó, ngay cả nếu được giới thiệu vào tánh giác, bạn sẽ không nhận ra nó; vì một khi tâm bị quan điểm có xu hướng ép buộc, thì sự điều khiển cũng chẳng giúp được; tâm không thấy được bản tánh chính nó.

    Theo tập quán của một số truyền thống giáo lý, trước tiên bạn phải được giới thiệu vào cái thấy, và trên nền tảng đó, bạn tìm kiếm trạng thái thiền quán. Điều này làm khó nhận ra tánh giác. Trong truyền thống được giới thiệu ở đây, trước tiên bạn thiết lập trạng thái thiền quán, rồi trên nền tảng đó bạn được giới thiệu vào cái thấy. Mục đích sâu xa này chắc chắn làm bạn nhận dạng được tánh giác. Do đó, trước hết hãy đặt tâm bạn trong trạng thái tự nhiên của nó, sau đó sinh khởi sự an định đích thực trong dòng tâm thức bạn, và hiển lộ bản chất của tánh giác.

    Tư thế của thân bạn cũng trong bảy thuộc tính như trước. Kiên định tập trung cái nhìn chăm chú của bạn vào không gian phía trước, vào khoảng không tại mức đầu mũi bạn, không rối loạn hoặc mang tính nhị nguyên. Đây là lợi ích của việc nhìn chăm chú này; ở giữa ngực tất cả chúng sanh có kinh mạch rỗng kati như pha lê, đó là một kinh mạch của trí tuệ bổn nguyên. Nếu nó hướng xuống và bị đóng kín, trí tuệ bổn nguyên bị che ám, và ảo tưởng tăng trưởng. Do đó, trong loài vật, kinh mạch này hướng xuống và bị đóng kín, nên chúng ngu dại và bị lừa gạt. Trong con người, kinh mạch đó hướng nằm ngang và hơi mở ra, nên trí năng con người được sáng suốt và ý thức được rõ ràng. Ở người đạt thành tựu và trong chư bồ tát, kinh mạch đó mở rộng và hướng lên trên, nên xuất hiện samadhi (đại định) không thể tưởng, trí tuệ bổn nguyên của tri kiến, và nhận thức thấu thị (ngoại cảm) bao la. Điều này xảy ra tùy theo phẩm tính rộng mở của kinh mạch trí tuệ bổn nguyên đó. Do vậy, khi mắt nhắm lại, kinh mạch đó bị đóng kín và hướng xuống, nên ý thức bị mơ hồ bởi ảo tưởng của bóng tối. Bằng việc kiên định tập trung cái nhìn chằm chằm, kinh mạch đó hướng lên và mở ra; khiến tách nhận biết thanh tịnh khỏi nhận thức bất tịnh. Sau đó, samadhi (đại định) vô niệm xuất hiện rõ ràng, và rất nhiều kiến thanh tịnh xuất hiện. Vì thế, cái nhìn chăm chú là quan trọng.

    Trong tất cả luận thư ngoài các quyển Tantra Mặt Trời Rộng Mở Trong Sáng Của Đại Viên Mãn và Giáo Pháp Uyên Thâm Của Sự Xuất Hiện Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Nhận Biết Giác Ngộ Liên Quan Trong Việc Tìm Kiếm Tâm, kinh mạch kati trống rỗng như pha lê được giữ bí mật, và không có sự thảo luận về kinh mạch đặc biệt của trí tuệ bổn nguyên này. Kinh mạch này không giống như kinh mạch trung ương, kinh bên phải, kinh bên trái, hoặc bất kỳ kinh mạch nào của năm luân xa (chakra); và tuyệt đối không giống bất cứ kinh mạch nào. Hình dáng của nó giống như một hạt tiêu gần như mở ra, bên trong không có máu hay bạch huyết, và trong suốt, rõ ràng. Một kỹ thuật đặc biệt để mở kinh mạch này được giữ kín trong các hướng dẫn về sự giải thoát tự nhiên, gắn liền với lỗ mở ở dưới, đại cực lạc, và dục vọng. Các thừa thấp hơn thậm chí không có tên của kinh mạch này.

    Vì thế, trong lúc duy trì kiên định cái nhìn chăm chú, hãy đặt sự nhận biết một cách không dao động, vững vàng, trong sáng, rỗng không, và tập trung, không có bất cứ thứ gì để thiền định trong phạm trù của không gian. Khi định lực tăng trưởng, sự kiểm soát ý thức được ổn định. Sau đó nhẹ nhàng buông xả và nghỉ ngơi. Hãy thực hành điều đó (đặt sự nhận biết) một cách đều đặn và quán sát ý thức trong lúc đó không dao động. Bản tánh của tâm là gì? Hãy để tự nó quán sát không dao động. Nó là một cái gì đó trong sáng và vững chắc, hoặc nó là một sự rỗng không chẳng có gì? Có cái gì đó để nhận biết không? Hãy nhìn đi nhìn lại nhiều lần, và tường thuật kinh nghiệm của bạn cho tôi! Vì thế, hãy tham gia vào việc quán sát bản tánh của nó. Làm điều đó trong một ngày.

    Om Mani Padme Hum !

  8. #48
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tham gia trong việc Tìm kiếm Tâm

    Thực hiện adhisara và cái nhìn chăm chú như trước. Đặt tâm bạn kiên định trong không gian phía trước, và để nó hiện diện ở đó. Hãy khảo sát kỹ: điều gì mà bạn đã đặt ở đây hôm nay? Hãy xem nếu người đang đặt và tâm được đặt là một hay hai. Nếu là hai, thì phải có hai tâm, vậy một phải ở trong Phật tánh, trong khi cái kia đi lang thang trong sinh tử. Vậy hãy quán sát dứt khoát liệu nó có hiện hữu như là hai hay không. Nếu nó không hơn một, vậy cái một đó có phải là tâm? Hãy quán sát: thực tại của cái được gọi là “tâm” là gì? Tìm thấy nó bằng việc đi tìm ở các đối tượng bên ngoài là điều không thể.

    Người ta dường như có một đam mê tìm kiếm một số sự việc chứ không phải những người khác. Tất cả chúng ta đều có cha mẹ, nhưng chúng ta có khuynh hướng không để ý đến cha mẹ mình. Một số trong chúng ta có vị thầy tâm linh và chúng ta có khuynh hướng phớt lờ vị thầy của mình. Đó là những nguyên nhân để giác ngộ, mà chúng ta có khuynh hướng bỏ qua điều đó. Khi thực sự đi tìm Phật tánh, chúng ta lại tìm kiếm ở bên ngoài. Vậy chúng có thể ở đâu? Chúng ta nhìn ra bên ngoài trong mọi hướng và trong nhiều cách khác nhau để tìm những phẩm tính của Phật tánh. Mà những gì chúng ta thực sự tìm kiếm là chính chúng ta.

    Khi hướng nhận biết của bạn vào không gian phía trước, điều này dường như có ai đó đang hướng nó. Dường như có một tâm được tập trung, và dường như có một nơi ở đó tâm được tập trung. Do đó, nếu tâm này bị hướng dẫn như thế nó có trở thành một loại sự vật hay không? Nếu vậy thì loại sự vật đó là gì? Ý nghĩa việc hướng tâm bạn vào không gian phía trước là gì? Nó có giống như đặt một đồ vật, giống như một cái bàn ở phía trước bạn hay không? Loại sự vật bạn đang đặt ở đó là gì?

    Loại câu hỏi đưa ra ở đây hoàn toàn tương tự với việc nghiên cứu về một cá nhân không có nhân dạng. Trong sự nghiên cứu hiện tại, bạn hỏi những câu hỏi như, “Tâm có màu sắc không? Nó có hình tướng không? Nó là loại sự vật gì? Nó là một sự vật hiện tại được đặt phải không?” Theo đuổi một loạt các câu hỏi đó, bạn hỏi, “Cái gì ở đó đang đặt tâm?” Nếu có hai tâm – một được đặt và cái kia là người đặt, thì một trong chúng hoàn toàn giác ngộ, trong khi cái kia vẫn lang thang trong samsara hay sao? Nếu có hai, tại sao lại ngưng ở đó? Hay là có cái thứ ba quán sát cả hai? Bạn dừng lại ở đâu trong sự đi ngược lại bất tận này?

    Đây là điểm trọng yếu: sự tìm hiểu dựa trên kinh nghiệm vào những vấn đề này cho đến khi bạn đi đến sự hoàn toàn tin chắc. Ngay cả nếu bạn thực hành thiền định này một ít, nếu không đạt được tri kiến nào đó bạn sẽ không đạt được khả năng trong rèn luyện này. Một số người thực sự tiêu tốn nhiều năm dấn thân vào thực hành nghe, suy nghĩ, và thiền định: tuy vậy họ vẫn không đạt được tri kiến nào đó. Lý do là cách nghiên cứu của họ không được kiên quyết.

    Liên quan đến việc tâm được đặt và cái để đặt tâm, bạn phải tìm ra loại hiện tượng của tâm này là gì. Nó có phải là một vật? Là một vật chất? Nó có thực hay không? Nếu là một vật vậy nó có màu gì? Nó có hình dáng không? Trong tiến trình của loại tìm hiểu này, bạn cũng hoàn toàn tự hỏi bản tánh mình. Cái “Tôi” này ám chỉ điều gì? Bản tánh của “Tôi” là gì? Chư Phật và bồ tát trong quá khứ chẳng từng tìm thấy tâm trong bất cứ đối tượng bên ngoài nào, nên dường như tâm không hiện hữu trong cách như vậy. Về mặt này, tâm là bất sinh; nó liên tục, và không giữ nguyên tình trạng. Những đối tượng bên ngoài bao gồm năm nguyên tố và toàn bộ môi trường. Chẳng nơi nào có thể tìm thấy tâm ở đó.

    Hãy để người đang suy nghĩ, “Tâm giống như gì?” quán sát chính ý thức này và tìm kiếm nó. Hãy kiên định quán sát ý thức của thiền giả và tìm kiếm nó. Quán sát: trong thực tại cái được gọi là “tâm” có hiện hữu không? Nếu có, nó phải mang một hình dáng, vậy loại hình dáng nó có là gì? Hãy nhìn một cách không che đậy và tìm ra nó. Hãy nhìn một cách kiên quyết để thấy loại hình dáng mà nó có, hoặc nó là hình cầu, hình vuông hay bán nguyệt, hoặc một hình tam giác, v.v... Nếu bạn nói nó hoàn toàn có hình dáng, vậy hãy chỉ cho tôi thấy hình dáng đó! Nếu bạn nói chẳng có gì để chỉ, hoặc nói với tôi liệu nó có một hình dáng mà không thể chỉ ra hay không? Hãy nhận dạng tánh rỗng không của hình dáng.

    Om Mani Padme Hum !

  9. #49
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nhìn một cách không che đậy có nghĩa nhìn trực tiếp, không thiền định. Đức Padmasambhava nói, “Nếu có thể tìm thấy một hình dạng cho tâm, hãy cho Ta xem nó là gì!” Có lẽ bạn có thể thực sự tìm thấy. Có thể tất cả chư Phật và bồ tát ở quá khứ chẳng tìm thấy mà bạn sẽ có khả năng tìm thấy. Nếu vậy, thật tuyệt diệu! Về phần tâm, “hình dáng rỗng không” có nghĩa chẳng có hình dáng nào được tìm thấy với loại tìm hiểu này. Nó không có nghĩa là tâm có một hình dáng trống rỗng.

    Tương tự, chính bạn hãy kiểm tra để thấy nó có bất cứ màu sắc, quy mô, chiều kích nào không. Nếu bạn nói nó không có các điều đó, vậy quán sát xem nó có phải là một rỗng không chẳng có gì hay không. Nếu bạn nói tâm là một rỗng không chẳng có gì, vậy làm thế nào một rỗng không chẳng có gì có thể biết cách thiền định ra sao? Nếu nói rằng không thể tìm thấy nó thì có lợi ích gì. Nếu nó hoàn toàn không có gì, vậy cái gì sinh ra sân hận? Có phải không có một ai đó nghĩ rằng tâm chẳng được tìm thấy không? Hãy kiên định nhìn thẳng vào đó. Nếu bạn không phát hiện nó là gì, hãy kiểm tra cẩn thận xem sự nhận biết khi tự hỏi nó ở đâu có phải là chính bản thân của tâm hay không. Nếu đúng vậy, thì nó giống như cái gì? Nếu nó hiện hữu, thì phải có một vật chất và màu sắc, mà chúng có sẵn chưa? Nếu nó không hiện hữu, bạn cũng giống như một xác chết vô ý thức; nhưng không có ai ở đó để suy nghĩ sao? Vì thế, trong phạm vi giới hạn của hiện hữu và không hiện hữu; hãy quán sát kiên định xem nó như thế nào. Trong cách đó hãy rút nhận biết của bạn vào trong và hướng thẳng vào nó.

    Trong tìm hiểu này, bạn rơi vào một cực đoan nếu kết luận rằng tâm thực sự hiện hữu và có những tính chất nào đó như hình dáng, màu sắc, chiều kích, v.v... Cực đoan khác là kết luận tâm chẳng có gì. Nhiệm vụ khó khăn là định vị con đường của bạn giữa hai thái cực này. cái đầu tiên là cực đoan vĩnh cửu bám chấp vào tâm như một đối tượng hay đồ vật đang tồn tại. Nhưng khi bạn đổi hướng khỏi cực đoan đó, bạn lại giống như rơi vào thái cực đối nghịch của chủ nghĩa hư vô, suy nghĩ rằng tâm đơn giản là chẳng có gì. Nếu kết luận tâm là không có gì, vậy ai là người nghĩ ra điều đó. Nếu nó chẳng có gì, vậy làm sao cái không có gì có thể kết luận là nó không hiện hữu?

    Đối với những khác biệt trong trí thông minh, một số người có thể tường thuật rằng họ chẳng tìm thấy gì trong phạm vi của hiện hữu và không hiện hữu. Hãy để họ khảo sát kỹ lưỡng cái tâm suy nghĩ rằng chẳng có gì được tìm thấy. Có điều gì đó là tĩnh lặng? Có một sự trong sáng không? Có một tĩnh lặng rỗng rang không? Hãy khảo sát! Nếu họ tường thuật rằng có một sự tĩnh lặng, đó là sự an định, vậy điều đó không phải là tâm. Hãy tìm ra tánh giác, và đáp ứng với bản tánh của nó.

    Nếu họ nói nó là một sự rỗng không, đó là một khía cạnh, vậy hãy để họ tìm kiếm tánh giác. Nếu họ nói có một ý thức là một loại của tĩnh lặng và của trong sáng, mà không thể diễn tả, thì họ đã nhận dạng nó được một chút, vậy họ nên đi đến sự chắc chắn và nhận ra nó. Hãy để giai đoạn thực hành tâm linh này kéo dài trong một ngày hoặc đến chừng nào cần thiết.

    Vì bạn là người đang tìm hiểu bản tánh của tâm, nếu kết luận nó là một sự rỗng không, bạn đã đạt được nhận thức của một số khía cạnh về nó. Tuy nhiên, bạn cần đi sâu hơn. Bạn cần đạt được sự chắc chắn lớn hơn trong nhận thức của bản tâm. Bản văn nói điều này có thể làm trong một ngày. Điều đó là tốt. Nếu làm trong một tháng thì thật tốt. Bạn có thể kết thúc phận sự trong nửa giờ. Nếu thật sự sắc bén, bạn có thể kết thúc trong một giây hay trong khoảng thời gian khảy ngón tay. Trái lại, nếu là người chậm chạp thật sự, bạn có thể tiêu tốn cả đời cố thực hiện nó và vẫn không thành công.

    Om Mani Padme Hum !

  10. #50
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
    GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
    __________________________________________________ ______________________________________

    Nhận Dạng Tánh Giác

    Tất cả các đệ tử của bạn ngồi trước bạn trong tư thế bảy thuộc tính của Vairocana. Bây giờ hãy đặt nhận biết của bạn ngay trong không gian phía trước một cách kiên định không thay đổi, chú tâm không dao động, và trong sáng không có một đối tượng thiền định. Trong lúc làm như vậy, do sự khác biệt trong trí năng, ở một số người sẽ xuất hiện một thực tại dựa trên khái niệm phi cấu trúc, không thiền định, phi khái niệm trong dòng tâm thức họ. Một số khác sẽ có một sự kiên định trong nhận biết. Một số người sẽ có một ánh sáng rực rỡ tự nhiên, vững chắc của tánh Không, đó không phải là một sự trống rỗng không có gì cả; và sẽ có một nhận biết đó là tự thân tánh giác, nó là bản tâm. Một số người sẽ khởi lên một cảm giác của rỗng không minh bạch. Một số người khác, các hình tướng và tâm sẽ hoà nhập: hình tướng sẽ không bị bỏ quên bên ngoài và nhận biết sẽ không bị bỏ quên bên trong. Điều này sẽ xuất hiện một cảm giác rằng chúng trở nên bình đẳng bất khả phân. Chắc chắn những loại kinh nghiệm này sẽ xảy ra.

    Giai đoạn rèn luyện này được dự định dành cho các đệ tử đầy đủ phẩm tính, đã hoàn toàn đạt được một số thấu suốt quyết định vào bản tâm, cho dù điều này có thể kéo dài bao nhiêu. Điều này ngụ ý rằng họ đã thiết lập một nền tảng thích hợp của sự trau dồi an định và thiền quán, và do vậy đã chuẩn bị tốt cho giai đoạn thực hành kế tiếp hướng đến việc nhận dạng tánh giác.

    Trong giai đoạn của thực hành này, không có mục tiêu để tập trung tâm và không có đối tượng tạo ra của thiền định hỗ trợ. Chẳng có bất cứ tạo tác nào. Sự khác biệt trong trí thông minh có thể ám chỉ các trình độ thông minh sắc bén khác nhau, sự trong sáng của nhận biết, hay của thanh tịnh. Cũng có những khác biệt trong cách kinh mạch kati bị đóng lại, mở ra một phần, hay hoàn toàn mở ra. Tuy nhiên, điểm cốt lõi là tất cả đệ tử chẳng giống nhau.

    Với chúng ta bây giờ, hình tướng và nhận biết dường như bị tách rời. Nhưng trong giai đoạn thực hành này, với một số người, hình tướng và tâm hòa nhập. Dường như chẳng còn việc tánh giác ở bên trong, và hình tướng bị tách rời ở bên ngoài.

    Vào lúc đó, vị thầy tâm linh nên đưa ra hướng dẫn sau: Nào, bây giờ nên quát sát vững chắc tâm thức này khi đã đặt tâm kiên định không dao động. Này, một khi an định các niệm tưởng ép buộc trong tâm bạn ngay nơi chúng ở, và tâm không biến đổi, có phải đó là một vững chắc bất động hay không? À, điều này gọi là “an định”, nhưng nó không phải là bản tánh của tâm. Bây giờ hãy quán sát kiên định chính bản tánh của tâm bạn là sự tĩnh lặng. Có một tánh Không rực rỡ đó là không có gì, đó là không trau chuốt trong bản tánh của bất cứ vật chất, hình dáng, hay màu sắc nào hay không? Điều đó được gọi là “bản chất rỗng không”. Có phải có một sự huy hoàng của tánh Không, đó là sự bất tận, trong sáng, tinh khiết, êm dịu, và tỏa sáng, như nó là hay không? Điều đó được gọi là “tánh quang minh”. Bản tánh cốt tủy của nó là sự bất khả phân của tánh Không tuyệt đối, không xây dựng bằng bất cứ thứ gì, và trong sự liên tục, sống động rực rỡ của nó như tánh giác là sự chói lọi và tỏa sáng như nó là.

    Sự nhận biết ngay lúc này, không lay chuyển, không thể diễn tả trực tiếp bằng lời, được đặt tên là “tánh giác”. Đó là cái tự suy nghĩ nên được đặt tên là “tâm”. Đó là cái luôn lưu tâm đến mọi thứ; nên được đặt tên là “tỉnh thức”. Mặc dù không nhìn thấy, nhưng nó là cái thấy đặc biệt, là trong sáng, kiên định, không thiền định, và vững chắc, nên nó được đặt tên là “thấu suốt”. Nó là cái tạo ra phân biệt giữa mọi hiện tượng cụ thể, giống như tách các lớp của một cái nấm, nên nó được đặt tên là “trí tuệ phân biệt”. Tất cả thuật ngữ như sugatagarbha,35 (Như Lai Tạng) “tinh túy duy nhất”, “bản tánh tuyệt đối,” “trí tuệ bổn nguyên,” “trung đạo,” “chân lý tối thượng,” “Mahamudra – Đại Ấn,” “Atiyoga – Đại Viên Mãn,” và “tánh Không” đều là tên của một thứ mà thôi. Tánh giác vững chắc này hiện hữu, nó là cái thấy hình tướng bằng mắt, kinh nghiệm âm thanh bằng tai, ngửi mùi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, v.v... Mọi kinh nghiệm sự vật như vậy chỉ là sự nhận thức hiện tại của giác tánh. Tuy nhiên, vì chúng ta có điều này, và nó xuất hiện đa dạng như không thích, bám luyến, căm thù, v.v... và vì nó biết, nhớ lại, nhận thức được, chúng ta được đặt tên là “chúng sanh”.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Giải thoát trong lòng tay
    Gửi bởi hoangtri trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 369
    Bài cuối: 10-16-2020, 08:26 AM
  2. Bảy Kỳ Quan Thế Giới Của Phật Giáo
    Gửi bởi caydendau trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-27-2020, 07:46 AM
  3. Phật nói kinh Duyên mệnh Địa tạng Bồ tát
    Gửi bởi uubatac trong mục Giáo lý Nhất Thừa
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 05-18-2020, 08:59 AM
  4. Huyền Thuật Và Các Đạo Sĩ Tây Tạng
    Gửi bởi Tuấn Kiệt trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 05-15-2020, 08:59 AM
  5. Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng
    Gửi bởi hoangtri trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 59
    Bài cuối: 07-22-2019, 09:08 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •