PHẬT NÓI KINH DUYÊN MỆNH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Ngài Bất-Không Tam-Tạng phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
Pram Nguyen giảo đính & chú giải.
--- ooo 0 ooo ---
Như vậy tôi nghe. Một thời, Đức Phật [Shakyamuni] ngự tại núi Khư Đà La (Khadiraka: còn dịch là Già-La-Đà) cùng với chúng Đại Tỳ Khưu gồm một vạn hai ngàn người đến dự. Bồ Tát gồm có ba vạn sáu ngàn người đến dự. Tất cả chư Thiên (Deva) với hàng Rồng (Nāga), Dạ Xoa (Yakṣa), Người (Manuṣya), Phi Nhân (Amanuṣya)…các hàng Luân Vương (cakra- varti-rājan:Chuyển Luân Vương), Kim Luân, Ngân Luân từ mười phương đi đến.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Hạnh Vô Y (anālambya: không có dính mắc, không có chỗ nương dựa) của Đại Thừa đó xong. Thời có vị Đế Thích (Indra) tên là Vô Cấu Sinh (Vimala-saṃbhava) bạch Phật rằng: “Con muốn hộ giúp cho đời. Nếu sau khi Đức Phật diệt độ, làm thế nào để nhổ bứt cứu giúp cho chúng sinh trong thời Mạt Pháp?”
Đức Phật bảo Đế Thích: “Có một vị Bồ Tát tên là Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát [Janitam Ksitigarbha Bodhisattva].
Mỗi ngày, vào buổi sáng sớm nhập vào các Định (Samādhi) dạo chơi hóa độ rồi đi giáo hóa các nẻo, nhổ bứt nỗi khổ, ban cho niềm vui. Nếu bị rơi lại trong ba đường ác, đối với Bồ Tát này mà nhìn thấy hình thể, nghe được tên gọi, thì sẽ sinh vào cõi Người, Trời hoặc sinh về Tịnh Thổ . Người ở trong ba đường lành, nghe tên vị ấy sẽ được quả báo ngay trong đời này , đời sau sinh về cõi Phật. Huống chi là nhớ nghĩ, Tâm-nhãn được mở , quyết định thành tựu.
Cũng với Bồ Tát đó sẽ được mười loại Phước :
Người nữ sinh đẻ thuận lợi
Đầy đủ thân căn
Đều trừ hết mọi bệnh
Thọ mệnh lâu dài
Thông minh Trí Tuệ
Tài bảo dư thừa
Mọi người kính yêu
Lúa gạo được mùa
Thần Minh gia hộ
Chứng Đại Bồ Đề.
Cũng trừ diệt tám sự sợ hãi lớn :
Gió mưa tùy theo thời
Nước khác chẳng khởi binh
Nước của mình chẳng có kẻ làm phản
Mặt Trời Mặt Trăng chẳng bị ăn nuốt (tức là không có hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực)
Tinh Tú chẳng biến đổi sai với lẽ thường
Quỷ Thần chẳng đi đến
Đói khát chẳng hưng khởi
Người dân không có bệnh.
Đức Phật bảo Đế Thích: “Ở đời vị lai, nếu có chúng sinh thọ trì Kinh này, cung kính, cúng dường vị Bồ Tát đó thì trong một trăm do tuần không có các tai vạ, mộng ác, tướng ác, các điều chẳng tốt lành.
Hàng Võng Lượng, Quỷ Thần, Cưu Bàn Đồ vĩnh viễn chẳng được dịp thuận tiện để hãm hại; Thiên Cẩu, Thổ Công, Đại Tuế Thần Cung, Sơn Thần, Mộc Thần, Giang Hải Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Cầm Ngạ Thần, Trủng Thần, Xà Thần, Chú Trớ Thần, Linh Thần, Lộ Thần, Táo Trạch Thần…nếu nghe Kinh này, tên của vị Bồ Tát [Janitam Ksitigarbha Bodhisattva] đó, sẽ nôn ra khí tà, tự ngộ bổn Không [sunyata], mau chứng Bồ Đề”
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Duyên Mệnh [Địa Tạng] Bồ Tát làm thế nào để cảm hóa sáu nẻo, cứu độ cho chúng sinh?”
Đức Phật bảo Đế Thích: “Này Thiện Nam Tử ! Tất cả Pháp Không-tịch (Sunyta-sama), chẳng trụ sinh diệt, tùy theo duyên sinh cho nên sắc thân chẳng giống nhau, tính dục vô lượng. Vì cứu độ khắp cả nên gọi Duyên Mệnh Bồ Tát
1)hoặc hiện thân Phật,
2) hoặc hiện thân Bồ Tát,
3) hoặc hiện thân Bích Chi Phật,
4) hoặc hiện thân Thanh Văn,
5) hoặc hiện thân Phạm Vương,
6) hoặc hiện thân Đế Thích,
7) hoặc hiện thân Diêm Ma Vương, hoặc hiện thân Tỳ Sa Môn,
9) hoặc hiện thân mặt trời, mặt trăng,
10) hoặc hiện thân năm vì sao (ngũ tinh),
11) hoặc hiện thân bảy vì sao (thất tinh),
12) hoặc hiện thân chín vì sao (cửu tinh),
13) hoặc hiện thân Chuyển Luân Thánh Vương,
14) hoặc hiện các thân Tiểu Vương,
15) hoặc hiện thân Trưởng Giả,
16) hoặc hiện thân Cư sĩ,
17) hoặc hiện thân Tể Quan,
18) hoặc hiện thân phụ nữ,
19) hoặc hiện thân Tỳ Khưu, thân Tỳ Khưu Ni, thân Ưu Bà Tắc, thân Ưu Bà Di,
20) hoặc hiện thân của hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Người, Phi Nhân…
21) hoặc hiện thân Y Vương,
22) hoặc hiện thân cỏ thuốc (dược thảo),
23) hoặc hiện thân người đi buôn,
24) hoặc hiện thân người làm ruộng,
25) hoặc hiện thân voi chúa,
26) hoặc hiện thân sư tử chúa,
27) hoặc hiện thân bò chúa,
28) hoặc hiện thân hình con ngựa,
29) hoặc hiện hình Đại Địa,
30) hoặc hình núi vua,
31) hoặc hiện hình biển lớn,
32) Hết thảy năm loại hình thuộc bốn cách sinh (trứng, thai, ẩm thấp, biến hóa) trong ba cõi, không có gì chẳng biến hiện được.
Như thế là tự thể của Pháp Thân (Dharma-kāya) của Duyên Mệnh Địa tạng Bồ-Tát biến ra. Hiện chủng chủng thân, du hành giáo hóa sáu ngả, độ thoát chúng sinh, hay dùng một tâm thiện, phá ba cõi [Dục, Sắc và Vô-Sắc] hữu lậu, cũng bởi một thiện tâm. Nếu chúng-sinh đời vị lai, không hay phát tâm tin hướng, chỉ cần một lòng lễ bái, cúng dường Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát thì dao gậy chẳng thể chạm đến, chất độc chẳng thể gây hại.
Nhóm Yểm Mỵ, Chú Trớ, Khởi Thi Quỷ, quay trở lại dính vào người gây ra (bản nhân) như nhổ nước miếng lên trời, ném tro ngược gió, đều quay lại dính vào thân kẻ ấy”.
Lúc đó, Đế Thích [Indra] bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Vì sao gọi là Duyên Mệnh [Địa Tạng] Bồ Tát [Janitam Ksitigarbha Bodhisattva]? Tướng ấy như thế nào?”
Đức Phật bảo Thiên Đế: “Này Thiện Nam Tử! Tâm của Bồ Tát chân thiện vốn tròn sáng,
Vì tỏ rõ Như Ý Luân [Cintamani-chakra] trong sạch không có trở ngại cho nên gọi là Quán Tự Tại [Avalokitesvara].
Vì Tâm không có sinh diệt cho nên gọi là Duyên Mệnh.
Vì Tâm không có tồi phá cho nên gọi là Địa Tạng.
Vì Tâm không có bờ mé cho nên gọi là Đại Bồ Tát [Mahasattva Bodhisattva].
Vì Tâm không có sắc tướng cho nên gọi là Ma Ha Tát [Mahasattva].
Các ông nên tin nhận, tâm không có chỗ khác, đừng khiến cho quên mất”