DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 12/20 ĐầuĐầu ... 21011121314 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 111 tới 120 của 196
  1. #111
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    10/ Mồng năm tháng tư

    Kinh Lăng Nghiêm nói: "Lý tuy đốn ngộ, mà ngộ này cũng mất. Sự tuy chẳng đốn trừ, mà nhân do thứ lớp diệt tận". Lý tức lý tánh, là bổn tâm của mọi người. Lý tánh này xưa nay vốn bình đẳng. Lục Tức của tông Thiên Thai, tức là hạnh vị của Bồ Tát Viên Giác.

    Thứ nhất, Tức Lý là bàn về tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật có ra đời hay không, chân tánh và thể tướng này vẫn mãi mãi thường trụ. Phàm phu nơi lý tánh đồng Phật không khác, nên gọi là Tức Lý.

    Thứ hai, Tức Danh Tự nghĩa là khi nghe thuyết đạo Bồ Đề chân thật, thì ngay nơi văn tự thông đạt liễu giải, biết tất cả pháp đều là Phật pháp, và tất cả chúng sanh sẽ thành Phật.

    Thứ ba, Tức Quán Hạnh nghĩa là quán tâm rõ ràng, lý sự tương ưng. Hành như thế nào thì nói như thế đó. Nói như thế nào thì hành như thế đó.

    Thứ tư, Tức Tương Tự nghĩa là trước tiên nhập vào địa vị thập tín của biệt giáo, phát khởi quán hạnh vô lậu chân thật.

    Thứ năm, Tức Phần Chứng nghĩa là trước tiên đoạn một phần vô minh, thấy Phật tánh, mở tạng châu báu, hiển lộ chân như, gọi là phát tâm trụ. Từ chín trụ sau cho đến địa vị đẳng giác, phá từng phần vô minh, thấy từng phần pháp tánh.

    Thứ sáu, Tức Không Cứu Cánh nghĩa là phá bốn mươi hai phẩm của nguyên phẩm

    vô minh, phát khởi trí giác viên mãn cứu cánh, tức diệu giác.

    Lý tuy bảo rằng chúng sanh có Phật tánh, và có khả năng thành Phật, nhưng chẳng phải chỉ tu một chút là thành. Chư cổ đức thánh hiền trải qua bao thập niên, lao nhọc cực khổ tu hành. Nơi lý tuy đã đốn ngộ, nhưng vẫn còn phải từ từ dẹp trừ tập khí. Bổn tánh thanh tịnh bị tập khí nhiễm ô, nên chưa thành Phật. Dẹp hết tập khí thì mới thành Phật. Bàn về lý, chúng ta có khác gì với Phật đâu? Mỗi ngày, hãy tự suy nghĩ rõ, Phật là con người, chúng ta cũng là con người. Sao Ngài trở thành bậc tôn quý, được người người cung kính ngưỡng vọng? Do nghiệp thức mê mờ, nên chúng ta không thể tự làm chủ được. Không tự tin chính mình, thì làm sao người khác tin mình được? Bàn về lý thì chúng ta cùng Phật không khác, nhưng nói đến sự thì lại có khác. Những hành vi tạo tác hằng ngày của chúng ta, tất cả đều vì tự kỶ. Chư Phật chẳng giống như thế; mọi cử chỉ hành động của các ngài đều vì lợi tha.

    Kinh Kim Quang Minh nói: "Trong giảng đường hội chúng, có tháp bảy báu, từ dưới đất vọt lên. Khi ấy, đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi, đứng dậy lễ bái tháp kia. Thọ thần Bồ Đề, bạch Phật:

    - Do nhân duyên gì mà đức Thế Tôn lễ bái tháp kia?

    Phật bảo:

    - Này Thiện Thiên Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ Tát, xá lợi thân Ta, được an trí trong tháp đó. Do nhờ thân này, nay Ta sớm thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

    Đức Thế Tôn muốn đại chúng đoạn trừ nghi hoặc, nên thuyết nhân duyên xá lợi đời trước. Phật lại bảo:

    - Này A Nan! Đời quá khứ, một vị vua tên là Ma Ha La Đà, ông có ba hoàng tử. Ngày nọ, vị hoàng tử thứ ba nhân dịp vào rừng, thấy một con hổ cái cùng bảy hổ con, bị đói khát, thân thể ốm gầy, hơi thở thoi thóp. Vị hoàng tử tự suy nghĩ: "Thời điểm xả bỏ thân mạng đã đến!"

    Khi ấy, hoàng tử dũng mãnh phát nguyện, từ trên núi cao, nhảy xuống trước mặt hổ cái. Hổ cái thấy máu thịt trước mặt, liền bò đến ăn uống, chỉ còn dư lại xương cốt. Lúc ấy, đại vương Ma Ha La Đà cùng hoàng hậu biết được việc này, nên rơi lệ sướt mướt, và đồng mở chuỗi anh lạc, rồi cùng với đại chúng đến khu rừng tre, thâu lấy xá lợi, dựng tháp bảy báu, ngay tại nơi đây. Đó là nhân duyên về xá lợi trong đời tiền kiếp của Ta".

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #112
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đây là chỗ khác biệt về hành vi giữa Phật và chúng ta. Ngài xả bỏ thân mạng cho hổ; do chẳng chấp ngã tướng, nên trừ được ngã tướng, thì làm sao không thể thành Phật được?

    Tôi rất xấu hổ, chạy ruỗi trong bao thập niên, chưa từng thiết tha, giải quyết nỗi khổ sanh tử, nên xả chấp không được. Chẳng cần nói xa, chỉ bàn về vọng tâm trong mười hai thời, gặp duyên thấy cảnh, xem coi có nhìn thấu hay không! Lúc trẻ, thường xách bị ra ngoài, cho đến hôm nay, mới biết là sai trái. Lúc nghe giảng kinh thuyết pháp, nếu lời hay tiếng diệu thì sanh tâm vui thích, nguyện muốn theo học. Nếu người giảng kinh tuổi tác nhỏ, hoặc giảng không đúng như pháp, thì khởi tâm khinh khi, cống cao ngã mạn. Đây là thói quen xấu xa, tập khí nặng nề. Nơi thiền đường, ngồi tọa hương, tâm tán loạn, khiến lãng phí thời gian.

    Quý hòa thượng lên tòa thuyết pháp. Quý vị ban thủ tiểu tham cầm phất trần giảng pháp. Nếu giảng hay thì ngày ngày đều mong họ giảng. Nếu giảng không hay thì không thích nghe. Tự tâm mình sanh chướng ngại. Thật ra, người khác giảng hay hoặc dở, tôi cũng chẳng học được hay hành được gì, và đâu có can hệ chi. Suốt ngày, chỉ lo bàn tán khuyết điểm của họ. Tập khí này thật khó trừ. Trên khách đường, nhàn rỗi làm biếng, bàn tán sẽ đến nơi này trú qua đông, đến nơi kia trú qua hạ, cùng tới chỗ này chỗ nọ ăn cơm uống trà. Lại nữa, thường bàn việc tăng tục, như hòa thượng hay duy na chỗ này và chỗ kia, như thế này hay như thế nọ. Bàn tán những lời vô ích, rồi giảng giải những lời tu hành, thật rất giả dối.

    Lại nữa, hai cửa ải danh và lợi cũng rất khó vượt qua. Chùa Thiên Ba tại Thường Châu, mỗi năm có phát tiền thưởng hai lần. Bình thường, mỗi lần trong chùa có pháp hội, mỗi thầy tại các hội đường, được lãnh mười hai xu, nhưng thầy trụ trì cất giữ hai xu, chỉ phát mười xu. Lạy Đại Bi Sám Pháp xong, mỗi thầy được phát sáu mươi xu, nhưng thầy trụ trì giữ lại mười xu, chỉ phát năm mươi xu. Đầu tháng giêng và đầu tháng bảy, mỗi thầy trong chùa được phát tiền thưởng đồng nhau, nhưng có người lại chê nhiều chê ít. Thật thế, cửa ải lợi lạc rất khó vượt qua.

    Rằm tháng tám, vốn là ngày nhận lãnh chức vụ. Người khác phải mời mình trước nhất. Nếu không được mời hoặc chỉ được mời nhận chức nhỏ, thì xả bỏ không nổi. Đấy là không thể vượt qua cửa ải danh vọng. Vừa bàn về việc tu hành, vừa phải có chút danh lợi. Như thế, tu hành cái chi? Những việc này, phải nên quét sạch, dẹp bỏ từ từ. Lúc đối mặt với chúng, xả không nổi cũng phải xả.

    Động đậy một chút là đã phạm quy củ của chư tổ rồi. Nghe qua lời dạy của thiện tri thức, chớ quên tỉnh giác chiếu soi. Phàm làm việc gì, phải nên hướng tâm vào đạo. Đạo tức là lý. Lý cũng là tâm. Tâm là gì? Tâm tức là Phật. Phật nghĩa là không tăng không giảm, chẳng phải xanh chẳng phải vàng, và chẳng phải dài hay ngắn.

    Kinh Kim Cang nói: "Nếu thấy các tướng mà chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai".

    Bước trên đường này, tức đi cùng thuyền với Phật. Dùng lý để đối trị sự. Nếu sự tình nào phóng xả không được thì phải dùng lý mà chiếu soi thì sẽ thành công.

    Nếu hiểu rõ câu "tất cả tướng đều là hư vọng", thì thị phi phiền não từ đâu đến? Nếu muốn tu hành, những gì không vượt qua nổi, phải cố vượt qua. Phải giữ pháp tánh như như. Quý vị nên phấn chấn tinh thần.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #113
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    11/ Mồng chín tháng tư

    Tổ Đạt Ma bảo:

    - Hiểu tâm tông Phật, hạnh giải tương ưng, gọi đó là Tổ.

    Hạnh giải tương ưng, tức là nói được thì làm được. Người xưa lắm khi nói được mà hành chẳng được, hoặc hành được mà nói chẳng suông. Thuyết nơi huệ giải của lý Bát Nhã. Hành tại thật tướng của lý thể. Cả hai đều viên dung vô ngại. Đó gọi là thuyết và hành đều trọn vẹn. Tiểu Thừa thiên chấp pháp thân Không-kiến. Tuy hành được, nhưng chưa phá tận hết phiền não hoặc nghiệp, nên chưa khai mở lý lẽ được. Vì vậy chưa đắc đến năm phẩm vị sau.

    Giảng kinh đến nỗi chư Thiên rải hoa trời khắp đất, nhưng không thể hành được, nên chẳng thể đoạn hoặc, chứng thật tướng. Ngày nay, chúng ta nói thì nhiều, mà hành lại rất ít, nên thật rất khó chứng đạo. Lời nói vốn là văn tự Bát Nhã. Bàn luận từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật, như thế nào đoạn hoặc chứng thật tướng? Làm sao siêu phàm nhập thánh? Khai mở toàn phần như thế nào? Lúc sắp chết, thân tâm rã rời, vì hằng ngày không chân thật hành trì, chỉ nói được mà làm chẳng được. Quy Sơn Cảnh Sách nói: "Bậc hiền sĩ trung lưu, phải luôn lưu tâm đến giáo pháp".

    Chúng ta hành không được mà nói cũng chẳng xong. Cổ nhân nhất cử nhất động, trong ngoài đều như như, niệm niệm chẳng sai biệt, nên tâm khẩu tương ưng. Thói quen tật xấu của chúng ta rất nhiều; tuy muốn hàng phục nhưng không nổi, còn nói chi đến việc đoạn trừ, nên bị bao cảnh giới xoay chuyển. Tâm tư hoang mang, không đạt được lợi ích thiết thực. Muốn nói mà nói chẳng ra lời. Lúc khỏe mạnh, đàm luận giảng giải bao kinh luận, ngữ lục, điển chương. Lúc già yếu, tánh khí suy nhược, giảng đầu quên đuôi, giảng đuôi quên đầu; giảng giải mãi vẫn không xuôi. Đấy là hạnh giải chẳng tương ưng; nói lời trống rỗng, nên khổ đau suốt đời; mở miệng chẳng được, chưa biết sẽ đi về đâu.

    Chính tôi đã từng như thế. Một khi mộng mơ, chẳng biết vọng tưởng gì, chẳng có thể tự chủ chính mình. Lúc sanh tử đến, không thể dụng công nổi. Ngày ngày bị gió của ngoại cảnh thổi; chẳng lúc nào xả chấp hay tự chủ được. Giảng giải điều gì cũng thật vô dụng. Hôm nay, tôi sống thêm được vài ngày, thuyết vài lời cho quý vị nghe. Thật ra, chỉ là Bồ Tát bùn khuyên lơn Bồ Tát đất. Nếu quý vị hiểu rõ được những lời khuyến tấn này thì mới có ích lợi đôi chút. Việc cần thiết là chẳng nên để cảnh chuyển. Như mục đồng cầm roi, nếu trâu không nghe thì phải đánh cho vài roi. Nếu thường hàng phục tâm như thế, và công phu lâu ngày càng được thâm sâu, thì mới có tin tức lành.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #114
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN VI


    12/ Ngày mười một tháng tư

    Hai ngày qua, lão già này làm phiền quý vị rất nhiều. Nhà cầu cũ đã hư, mà nhà cầu mới vẫn chưa xây xong, khiến quý vị đi đại tiểu tiện khó khăn. Cuộc sống trên thế gian này đều là khổ, chỉ vì chưa hiểu rõ lý biến hóa. Việc này không hài lòng, việc kia không vừa ý. Xem xét kỸ càng, vạn vật biến hóa tồn tại do động vật cùng thực vật hỗ tương bồi dưỡng. Tất cả động vật đều thải bỏ phẩn uế. Nếu chê là bất tịnh, tức chấp trước vào màu sắc, hương vị. Nơi năm sắc, năm vị, cảnh duyên tốt xấu, đều bị động niệm. Đối với người tu hành, cũng chưa có thể rời khỏi việc ăn uống ngủ nghỉ. Bàn về việc ăn chay, phải dùng năm loại ngũ cốc rau quả. Lúc trồng trọt, nếu không có phân bón thì không thu hoạch được nhiều. Phẩn uế vốn là phân bón rất tốt. Thực vật hấp thụ phân bón dinh dưỡng càng

    nhiều thì sanh trưởng càng mau. Con người ăn rau quả, có phải là dùng phẩn uế không? Ăn no lại thải bỏ phẩn uế, rồi lại dùng làm phân bón. Cứ xoay vần như thế, động vật dung dưỡng thực vật, và thực vật nuôi dưỡng động vật. Phẩn uế biến thành thức ăn. Thức ăn biến thành phẩn uế. Lúc ăn sao chỉ thấy mùi vị ngon thơm mà không cho đó là bẩn thỉu? Thức ăn là như thế, còn y phục chỗ ở cũng vậy. Hoa gấm của vải bố, cây gỗ của nhà cửa, đều cần dùng phân bón để trồng. Vì vậy, những gì chúng ta đang mặc và đang trú ở đều là bẩn thỉu.

    Lúc đang sửa nhà cầu mới, hãy tạm dùng nhà cầu cũ. Phải nên dùng vật liệu của nhà cầu cũ để xây nhà cầu mới và chuồng trâu. Nếu hôm nay không dùng, mai đây gỗ bị mục thúi, thì sẽ chiêu cảm quả báo lạm phí. Bàn về sự thúi mục, thật ra trong và ngoài thân của chúng ta đều hôi hám thúi tha hết. Nếu hiểu được lý này, thì muôn vật đều dơ đều sạch, đều không dơ không sạch.

    Có vị tăng hỏi ngài Vân Môn:

    - Thế nào là Phật?

    Ngài Vân Môn đáp:

    - Que cứt khô!

    Que cứt khô là Phật. Phật là que cứt khô. Ý này như thế nào? Nếu nghĩ rằng lời này thật phạm thượng, tức bị sắc tướng chuyển. Phải nhìn thấu suốt, như như bất động, muôn sự vô ngại. Nếu muốn không bị cảnh chuyển, tất yếu phải dụng công. Nơi động tịnh đều vô tâm, phàm thánh tình không, sao còn có dơ sạch? Ngôn ngữ người xưa, lập lại thì được, nhưng hành chẳng xong. Ý nghĩa của câu trên, khó mà giải đáp. Sao lại phạm thượng, đem que cứt khô so sánh với Phật, một đấng tôn quý vô cực, trong loài trời người? Người thấy tâm rõ tánh, khi nhìn sự vật liền sáng tâm. Khi không có vật, thì tâm chẳng hiện. Người hiểu rõ tâm địa, nơi tất cả động tịnh dơ sạch đều là tâm.

    Tăng hỏi ngài Triệu Châu:

    - Thế nào là Phật?

    Triệu Châu đáp:

    - Là điện lý.

    - Điện lý có phải là cái tượng bằng đất không?

    - Phải.

    - Con không hỏi ông Phật đó.

    - Vậy ông hỏi Phật nào?

    - Phật chân thật.

    - Điện lý.

    Phải hiểu rõ những lời đối đáp trên. Phải biết rằng tất cả đều do tâm tạo. Bàn về lý, thấy vật tức là thấy tâm. Nơi mọi cử chỉ hành động, phải nên hạ thủ công phu, thì mới có phần lợi ích. Nơi nơi vốn là đạo tràng. Nếu tâm chấp trước sạch dơ, phàm thánh, thì chốn chốn đều bị chướng ngại. Hãy hành thử xem sao! Lúc lên chánh điện hay xuống nhà cầu, phải thường phản chiếu trở lại tâm mình.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #115
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    13/ Ngày mười lăm tháng tư. Khai thị nhân dịp kiết hạ an cư

    Tối hôm qua, thầy tri khố thưa với tôi rằng ngày mai kiết hạ an cư, phải thiết lễ đãi trà bánh, nhưng mua không được trái cây gì cả. Trong kho không còn chi hết, vậy phải làm gì? Tôi đáp rằng lão Tăng ở trong am tranh, chẳng biết thời gian. Lúc thấy trăng tròn thì biết là ngày rằm. Lúc không thấy ánh trăng thì biết là ngày ba mươi. Cỏ tươi xanh thì biết là mùa Xuân. Tuyết rơi, biết là mùa Đông. Uống trà hay uống nước, tôi chẳng hề để ý đến. Cũng vì việc chẳng thèm để ý đến mà khiến mình tự xấu hổ. Lúc trẻ, chạy bôn ba khắp nơi, lăng xăng lộn xộn cả vài thập niên. Ngày nay, đầu bạc mà chưa thành tựu được gì. Lãng phí thời giờ thật quá nhiều. Vì vậy, thiết lễ đãi trà bánh là việc của hòa thượng trụ trì, chứ chẳng phải của tôi.

    Thời tiết trong mỗi năm, các tông phái phân định thời gian khác nhau. Theo Thiền tông, một năm có hai quý, tức bắt đầu vào ngày rằm tháng giêng cùng rằm tháng bảy.

    Quý mùa Đông thì tham thiền, còn quý mùa Hạ thì tu học. Trong luật chia ra làm bốn quý. Rằm tháng giêng thì giải thiền thất mùa đông. Rằm tháng tư thì nhập hạ an cư. Rằm tháng bảy thì giải kiết hạ an cư. Rằm tháng mười thì kết thiền thất. Đấy là bốn ngày quan trọng trong năm. Vì vậy, theo giới luật, hôm nay chính là ngày kiết hạ an cư, ngồi cỏ kiết tường, chuẩn bị kiết giới. Trong chín mươi ngày đêm, không thể bước ra khỏi giới đường.

    Phật chế kiết hạ an cư vì nhiều lý do. Mùa Hè, trên đường xá có rất nhiều côn trùng. Vì đức Phật lấy lòng từ bi làm căn bản, nên sợ rằng trong mùa Hè, nếu bước ra đường, sẽ dẫm đạp côn trùng. Ngày thường, cỏ xanh cũng không thể dẫm đạp. Vì vậy, vào mùa Hè chư Tăng phải ở cấm túc trong chùa, để hộ trì sanh mạng chúng sanh.

    Lại nữa, mùa Hè trời nóng nực, ra ngoài hóa duyên, mồ hôi thấm ướt y áo, mất cả oai nghi, nên phải cấm túc ở trong giới đường. Đồng thời, trong mùa Hè phụ nữ ăn mặc áo quần lòe lẹt hở hang, chẳng có chút oai nghi. Tăng sĩ vào nhà họ hóa duyên, thật rất bất tiện, nên phải kiết hạ an cư.

    Xưa kia, ngài Văn Thù kiết hạ an cư tại ba chỗ, nên bị ngài Ca Diếp đuổi ra. Ngài Ca Diếp vừa đuổi ngài Văn Thù ra khỏi chùa thì lại thấy muôn ngàn hóa thân của ngài Văn Thù ở trong chùa. Ngài Ca Diếp dùng hết thần lực, nhưng không thể đuổi được ngài Văn Thù. Vì vậy đức Thế Tôn hỏi:

    - Này Ca Diếp, ông định đuổi Văn Thù nào ra khỏi chùa?

    Ngài Ca Diếp không lời đối đáp. Qua câu chuyện này, chúng ta thấy rõ, sự dụng công và thần lực của Đại Thừa cùng Tiểu Thừa không đồng. Cảnh giới Thanh Văn và Duyên Giác khác nhau.

    Chiều hôm qua, trong tu viện, các thầy ban thủ lên chánh điện, quét dọn, sắp đặt bài vị. Sáng nay, Tăng chúng lên chánh điện làm lễ, xướng "Án nại ma ba yết hổ đế" ba lần, rồi lại lễ bốn vị Thánh. Kế đến, ra ngoài chánh điện lễ Tổ, rồi đánh khánh ba lần, báo hiệu bắt đầu an cư kiết hạ. Đảnh lễ hòa thượng Trụ trì xong, Tăng chúng đối mặt nhau, mở tọa cụ, đồng lễ ba lạy. Kế tiếp, đến phòng phương trượng, nghe Hòa thượng trụ trì thuyết pháp. Buổi sáng bận rộn mệt nhọc. Buổi trưa ăn uống trà bánh. Nơi trai đường, Hòa thượng trụ trì giảng trà thoại. Lúc đó, theo giới luật, không cần lên tòa thuyết pháp.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #116
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Xưa kia, nơi các tùng lâm tự viện, nếu có chuông bản thì mới được gọi là thường trụ. Tại sao nơi đây không được gọi là thường trụ? Hiện tại, trên núi Vân Cư, chỉ toàn là am tranh, nhưng lại giống như các tự viện. Nơi đây văn chẳng phải văn, võ chẳng phải võ. Tất cả mọi việc đều do Hòa thượng trụ trì an bày. Hiện nay, vì Hòa thượng trụ trì không có ở đây, nên tôi tạm thay mặt Ngài, giảng giải vài lời, để kể về cung cách tham tầm học đạo của người xưa cho quý vị sơ phát tâm nghe.

    Lúc đến am tranh này, vì thống thiết niệm nhớ sanh tử, nên tôi luôn đề hai chữ này trên đầu lông mi, sao còn dám giỡn cợt, lãng phí thời gian! Người tham thiền học đạo, phải biết tự chủ, chớ để cảnh chuyển. Người xưa thiết tha, dạy dỗ kẻ hậu lai, nơi động tĩnh đều phải nhận ra chính mình; trong mười hai thời, chớ quên mất mình. Hòa thượng Kim Ngưu ở Trấn Châu mỗi ngày tự nấu cơm, cúng dường Tăng chúng. Tới giờ thọ trai, Ngài mang thùng cơm đến trai đường, vừa ca vừa hát:

    - Chư Bồ Tát, hãy đến đây ăn cơm!

    Có vị tăng hỏi Vân Môn:

    - Đàm luận thế nào để hơn Phật hơn Tổ?

    Ngài Vân Môn đáp:

    - Bánh hồ.

    Vì vậy, người sau có viết kệ:

    "Bánh hồ Vân Môn.

    Trà Triệu Châu.

    Vói tay lấy làm nhà.

    Nhai kỹ gió xanh có mùi vị

    Ăn no trăng sáng vẫn còn thừa".


    Nhất cử nhất động, chư Tổ sư luôn phá sự chấp trước, để khiến chúng ta hiểu rõ tất cả đều là Phật pháp.

    Thiền sư Nham Lợi Tùng người Tử Hồ ở Cù Châu, viết kệ cho các đồ đệ:

    "Tử Hồ có một con chó.

    Phía trên giữ đầu người.

    Ở giữa giữ tâm người.

    Phía dưới giữ chân người.

    Vừa bàn bèn mất mạng".


    Tăng đến tham vấn, Ngài bảo:

    - Xem chó!

    Hòa thượng Bích Ma Nham tại núi Ngũ Đài, thường cầm một cây ba chỉa. Mỗi lần thấy Tăng đến lễ bái, liền dí cây ba chỉa vào cổ, bảo:

    - Ma mị nào dạy ông xuất gia? Ma mị nào dạy ông đi hành cước? Đắc đạo cũng chết dưới cây ba chỉa. Chẳng đắc đạo cũng chết dưới cây ba chỉa. Đi mau! Đi mau!

    Thiền sư Vô Ân ở núi Hòa Sơn, tỉnh Kiết Châu, nếu có học nhân nào đến tham vấn, đều đáp:

    - Hòa Sơn giải, đánh trống.

    Ngoài ra, vài vị Tổ sư, chuyên môn đánh đuổi chửi mắng các học nhân.

    Hiểu được thì tất cả đều là đạo. Hiểu không nổi thì bị cảnh chuyển. Việc này không như ý; việc kia không như pháp. Gặp cảnh hoang mang, liền phá tan rừng công đức. Lửa tâm cháy phừng phừng, đốt rụi hạt giống Bồ Đề, làm sao cắt đứt sanh tử? Bàng hoàng không như ý, muôn việc chẳng hiện thành. Chính nơi đó, phải hàng phục tâm mình. Nơi cảnh chưa tự làm chủ, tức là khổ. Nói được nhưng không làm được, tức nhiên là sai. Càng nói nhiều thì càng sai nhiều. Thật rất xấu hổ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #117
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tô Đông Pha, lúc ở tại Trấn Giang, làm bài kệ tán thán Phật:

    "Thánh chúa thiên trung thiên

    Hào quang chiếu đại thiên

    Tám gió thổi chẳng động

    Ngồi tòa sen vàng hoe".


    Viết xong, ông ta gởi đến chùa Kim Sơn, để nhờ thiền sư Phật Ấn ấn chứng. Xem kệ xong, thiền sư Phật Ấn liền lật ra đằng sau tờ giấy đó, viết bốn chữ "đánh rấm, đánh rấm", rồi gởi lại cho Tô Đông Pha. Đọc bốn chữ đó, Tô Đông Pha giận dỗi hết sức, nên chèo thuyền sang sông, đến chùa Kim Sơn, hỏi thiền sư Phật Ấn:

    - Bài kệ của tôi sai chỗ nào mà thầy lại dám đề bốn chữ kia?

    Thiền sư Phật Ấn ôn tồn bảo:

    - Ông nói 'Tám gió thổi chẳng lai động'. Tại sao chỉ vì bốn chữ kia, mà vượt sông đến đây?

    Chúng ta giống như Tô Đông Pha, nói được mà làm chẳng được. Một chuyện nhỏ cũng đủ để sanh tâm uất khí, nói chi đến "tám gió thổi chẳng động".

    Người xuất gia tính toán tuổi khác với người tại gia. Nếu tính theo mùa Hạ, tức qua một mùa Hạ thì tăng thêm một tuổi Hạ. Nếu tính theo mùa Đông, tức qua một mùa Đông thì được thêm một Tăng lạp. Hôm nay kiết hạ an cư, đến rằm tháng bảy mới giải Hạ. Ngày mười bốn, mười lăm, mười sáu tháng bảy, được gọi là những ngày tự tứ. Chữ Tự Tứ, xưa kia được phiên dịch từ chữ Phạn, tức là Bát Thích Bà Noa. Cựu dịch gọi là Tự Tứ. Tân dịch gọi là Tùy Ý. Những ngày đó, tự mình cử tội ra và sám hối trước mặt Tăng chúng. Đó là tự tứ. Lại nữa, tự tứ còn có nghĩa khác là tùy ý sửa đổi, tức tùy theo ý của người khác mà cử tội mình. Đây là pháp Phật chế ra để phê bình lẫn nhau cùng tự phê bình. Ngày nay, Phật giáo trong nước vì không có ngày lễ tự tứ, nên đối với người chẳng dám nói lời chất trực.

    Nơi đây chẳng phải am tranh, chẳng phải tùng lâm tự viện, chẳng phải văn hay võ, mà kết hạ an cư. Vì vậy, tùy theo thời tiết mà đàm luận những việc Đông Tây.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #118
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    14/ Ngày mười sáu tháng tư

    Hôm nay, trời mưa dầm dề, gió đông thổi lạnh thấu xương. Đại chúng không quản ngại việc gieo lúa mạ cực nhọc mà đến đây, vậy mong muốn việc gì? Xưa kia, tổ Bá Trượng bảo đại chúng:

    - Quý vị giúp tôi khai khẩn đất đai. Tôi thuyết diệu pháp cho quý vị nghe.

    Khai khẩn đất đai xong, đến tối tổ Bá Trượng thượng đường, đại chúng liền thưa:

    - Ruộng rẫy đã khai khẩn xong. Vậy nay thỉnh Đại Sư thuyết nghĩa diệu pháp.

    Tổ Bá Trượng liền bước xuống sàng thiền, đi ba bước, dang hai cánh tay, mắt nhìn trời đất, bảo:

    - Đại nghĩa của ruộng vườn (diệu pháp), nay vẫn còn giữ lại.

    Mọi người hãy suy nghĩ xem coi tổ Bá Trượng nói những gì? Phải nên dụng tâm để hiểu rõ lời chỉ dạy của thánh nhân.

    Trải qua bao thập niên, tôi vì nghiệp chướng nên lừa lẫn Phật ăn cơm, rờ đầu mà chẳng được đuôi. Lại nữa, không thể phụ giúp quý vị lao động. Muốn nói mà không thể nói được, chỉ miễn cưỡng dùng lời của người xưa mà đối đáp, đàm luận. Hòa thượng Chí Công viết bài "Kệ tụng mười hai thời", trong đó có bài kệ tụng giờ thìn như sau: "Ăn giờ thìn, vô minh vốn là thân Thích Ca. Chẳng biết nằm ngồi vốn là đạo, chỉ bận rộn khổ cực suốt ngày. Lầm chấp âm thanh sắc tướng, tìm kẻ thân người sơ, chỉ khiến ô nhiễm nhà người. Nếu định dùng tâm cầu Phật đạo, hãy tự hỏi rằng trong hư không, có thể nắm bắt được bụi trần không?"

    Đi đứng nằm ngồi là đạo. Khai khẩn ruộng vườn cũng là đạo. Ngoài thế gian pháp chẳng tìm được Phật pháp. Phật pháp và thế gian pháp không đồng không khác. Phật pháp là thể. Thế gian pháp là dụng. Trang Tử bảo:

    - Đạo tại phẩn tiểu.

    Đi đại tiểu tiện cũng là đạo. Ngài Cao Phong viết bài kệ cấy mạ:

    "Tay cầm mạ xanh cấy khắp ruộng

    Cúi đầu thấy nước xanh trên trời

    Sáu căn thanh tịnh đều là đạo

    Tiến lùi vốn là bước phía trước".

    Phật pháp chẳng đồng chẳng khác. Ngàn ánh đèn đồng một ánh sáng. Lúc cấy lúa, đạo ngay trên tay quý vị đó. Đi đứng nằm ngồi là đạo. Cấy lúa là đạo. Cúi đầu tức là hồi quang phản chiếu. Nước xanh phản chiếu trên nền trời. Tâm thanh tịnh liền thấy thiên tánh. Sáu căn như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, hòa với âm thanh, sắc tướng, mùi hương, hương vị, xúc chạm, và vạn pháp, đều cùng đạo giao phối. Nếu cho rằng không thanh tịnh thì chẳng có đạo. Phật tánh như ánh đèn. Trong phòng nếu có một ngọn đèn, thì ánh sáng của ngọn đèn đó tỏa khắp. Nếu đặt ngàn ngọn đèn trong một căn phòng, thì ánh sáng của những ngọn đèn đó tỏa chiếu khắp phòng, không ngăn ngại nhau. Núi sông hoàn vũ, sum la vạn tượng cũng như thế, không ngăn ngại nhau. Nếu hồi quang phản chiếu, nhìn lại chính mình, thì sẽ thấy được thiên tánh, tức sáu căn liền thanh tịnh, nơi nơi đều là đạo. Nếu muốn sáu căn thanh tịnh, phải nên lùi bước. Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Nếu không duyên theo trần cảnh, thì căn không chỗ bám. Ngược dòng trở về nguồn hợp nhất; chẳng hành sáu dụng, thì mười phương cõi nước đều lắng trong thanh tịnh".

    Vì vậy "lùi bước", tức là "tiến bước". Nếu lùi càng gấp thì tiến càng mau. Nếu không hành thì chẳng thành tựu. Căn không duyên theo với trần cảnh, như mắt không bị sắc chuyển, tai không bị âm thanh chuyển, v.v... Làm chủ được thì không hề bị ngoại cảnh chuyển. Song, làm thế nào mới tự chủ được? Ngài Quy Sơn bảo:

    - Nếu tình không phụ vật, thì vật chẳng ngăn ngại người.

    Như nay đang cấy lúa, nếu không khởi tâm phân biệt, ung dung vô tâm tự tại, thì không sanh phiền não. Nếu tâm khởi phân biệt, bèn thấy có cảnh trần, tức có phiền não, tức bị cảnh khổ vui xoay chuyển. Khổng Tử bảo:

    - Tâm không ở trong. Nhìn mà chẳng thấy. Nghe mà chẳng biết. Ăn mà chẳng biết mùi vị.

    Tâm không ở trong tức là tâm không có phân biệt. Tâm chẳng phân biệt thì không có chướng ngại. Ăn uống cũng không biết mùi vị. Thiền sư Lâm Đạo ở núi Cổ Sơn, nghiên cứu tinh tường bộ sớ sao kinh Hoa Nghiêm của quốc sư Thanh Lương cùng bài sớ luận của trưởng giả họ Lý. Thấy văn tự quá thâm sâu, không tiện cho người sơ học xem đọc, nên viết lại yếu chỉ, gom soạn thành một quyển. Thiền Sư chuyên tâm nhất ý viết lách, không khởi tâm phân biệt. Lần nọ, thị giả đem bánh điểm tâm đến, để kế bên đá mài mực. Thiền Sư bốc đá mài mực ăn mà không biết. Khi thị giả trở lại, thấy miệng Thiền Sư đen ngòm, mà bánh điểm tâm vẫn còn trên bàn.

    Đó là tâm không phân biệt, nên ăn chẳng biết mùi vị. Hôm nay chúng ta cấy lúa, chẳng khởi tâm phân biệt, và chẳng sanh phiền não không? Nếu được như thế thì cùng đạo tương ưng. Ngày ngày, trong bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi, chẳng biết đó chính là đạo, mà chỉ mãi bận rộn sống trong phiền não, nên mới thọ khổ. Song, phiền não là Bồ Đề, phải nên tự lãnh hội.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #119
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    15/ Ngày mười bảy tháng tư

    Người thế tục, từ trẻ đến già đều không rời được ba nhu cầu như ăn, mặc, chỗ ở. Vì chúng mà ai ai cũng bận bịu cho đến chết. Y phục che thân, tránh gió lạnh. Ăn uống ít thì đói khát. Không có nhà cửa thì không có chỗ để tránh mưa gió. Thiếu một trong ba nhu cầu này, thì không thể sống được. Loài người như thế, và năm loài khác cũng cần ba nhu cầu như vậy. Loài bay nhảy trên không dưới đất như hổ, sói, chim chóc, rắn chuột, đều muốn sống an thân, đều dùng lông mao làm y phục, đều cần thức ăn nước uống. Ba nhu cầu này vốn là gốc khổ, nhưng người xuất gia chớ để chúng xoay chuyển. Lúc đầu chế giới, đức Phật dạy chư tỳ kheo rằng chỉ được giữ ba y, một bình bát, cùng ăn mỗi ngày một buổi, ngủ mỗi đêm tại một gốc cây.

    Tuy giảm thiểu sự phiền lụy rất nhiều, nhưng cũng chưa hẳn rời khỏi chúng. Hiện tại, thời thế đổi thay, người xuất gia gần giống như kẻ thế tục, tức vẫn bận rộn vì việc ăn mặc ngủ nghỉ. Từ sáng đến chiều, ngâm thân trong nước, cấy lúa làm ruộng rẫy. Nếu không làm thì chẳng có gạo mà ăn. Mùa xuân không gieo giống, thì mùa thu lấy lúa đâu mà thu hoạch? Thế nên, hạt lúa bát cơm không dễ dàng có được. Phải tốn hao công sức thời gian, lao tâm lao lực, mới có lúa để thu hoạch. Là người xuất gia, an nhiên khoanh tay ngồi hưởng, sao thành tựu đạo nghiệp được!

    Người xưa bảo:

    - Nếu hiểu rõ năm cách quán thì vàng tiêu cũng dễ. Ba tâm nếu chưa dứt thì nước uống cũng chẳng trôi.

    Người xuất gia chớ nên hành như giống kẻ tại gia, tức ngày đêm bận rộn vì ba nhu cầu này. Phải nên vì đạo, cầu thoát ly sanh tử. Do mượn thân giả tạm để tu đạo chân thật, nên chưa có thể cắt đứt được việc ăn, mặc, chỗ ở. Lúc tu đạo, tạm thời phải tự xem như không có thân mình, giống như người đã chết. Người xưa bảo:

    - Nếu là người tu đạo chân thật thì chẳng phút giây nào rời xa đạo.

    Hành vi của bậc đạo nhân, nơi nơi chốn chốn chớ để cảnh chuyển. Tu đạo như làm ruộng. Đầu tiên gieo lúa. Lúa biến thành mạ. Mạ dần dần sanh trưởng trở thành cây lúa. Lúa chín thì thành thóc. Chà thóc ra thì thành gạo. Nấu gạo chín thì thành cơm.

    Hạt lúa ví như Phật tánh. Bổn tánh của chúng sanh, vốn cùng Phật không khác. Tự tâm là Phật, nên gọi là Phật tánh. Tiến trình biến chuyển từ hạt lúa đến mạ, thóc, gạo, cơm thật rất xa. Song, chớ vì thế mà không tin rằng hạt lúa sẽ thành cơm. Thế nên, muốn thành Phật thì trước hết phải có tín tâm. Phải gieo hạt lúa xuống ruộng, rồi đợi nó phát mầm biến thành mạ. Khi ấy, vì sợ mầm héo giống khô, uổng phí thời gian, nên đức Phật dạy chúng ta phải phát tâm học pháp Đại Thừa, chớ lầm bước vào đường lộ của Tiểu Thừa. Lại nữa, lúc cấy mạ xong rồi phải nên nhổ cỏ. Nghĩa là người tu hành phải tẩy rửa thói quen tật xấu, tịnh trừ thất tình lục dục, mười triền sử, ba độc, mười việc ác, cùng tất cả phiền não vô minh vọng động. Giống trí mạ linh, trưởng thành thuận lợi, chắc chắn sẽ ra hoa kết quả.

    Tu hành phải dụng công trong động. Không nhất định phải ngồi xuống, lim dim nhắm mắt mới bảo là tu hành. Trong bốn oai nghi, dùng ba môn học vô lậu giới định huệ, dẹp trừ ba độc tham sân si. Nhiếp thọ sáu căn như chăn trâu, chẳng để chúng phá hư ruộng đất của người. Khi cô gái đẹp đứng trước mặt, đối với người thế tục thì đó là một cành hoa tươi, còn đối với các thiền sư thì đó là ác quỶ cô hồn. Mắt phải như thế, chớ để cảnh chuyển. Năm căn kia cũng vậy, chớ để cảnh trần xoay chuyển.

    Ngửi mùi hương thơm, chớ đắm đuối. Ngửi mùi hôi thúi, chớ sanh tâm ghét bỏ. Chớ để ý đến lông mi dài, răng ngắn, trương tam lý tứ, nhân ngã thị phi. Bồ Tát Di Lặc viết kệ bảo:

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #120
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    "Lão chuyết xuyên nạp áo

    Đạm thực phục trung bão

    Bổ phá hảo giá hàn

    Vạn sự tùy duyên hảo

    Hữu nhân mạ lão chuyết

    Lão chuyết tự thuyết hảo

    Hữu nhân đả lão chuyết

    Lão chuyết tự thùy đảo

    Thuế thóa tại thượng diện

    Tùy tha tự kiền liễu

    Ngã dã tỉnh khí lực

    Tha dã vô phiền não

    Giá dạng ba la mật

    Tiện thị diệu trung bảo

    Nhược tri giả hưu tức

    Hà sầu đạo bất liễu.


    Dịch:

    Lão chuyết mặc áo vá

    Cơm đạm bạc no lòng

    Áo bố che giá lạnh

    Muôn sự đều tùy duyên

    Có ai mắng lão chuyết

    Lão chuyết tự thuyết hảo

    Có ai đánh lão chuyết

    Lão chuyết tự xoay ngủ

    Nhổ bọt trên mặt mũi

    Để nó tự khô mất

    Ta vẫn tự tỉnh khí

    Họ chẳng sanh phiền não

    Đây là ba la mật

    Tức bảo vật vi diệu

    Nếu biết tin tức này

    Sao lo không hiểu đạo".


    Không đàm luận thị phi, không lo biện hộ, không tranh nhân ngã, không làm kẻ anh hùng, chạy ra khỏi hầm lửa nóng, bèn đến sông Hán mát trong. Ngộ được lý trường sanh, nương mặt trời mặt trăng làm bạn lữ. Nơi nơi đều là chốn tu hành, chẳng hạn cuộc ngồi trên bồ đoàn mới tu đạo. Nếu chấp ngồi trên bồ đoàn mới tu đạo thì như Tứ Liệu Giản, bảo: "Ấm cảnh hiện tiền, chớp mắt liền theo chúng".

    Người thế gian, chưa có thể đoạn dứt lời hay tiếng xấu. Nếu phá được cửa ải này thì không còn phiền não. Được khen thì vui mừng, tức bị ma hoan hỶ mê hoặc. Ba cái tốt, chấp giữ đến già. Song, ai chê mình, tức là bậc thiện tri thức. Họ khiến mình nhận rõ lỗi lầm, đoạn ác hành thiện. Phải nên sửa đổi.

    Ăn mặc ngủ nghỉ, đi đứng nằm ngồi, chớ rời xa đạo. Tám mươi bốn ngàn tế hạnh, không ngoài bốn oai nghi. Người xưa vì đạo, tu hành chẳng bỏ phí thời gian. Lúc ngủ, dùng miếng gỗ tròn làm gối, sợ mộng mê lâu không tỉnh, thì sẽ tu lầm lạc. Chẳng những ban ngày gặp cảnh tùy duyên, tự làm chủ được, mà lúc ngủ vẫn phải tự chủ được. Khi nằm phải theo thế kiết tường, tức thân như cung tên, dùng tay phải làm gối, tay trái để trên thân mình. Đó là nằm theo thế kiết tường. Khi vừa tỉnh mộng, liền dụng công tiếp tục. Chớ để tâm cuồn cuộn chảy về quá khứ, cuốn trôi đến vị lai, tán loạn khởi vọng tưởng từ sáng đến tối.

    Ai ai cũng có vọng tưởng. Niệm Phật cũng là vọng tưởng. Người tu thiền nếu muốn trừ vọng tưởng, thì ma đến giết ma, Phật đến giết Phật, rồi lần lần bước tới nơi bảo địa. Chớ sợ niệm khởi, chỉ lo giác chậm. Dụng công như thế, lâu ngày tự nhiên thành thục. Trong bận rộn, thị phi, động tịnh, nơi đầu đường xó chợ, đều tu thiền được. Chẳng vì bận rộn cấy lúa mà quên đi sự tu hành.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •