DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 10/20 ĐầuĐầu ... 89101112 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 91 tới 100 của 196
  1. #91
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 4 _ XXI. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tổ Quy Sơn bảo:

    - Hận cho mình sanh nhằm thời tượng pháp, cách xa đời Thánh giáo, Phật pháp giảm dần, nhiều người giải đãi, làm biếng. Song, tôi không ngại đưa ra cái nhìn thô thiển của mình cho những kẻ hậu lai.

    Ngài Quy Sơn Linh Hựu (618-906), người Phước Kiến, thân cận thiền sư Bá Trượng, phát minh được tâm địa. Tư Mã Đầu Đà tại Hồ Nam, thấy địa thế núi Quy Sơn vốn là linh địa, nơi xuất sanh ra một ngàn năm trăm vị thiện tri thức. Khi đó, dưới tòa Bá Trượng, ngài Linh Hựu làm điển tọa. Vừa thấy ngài Linh Hựu, Tư Mã Đầu Đà liền biết đây là chủ nhân của núi Quy Sơn, nên thỉnh ngài Bá Trượng cho vời Linh Hựu qua núi Quy Sơn khai sáng. Ngài Quy Sơn sống trong đời Đường, mà Phật pháp trong thời đó thuộc về cành lá của đời tượng pháp. Tuy thế, ngài Linh Hựu lại tự than trách là mình sanh không nhằm thời, khó mà thông hiểu Phật pháp. Tín tâm của chúng sanh ngày càng lui sụt, không dám chịu đựng khổ nhọc để tu đạo, nên không thể nào có cơ hội chứng quả vị Phật. Ngày nay, chúng ta sống cách xa đời ngài Quy Sơn cả một ngàn năm. Không những đời tượng pháp đã hết, mà đời mạt pháp đã trải qua hơn chín trăm năm. Người có căn lành ngày càng ít ỏi. Tuy tin Phật thì đông, nhưng kẻ chân thật tu hành ngộ đạo lại quá ít.

    So sánh sơ lược, người học Phật hiện tại, có rất nhiều phương tiện. Vào thời Hàm Phong (1851-62), các chùa chiền tự viện đều bị phá hoại. Dưới miền xuôi Tam Giang, chỉ còn có chùa Thiên Đồng là được bảo toàn. Đến năm Thái Bình Thiên Quốc (1850-64), các vị trưởng lão từ núi Chung Nam xuống trùng hưng lại các tự viện. Khi đó, các ngài chỉ có một bình bát và giỏ tre, chứ không có những vật lăng nhăng khác. Sau này, Phật pháp dần dần hưng thịnh trở lại. Chư Tăng bắt đầu mang đầy hành lý. Ngày nay, chư Tăng còn mang theo cặp táp, rương cáp, đủ thứ cả. Đối với sự chân chánh hành trì Phật pháp, một điểm nhỏ cũng không bàn tới.

    Xưa kia, thiền sinh muốn đi tham phương cầu đạo, phải lội bộ nhọc nhằn. Ngày nay, có xe lửa, xe hơi, tàu bè, máy bay. Vì thế, chỉ lo hưởng phước, không muốn chịu khổ. Đa số đều phóng dật làm biếng. Tuy các Phật học viện cũng tùy thời mà huấn luyện dạy dỗ Tăng chúng, khiến đoàn thể chư Tăng ngày càng đông, nhưng đối với sự tu hành căn bản thì lơ là, ít ai chịu xoay đầu nhìn lại. Ngày ngày, từ sáng đến tối chỉ cầu tri giải, không cầu tu chứng, mà không biết rằng pháp tu chứng là chìa khóa, giải quyết mọi vấn đề. Trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia Huyền Giác bảo:

    "Hãy bám gốc, chớ giữ ngọn

    Như hạt lưu ly thanh tịnh chứa bảo nguyệt

    Ôi! Thời mạt pháp, cõi đời ác trược

    Chúng sanh phước kém, khó điều phục

    Xa rời Thánh giáo, tà kiến thâm trọng

    Ma cường pháp nhược, nhiều oán hận

    Nghe môn đốn giáo của Như Lai

    Hận không diệt trừ đập nát

    Làm tại tâm, họa tại thân

    Chẳng nên gieo oán hờn cho kẻ khác

    Nếu muốn không chiêu nghiệp Vô gián

    Chớ phỉ báng Chánh pháp luân Như Lai

    Tôi sớm tích tụ nhiều học vấn

    Cũng từng thảo sớ tầm Kinh Luận

    Phân biệt danh tướng không biết ngừng

    Bị vây trong tính toán cát biển khơi

    Liền bị Như Lai quở trách

    Đếm trân bảo của người, có ích lợi gì".


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #92
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 4 _ XXI. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đến tham vấn với Lục Tổ Huệ Năng liền đại triệt đại ngộ. Vì vậy, Lục Tổ ban cho Ngài Vĩnh Gia pháp hiệu: "Nhất Túc Giác".

    Các bậc cổ đức thường bảo tầm Kinh khảo luận chỉ giống như vào biển đếm cát. Pháp trong tông môn như bảo kiếm Kim Cang, chém đến vật nào thì đứt đoạn vật đó. Vật gì đụng đến lưỡi kiếm đều bị mất mạng. Thật vậy, tông môn là pháp môn tối thượng, mau chóng đạt thành Phật quả.

    Thiền sư Thân Tán vào lúc trẻ, thường đi hành cước, đến thân cận tổ sư Bá Trượng, được khai ngộ. Khi trở về chùa, thầy bổn sư hỏi:

    - Con xa ta, ra ngoài được sự nghiệp gì?

    Ngài thưa:

    - Bạch Thầy! Không được sự nghiệp gì hết!

    Thầy bổn sư liền bảo Ngài theo hầu. Ngày nọ, thầy bổn sư đi tắm, và bảo Ngài kỳ thân giùm. Ngài liền vỗ lưng thầy bổn sư và nói:

    - Điện Phật rất đẹp, nhưng Phật không phải là Thánh.

    Thầy bổn sư vẫn chưa lãnh hội, chỉ xoay đầu lại nhìn. Ngài nói thêm:

    - Phật tuy không phải là Thánh mà thường phóng quang.

    Ngày khác, lúc thầy bổn sư đang ngồi dưới cửa sổ xem Kinh, một con ong bay thẳng, đâm đầu vào cửa sổ giấy để tìm lối ra. Ngài thấy thế nên nói:

    - Cả thế giới rộng rãi như thế mà không muốn bay ra. Đâm thủng giấy liền thoát bao kiếp lừa.

    Ngài lại nói kệ:

    "Chỗ trống không muốn ra
    Đâm vào cửa thật ngu
    Trăm năm chui vào đó
    Khi nào mới thoát ra!"


    Thầy bổn sư nghe thế liền mắng:

    - Con ra ngoài hành cước, gặp ai, học được gì, thấy điều chi, mà nói nhiều quá vậy?

    Ngài thưa:

    - Bạch Thầy! Từ khi ra đi, con qua dự dưới hội của tổ Bá Trượng, được Ngài chỉ dẫn đến chỗ nghỉ ngơi. Vì nhớ Thầy tuổi cao, nên con trở về báo đáp từ ân.

    Thầy bổn sư nghe thế, nên bảo đại chúng thiết lễ trai tăng, cung thỉnh Ngài lên tòa thuyết pháp. Ngài liền lên tòa, tuyên nói tông phong Bá Trượng:

    "Linh quang chiếu sáng

    Thoát xa căn trần

    Thể lộ chân thường

    Không chấp văn tự

    Tâm tánh vô nhiễm

    Gốc tự nhiên thành

    Xa rời vọng duyên

    Liền như chư Phật"
    .

    Thầy bổn sư nghe thế, vui mừng bảo:

    - Ta không ngờ già đến từng tuổi này mà được nghe những lời thâm thúy cùng cực như vầy.

    Do đó, thầy bổn sư liền giao chùa cho Thân Tán và lễ Ngài làm thầy. Xin hãy nghiệm xem câu chuyện này. Sao mà dễ dàng, tự tại quá!

    Trải qua vài mươi ngày tham thiền, tại sao chúng ta vẫn chưa ngộ đạo? Lý do là vì không dùng tâm kiên cố, dụng công đạp đất, hoặc cho là trò chơi trẻ nít, hoặc nghĩ rằng ngồi tĩnh tọa dụng công tham thiền trong thiền đường là đủ rồi. Không phải như thế! Người chân thật dụng công, không phân biệt động tĩnh, nên ở nơi thiền đường hay phố xá náo nhiệt, đều tu được cả.

    Xưa kia, hòa thượng Đồ Tử đang trên đường tìm thầy học đạo, đi ngang qua một khu chợ, đến quầy bán thịt. Lúc ấy, có nhiều người đến mua thịt. Họ đều yêu cầu phải được thịt tươi. Ông đồ tể nóng giận, phát cáu, chém một nhát dao xuống thớt, mắng:

    - Miếng thịt nào không phải là thịt tươi?

    Hòa thượng Đồ Tử nghe thế, đột nhiên khai ngộ. Chứng minh rằng người xưa, không phải chỉ ngồi trong thiền đường mới dụng công.

    Hôm nay trong quý vị, không ai bước ra cho biết nhân duyên ngộ đạo. Thật có phải uổng phí thời gian lắm không?

    Cung thỉnh lão pháp sư Ứng Từ và chư đại hòa thượng, tiếp tục kiểm nghiệm đại chúng.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #93
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 4 _ XXI. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    9/ Pháp ngữ giải thất.

    (Ngài bước ra khỏi thiền đường. Lão pháp sư Ứng Từ kiểm vấn từng người. Xong, lão pháp sư Ứng Từ bảo mọi người ngồi xuống. Lúc đó, Ngài bước vào thiền đường. Khi mọi người tĩnh tọa, Ngài lại ban lời chỉ giáo. Sau đó, đại chúng dùng trà, rồi đồng đứng dậy. Trong thiền đường, Ngài ngồi trước Phật điện, dùng cây trúc vẽ một vòng tròn và nói kệ:

    "Vừa kết thất, lại liền giải thất

    Quên mất ngày nào là giải kết?

    Nhất niệm vọng duyên cảnh bèn ngừng

    Ma ha Bát nhã Ba la mật

    Tâm cảnh tịch, thể dụng đều quy

    Gốc tự sáng tròn, không ngày đêm

    Sao phân Nam Bắc cùng Đông Tây

    Muôn sự tùy duyên, Quán tự tại

    Chim hót hoa cười, trăng soi đáy

    Bảo câu giải thất như thế nào?

    Đánh chuông bản, bình bát vụt lên

    Đế quán Bát nhã Ba la mật.


    Giải thất.

    Lần sửa cuối bởi nguoi ao lam; 10-15-2018 lúc 10:05 AM
    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #94
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN V

    XXII. Phương tiện khai thị tại núi Vân Cư, năm 1955


    1/ Ngày mười một tháng ba.

    Thích Ca Như Lai thuyết pháp trong bốn mươi chín năm, đàm Kinh hơn ba trăm hội, quy nhiếp tại ba tạng, mười hai bộ. Ba tạng tức là tạng Kinh, tạng Luật, tạng Luận. Toàn bộ ba tạng không ngoài ba học : giới định huệ. Tạng Kinh thâu nhiếp định học. Tạng luật thâu nhiếp giới học. Tạng luận thâu nhiếp huệ học. Nói chung, hai chữ nhân quả bao gồm tất cả lời thuyết pháp của Phật. Tất cả phàm thánh, thế gian, xuất thế gian, đều không vượt ngoài hai chữ nhân quả. Nhân tức là nhân duyên. Quả tức là quả báo.

    Ví như trồng lúa, lấy hạt lúa làm nhân, rồi nhờ ánh sáng, gió mưa làm duyên. Khi hạt lúa chín mùi thì gặt hái lúa, tức là quả. Nếu không nhân duyên, quyết chẳng thể kết quả. Sở dĩ thành thánh hiền, vì các Ngài minh nhân thức quả. Minh tức là liễu giải được nghĩa. Thức tức là hiểu rõ được nghĩa. Phàm phu sợ quả. Bồ Tát sợ nhân. Phàm phu chỉ sợ quả ác, mà nào biết đến quả ác phát khởi từ nhân xấu. Bình thường, tự ý làm những việc hàm hồ ngu xuẩn; mưu đồ hưởng sung sướng trong nhất thời, mà quên rằng sung sướng vốn là nhân khổ.

    Bồ Tát chẳng như thế. Bình thường, nhất cử nhất động, hộ trì thân tâm cẩn trọng, và luôn lấy việc giữ giới làm đầu, nên chẳng gieo nhân xấu, thì làm sao quả ác đến? Bị quả ác trói buộc, do vì đã trồng nhân xấu bao đời xa xưa. Trước kia đã từng trồng nhân nào, thì ngày nay khó mà trốn chạy quả báo đó. Khi cảm thọ quả báo, phải an nhiên lãnh thọ, chẳng nên lui sụt sợ hãi. Đấy mới gọi là minh nhân thức quả.

    Ví như pháp sư An Thế Cao thuở xưa, nhờ bao kiếp tu trì, nên được thọ sanh làm thái tử nước An Tức. Khi ấy, Thái Tử xả bỏ năm dục, xuất gia tu đạo, đắc được Túc mạng thông, biết đời trước đã từng thiếu nợ mạng người. Chủ nhân lúc ấy đang ở tại nước Tàu. Do đó, Ngài đi thuyền qua Tàu. Đến Lạc Dương, Ngài đi qua một cánh đồng hoang vắng. Bỗng nhiên, từ đâu chạy đến, một thiếu niên tay cầm thanh kiếm, xa thấy Ngài, nổi giận đùng đùng, hung khí đằng đằng. Khi chạy tới, chưa kịp nói lời gì, liền vung kiếm chém Ngài. Sau khi chết, thần thức của Ngài vẫn trở lại đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lúc trưởng thành, cũng phát tâm xuất gia, vẫn đạt được Túc mạng thông, và biết đời này lại phải đền thêm một mạng người nữa. Chủ nhân vẫn ở tại Lạc Dương. Vì vậy, Ngài đi qua Tàu một lần nữa, rồi đến thẳng nhà người vừa giết mình trong đời tiền kiếp. Đến nơi, Ngài xin tá túc qua đêm. Được tiếp đãi cơm nước xong, Ngài hỏi chủ nhân:

    - Ông có nhận ra tôi không?

    Chủ nhân đáp:

    - Không.

    - Tôi là vị Tăng mà ông đã giết tại một cánh đồng vắng, vào ngày ấy, tháng ấy, năm ấy.

    Chủ nhân kinh hoàng sợ sệt, vì việc này không có người thứ ba nào biết đến. Ông nghĩ rằng vị Tăng này chắc là hồn ma thuở xưa, nay trở lại đòi mạng. Do đó, ông ta vụt muốn bỏ chạy. Ngài bảo:

    - Chớ sợ! Tôi chẳng phải là quỷ ma đến đòi mạng đâu! Ngày mai, tôi cũng sẽ bị người khác giết chết, để đền sanh mạng trong đời tiền kiếp. Vì thế tôi mới đến đây. Nhờ ông làm nhân chứng, chuyển lời di chúc của tôi lại cho quan quân địa phương, bảo rằng tự tôi đến đây để đền mạng, chớ trị tội kẻ giết lầm tôi.

    Nói xong, Ngài liền đi ngủ. Hôm sau, Ngài đi ra đường phố, gặp một người nông phu, đang gánh củi. Lúc Ngài đi gần tới ông ta, đột nhiên gánh củi ở phía trước rớt xuống đất, nên cây đòn gánh vụt đánh bật trở lại đằng sau, đập trúng vào đầu Ngài, khiến Ngài chết ngay lập tức. Người nông dân bị dẫn đến quan trường xét xử. Chất vấn xong, quan tuyên bố là ông nông dân phạm tội cố sát. Ông chủ nhân giết Ngài đời trước, thấy lời Ngài dặn dò đêm hôm qua thật rất tương hợp với sự tình, nên trần thuật và trình di chúc của Ngài lên quan xét xử. Quan nghe xong, tin tưởng nhân quả chẳng sai chạy, nên tha tội ngộ sát cho ông nông dân. Khi bị đòn gánh đánh chết, thần hồn Ngài vẫn bay trở lại, đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lớn lên, cũng xuất gia tu hành, tức là pháp sư An Thế Cao.

    Tuy là Thánh Hiền, nhưng chẳng lầm nhân quả. Đã từng trồng nhân xấu thì phải cảm thọ quả ác. Nếu hiểu rõ nghĩa này, thì những cảnh thuận nghịch, vui buồn, khổ nhọc, sung sướng, cùng mọi cảnh giới hằng ngày, đều do nhân xưa tạo ra. Ngay nơi những cảnh giới này, chớ sanh tâm vọng tưởng thương ghét oán trách, thì tự nhiên sẽ xả bỏ được tất cả, khiến chuyên tâm vào đạo. Những thói quen tật xấu, vô minh, cống cao ngã mạn, đều không thể làm chướng ngại, thì tự nhiên dễ dàng nhập đạo.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #95
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    2/ Ngày mười hai tháng ba

    Người xưa xem sanh tử là việc lớn, nên không quản khổ nhọc, bôn ba trèo non lội suối, vượt núi băng sông, để tầm sư học đạo. Chúng ta từ đời vô thủy đến nay, bị bao vọng tưởng che lấp, trần lao trói buộc, quên mất bản lai diện mục của mình. Ví như tấm kiếng, vốn tự chiếu soi khắp cả trời đất, nhưng vì bị bụi bặm trần cấu bám vào, khiến nó không thể chiếu sáng. Chúng ta chỉ việc dùng công phu lau chùi, thì tự tánh chiếu soi xưa kia, tự nhiên hiển hiện. Tâm tánh của chúng ta cũng như thế. Trên đồng với chư Phật không hai không khác, không thiếu không thừa. Song, tại sao chư Phật đã thành Phật rồi, mà chúng ta vẫn còn làm phàm phu, nằm trong biển khổ sanh tử? Chỉ vì tâm tánh của chúng ta, bị bao tập khí vô minh phiền não che lấp, nên tâm tánh này tuy cùng Phật không khác, nhưng không thể dùng được.

    Ngày nay, chúng ta đã xuất gia, đồng là con Phật, thì phải cố gắng minh tâm kiến tánh, xoay về cội nguồn, chẳng ngại khổ nhọc, vận dụng công phu. Người xưa chịu muôn ngàn khổ nhọc, tham tầm thiện tri thức, chỉ vì muốn hiểu rõ chính mình. Hiện tại là đời mạt pháp, thời thánh giáo đã qua, Phật pháp ngày càng suy vi, người nhiều biếng nhác, nên chẳng có thể cắt đứt dòng sanh tử. Ngày nay đã biết tự tâm tương đồng với chư Phật, phải nên phát tâm tu hành dài lâu, tâm kiên cố, tâm dũng mãnh, tâm hổ thẹn. Từ sáng đến tối, trong mười hai thời, như mài như giũa, như cạo như chùi, nỗ lực tinh tấn, dụng công tu đạo, chớ để thời gian trôi qua vô ích.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #96
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    3/ Ngày mười ba tháng ba

    Cổ nhân nói:

    - Luận việc thành đạo rất dễ, nhưng muốn trừ vọng tưởng lại rất khó.

    Đạo là lý. Lý là tâm. Tâm, Phật, chúng sanh, tuy là ba, nhưng nào có sai khác! Người người vốn có đầy đủ; ai ai cũng sẽ viên thành quả vị Phật. Tâm tánh đó, tại Thánh không tăng, tại phàm chẳng giảm. Nếu ai hiểu được tâm này thì đại địa không còn một tấc đất. Mọi pháp thế gian cùng xuất thế gian, phàm phu thánh hiền, đều vốn không thật, sao lại có sanh tử? Vì thế, bảo:

    - Luận bàn thành Phật rất dễ.

    Tâm thể này tuy sáng soi vi diệu, nhưng bị bao loại vọng tưởng che lấp, ánh sáng không cách chi hiển hiện, nên muốn trừ vọng tưởng thật không dễ dàng.

    Vọng tưởng có hai loại: Thô kệch và vi tế. Lại nữa, tâm có vọng tưởng hữu lậu và vô lậu. Vọng tưởng hữu lậu khiến chúng ta cảm thọ quả báo khổ nhọc hay sung sướng ở cõi trời và người. Vọng tưởng vô lậu khiến chúng ta có khả năng thành Phật làm Tổ, thoát khỏi sanh tử, xuất ra ba cõi. Vọng tưởng thô kệch khiến lãnh thọ quả báo xấu, đọa vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vọng tưởng vi tế khiến tạo bao việc lành thiện như niệm Phật, tham thiền, tụng Kinh, trì chú, lễ bái, hộ trì Giới luật, v.v... Vọng tưởng thô tương ưng cùng nghiệp xấu, tức khởi mười điều ác. Ý khởi tham lam, sân hận, si mê. Miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc. Thân tạo nghiệp giết hại, ăn cắp, tà dâm. Đây là mười việc ác do thân miệng ý tạo ra. Trong đó, phân biệt tùy theo cấp bậc nặng nhẹ. Tạo nghiệp thượng phẩm của mười điều ác thì đọa địa ngục. Trung phẩm thì đọa ngạ quỷ. Hạ phẩm thì làm súc sanh. Tổng quát, cho dầu vọng tưởng thô hay vi tế, tất cả đều phát khởi từ một tâm niệm. Mười pháp giới cũng từ tâm niệm này phát sanh, nên bảo rằng tất cả đều do tâm tạo.

    Cội gốc bổn địa phong quang của chúng ta, vốn không mang một sợi tơ trói buộc, và chẳng bị phiền trược trần lao làm ô nhiễm, chỉ bất đắc dĩ mới gọi là vọng tưởng thô. Khi chúng diệt thì còn vọng tưởng vi tế. Lúc đó, mạng căn vẫn chưa đoạn. Hiện tại, muốn trừ vọng tưởng, phải nương theo một câu thoại đầu hay chú tâm vào một tiếng niệm Phật, để đập ngói cửa thành quân địch; đem vọng tưởng vi tế để hàng phục vọng tưởng thô, tức là lấy độc trị độc. Hàng phục vọng tưởng thô rồi, chỉ còn lại vọng tưởng vi tế. Lúc ấy mới tương ưng cùng đạo. Tiếp tục mài giũa, công phu lâu ngày được thuần thục, thì vọng tưởng vi tế cũng không còn.

    Biết vọng tưởng không tốt, nên phải đoạn trừ chúng. Song, biết mà lại cố phạm, vẫn khởi bao vọng tưởng, chạy đuổi lưu chuyển theo tập khí. Gặp nghịch cảnh vẫn khởi vô minh, làm biếng giải đãi, cầu danh lợi, nghĩ ngợi việc dâm dục v.v... Tuy biết chúng chẳng tốt lành, mà không thể xả bỏ được. Vì sao? Do từ đời vô thủy đến nay, huân tập khí nhiễm ô thâm sâu, nên trở thành thói quen tập quán. Như chó thích ăn phẩn, tuy cho thức ăn ngon, nhưng khi nghe mùi phẩn, nó vẫn chạy đến. Đây là tập quán trở thành tánh khí. Có một câu chuyện, miêu tả cách diệt trừ vọng tưởng của người xưa.

    Thiền sư Pháp Đường, núi Đại Mai, đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:

    - Thế nào là Phật?

    Mã Tổ bảo:

    - Tâm tức là Phật.

    Thiền sư bèn đại ngộ, rồi lên núi Đại Mai, kết am ẩn tu. Mã Tổ nghe tin, bảo tăng đến đó hỏi nguyên do. Thiền sư đáp:

    - Mã Tổ dạy tôi rằng tâm tức là Phật, nên mới trụ nơi đây tu hành.

    Tăng bảo:

    - Gần đây Mã Tổ dạy Phật pháp có khác đôi chút.

    - Khác như thế nào?

    - Phi tâm, phi Phật.

    - Lão già làm mê hoặc người chẳng có ngày nào thôi. Mặc tình lão phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tâm tức là Phật.

    Tăng trở về thuật lại. Mã Tổ bảo:

    - Trái mai đã chín.

    Những hành động của chư Tổ Sư, đều đánh thẳng vào tâm người, khiến họ đoạn trừ vọng tưởng. Chúng ta là người xuất gia, hành cước tham học, chưa đoạn sanh tử, phải sanh tâm hổ thẹn sâu xa, cùng phát tâm đại dũng mãnh, chớ để tập khí xoay chuyển.

    "Giả sử có vòng lửa sắt, cháy rực trên đầu, quyết không vì khổ này mà thối thất tâm Bồ Đề".

    Bồ Đề tức là giác. Giác tức là đạo. Đạo tức là diệu tâm. Tâm này xưa nay vốn viên mãn tròn đầy, chẳng hề khiếm khuyết. Nay muốn tìm về tự tánh, phải tự phát tâm, hướng vào tự tánh mà tầm cầu. Ngược lại, ngay cả Phật Thích Ca xuất thế, e rằng cũng không giúp được gì!

    Trong mười hai thời, chớ phân biệt động tịnh, đi đứng nằm ngồi. Nếu sống lại với thể tướng như như của chân tâm mà không khởi vọng tưởng, thì lo gì chẳng đoạn sanh tử? Nếu không như thế thì luôn luôn bận bịu, từ sáng đến tối, từ sanh đến tử, chỉ lãng phí thời gian. Một đời tu hành khổ cực, mà không được lợi ích gì. Ngày ba mươi tháng chạp đến, khát nước mới đào giếng, thì ra tay sao kịp; dẫu có hối hận nhưng đã quá muộn! Đây là những lời tha thiết của tôi. Hy vọng mọi người hãy tự dụng tâm lãnh hội.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #97
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    4/ Ngày mười bốn tháng ba

    Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được vật, tức đồng Như Lai".

    Chư Thánh Hiền luôn chuyển được vật, chứ không bị vật chuyển, nên tùy tâm tự tại, nơi nơi đều sống với tâm chân như. Phàm phu chúng ta vì vọng tưởng chướng ngăn, nên bị muôn vật xoay chuyển. Ví như gió đông thổi đến những đầu ngọn cỏ thì chúng ngã về hướng tây, hay gió tây thổi đến thì chúng ngã về hướng đông; nghĩa là tự chúng không có thể làm chủ được. Có người cả ngày lo lắng bận rộn, tán tâm phóng dật, ý chẳng trụ nơi đạo; tuy dụng công phu, mà lúc có lúc không, đứt đoạn không liên tục, lại thường trụ nơi vui buồn thương ghét, bụng nhét đầy phiền não thị phi. Mắt thấy sắc tướng, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi thơm, lưỡi nếm vị ngon, thân cảm giác xúc chạm, ý phân biệt các pháp. Sáu căn đối với sáu trần, không có giác chiếu. Tùy theo màu sắc, xanh đỏ trắng vàng, già trẻ, nam nữ, mà tâm niệm xoay chuyển cuồng loạn. Lúc hợp ý thì sanh tâm tham đắm, ái nhiễm mến trước. Khi nghịch ý thì khởi phiền não, giận hờn, oán trách. Luôn luôn khởi vọng tưởng. Nơi vọng tưởng vi tế còn có thể dụng công tu đạo, làm việc lành thiện. Nơi vọng tưởng thô lại khởi bao loại vọng niệm bất chánh tà vạy; bụng chứa đầy cấu uế, tệ hại cả bảy tám phần, không thể diễn tả hết.

    Thiền sư Bạch Vân Đoan bảo:

    "Nếu năng chuyển vật tức Như Lai

    Xuân ấm áp, hoa núi nở rộ

    Tự có đôi tay, cùng tương thủ

    Chưa từng dễ dàng, vũ tam đài".


    Kinh Kim Cang nói: "Phải nên hàng phục tâm như thế".

    Nhà Nho cũng có câu:

    - Tâm không ở đây. Gần mà không thấy. Có tiếng mà chẳng nghe. Ăn mà chẳng biết mùi vị.

    Nhà Nho còn biết việc chẳng để vật chuyển. Phật tử chúng ta sao lại không nhớ đến nổi khổ sanh tử, như lửa cháy trên đầu? Nếu xả được thân tâm, tinh tấn cầu đạo, tự rèn luyện kiểm nghiệm, mài dũa trong động, từ từ dụng tâm không để vật chuyển, thì công phu mới có phần vững vàng.

    Dụng công không nhất định phải ở trong yên tĩnh. Nơi động mà không bị động, mới là công phu chân thật.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #98
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Năm đầu nhà Minh, ở Đàm Châu tỉnh Hồ Nam, có ông Hoàng Thiếc Tượng, dùng nghề rèn làm sinh sống, nên người đương thời gọi là Hoàng Đả Thiếc. Lúc ấy, Chu Nguyên Chương đang khởi binh lật đổ nhà Nguyên, nên rất cần nhiều binh khí. Hoàng Đả Thiếc phụng mạng triều đình, ngày đêm gấp rút rèn binh khí không ngừng nghỉ. Ngày nọ, một vị Tăng đi ngang qua nhà, được ông ta cúng dường thức ăn. Ăn xong, vị Tăng bảo:

    - Nay thọ nhận thức ăn bố thí, không có gì đền đáp, nhưng sẽ tặng thí chủ một câu kệ.

    Họ Hoàng liền thỉnh Tăng thuyết pháp. Tăng hỏi:

    - Sao thí chủ không chịu tu hành?

    Họ Hoàng thưa:

    - Tu tuy là việc tốt, nhưng cả ngày bị bận rộn, làm sao hành được?

    - Có pháp môn niệm Phật, tuy bận rộn, nhưng vẫn tu hành được. Khi đập một thanh sắt, thí chủ nên niệm Phật một câu. Thổi một hơi, cũng nên niệm Phật. Cứ niệm 'Nam mô A Di Đà Phật' trường kỳ như thế, thì lúc lâm chung, chắc chắn sẽ được vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc.

    Hoàng Đả Thiếc y theo lời dạy của vị Tăng đó, vừa đập một thanh sắt, vừa niệm Phật. Cả ngày vỗ đập trui rèn sắc thiếc, và cả ngày niệm Phật, không cảm thấy mệt nhọc, lại còn cảm giác khinh an tự tại. Công phu ngày ngày thâm sâu, nên từ từ ngộ nhập, không niệm mà vẫn niệm. Khi sắp lâm chung, biết rõ giờ giấc, rồi từ tạ thân bằng quyến thuộc, tự bảo sẽ vãng sanh qua cõi Tây Phương. Thời điểm đến, sắp đặt giao phó công việc trong nhà, rồi tắm rửa, thay đổi y phục. Xong xuôi, ông tới ngồi bên lò rèn, đập vài thanh sắt, rồi thuyết bài kệ:

    "Đả đả đương đương!

    Luyện lâu thành thép

    Thái bình kề cận

    Tôi vãng Tây Phương"
    .

    Thuyết xong, ông liền qua đời. Đương thời, mùi hương lạ bay khắp nhà, nhạc Trời vang trong không trung, xa gần đều nghe thấy, khiến ai ai cũng được cảm hóa.

    Hôm nay, chúng ta bận rộn ngày đêm, không giờ giấc nghỉ ngơi. Nếu hành trì như ông Hoàng Đả Thiếc, trong động mà vẫn nỗ lực tu hành, thì lo gì không cắt đứt sanh tử!

    Xưa kia, lúc ở núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam, tôi có một đệ tử xuất gia, tên là Cụ Hành. Nay kể chuyện của Thầy đó cho quý vị nghe.

    Thầy Cụ Hành, lúc chưa xuất gia, thường hút thuốc uống rượu, tham đắm sắc đẹp. Gia đình tám người, thường đến chùa Chúc Thánh làm công quả. Sau này, cả nhà đều xuất gia. Xuất gia xong, Thầy bỏ hết mọi tập khí xấu. Tuy không biết một chữ, Thầy vẫn cố gắng dụng công. Những bài Kinh kệ, công phu sáng chiều, như phẩm Phổ Môn v.v... trong vòng vài năm, Thầy đều học thuộc lòng. Cả ngày, Thầy trồng rau quả không nghỉ ngơi. Tối đến, lễ Phật tụng Kinh, không tham ngủ nghỉ. Trong Tăng chúng, được người mến thích hay bị ghen ghét, Thầy cũng chẳng màng đến. Thầy thường giúp Tăng chúng may vá y áo. Lúc xỏ một mũi kim, Thầy niệm một câu 'Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát'. Sau này, Thầy đi lễ bái bốn núi danh tiếng (núi Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà, Cửu Hoa) trong tám năm, rồi trở lại Vân Nam.

    Khi ấy, tôi đang đảm nhiệm trọng trách trùng tu chùa Vân Môn. Trở về, Thầy cũng tu khổ hạnh. Những việc nặng nề khó nhọc, lớn nhỏ trong chùa, Thầy đều đảm đang gánh vác. Đại chúng đều mến thích Thầy. Lúc sắp lâm chung, Thầy mang tất cả y phục, đồ vật đi bán, rồi dùng số tiền đó, mua thức ăn cúng dường Tăng chúng. Sau đó, cáo từ đại chúng, sắp đặt mọi việc gọn gàng. Vào tháng tư, Thầy mang dầu, rơm rạ ra sau sân chùa Thắng Nhân, tức hạ viện chùa Vân Thê, để tự thiêu mà hóa. Khi có người phát giác, thì Thầy đã vãng sanh. Song, y ca sa trên thân, tuy đã thành tro, nhưng vẫn giống như bình thường, mà không rơi xuống. Thân Thầy ngồi trong đống lửa, tay vẫn cầm cây khánh và cái mõ. Người đến xem, ai nấy đều cảm động rơi lệ. Ngày ngày Thầy bận rộn, nhưng chẳng quên tu hành, nên tự do tự tại, qua lại trong sanh tử. Trong động và tĩnh đều dụng công tu hành, nên công phu mới dễ dàng đắc lực.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #99
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    5/ Ngày hai mươi mốt tháng ba

    Người xưa tu hành có đạo đức cao thượng tôn quý, khiến thiên long quỷ thần cảm động, tự nhiên đến ủng hộ. Vì thế, đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu: "Đạo cao long hổ phục. Đức trọng Quỷ Thần khâm".

    Quỷ thần cùng con người, mỗi loài đều có pháp giới tôn quý ty tiện khác nhau. Tại sao chư Thiên, Quỷ Thần lại tôn trọng, cung kính pháp giới loài người? Diệu tánh linh minh vốn chẳng phân biệt mình người, đều đồng quy về nhất thể. Chỉ vì vô minh bất giác, mê muội nguồn chân, mới phân mười pháp giới, tức sáu phàm bốn Thánh. Nếu muốn xả mê về ngộ, phải xoay về cội nguồn. Song, trình độ giác ngộ của mỗi pháp giới không đồng. Trong pháp giới của con người, có kẻ giác và bất giác, cũng có kẻ chánh tri kiến và tà tri kiến. Pháp giới chư Thiên và quỷ thần cũng như thế. Tuy nằm trong sáu loài phàm phu, nhưng pháp giới con người lại vượt trội năm pháp giới khác.

    Chư thiên cõi trời Lục Dục vẫn còn đam mê tham ái nữ sắc, quên mất việc tu hành. Trời Tứ Thiền Thiên thì lại tham đắm thiền vị, quên mất con đường minh ngộ chân tâm. Trời Tứ Không Thiên thì lại lạc vào thiên chấp biến không, quên mất chánh tri kiến. A Tu La còn nhiều sân hận. Chúng sanh trong đường Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh thọ bao khổ nhọc, khiến chẳng có chánh niệm, thì làm sao tu hành? Cõi người khổ nhọc vui sướng không đồng, nhưng so với các cõi khác thì dễ dàng giác ngộ hơn, nên có thể minh tâm kiến tánh, siêu phàm nhập Thánh. Chư Thiên Quỷ Thần tuy có thần thông phước báo nhiều ít không đồng, nhưng đều tôn trọng người có đạo đức và cùng ngưỡng mộ chánh pháp.

    Thiền sư Nguyên Khê, kết am tại Nhạc Bàng Ô, đã từng truyền giới cho Thần núi. Trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, viết: "Ngày nọ, có một dị nhân, đầu đội mão rộng, thân mặc cân đai, dẫn rất nhiều người, thư thả đi vào am, bảo rằng muốn yết kiến Đại Sư. Thấy hình mạo kỳ lạ phi thường, Đại Sư hỏi:

    - Lành thay! Nhân giả vì cớ gì mà đến đây?

    Thần đáp:

    - Đại Sư nhận ra con không?

    - Ta chỉ dùng mắt bình đẳng mà quán chư Phật cùng tất cả chúng sanh, sao lại có phân biệt!

    - Con vốn là Thần trụ núi này, và cầm nắm sanh tử con người trong vùng. Đại Sư có nhận biết không?

    - Ta vốn vô sanh, ông làm sao giết được? Thân Ta đồng với hư không, cùng đồng với thân ông. Ông có thể phá hoại hư không cùng thân của mình không? Chẳng thể được! Thân Ta bất sanh bất diệt. Ông chưa có thể làm được như thế, sao cầm nắm sanh tử của ta?

    Thần cung kính cúi đầu thưa:

    - Con là vị Thần rất mực thông minh chánh trực, há lại không biết Đại Sư có trí huệ quảng đại sao? Nay mong cầu Đại Sư hãy truyền chánh giới, con xin lãnh thọ.

    - Ông khất cầu giới, tức đã đắc giới. Tại sao? Ngoài tâm không có giới, sao cần cầu giới?

    - Nghe lý này, con thật mê muội, chỉ cầu Đại Sư truyền giới để con trở thành đệ tử của Ngài.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #100
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đại Sư lên tòa, ngồi ngay thẳng, tay cầm bình hương trầm, bảo:

    - Hôm nay truyền năm giới cấm, nếu ông phụng trì được, thì đáp rằng con giữ được. Ngược lại, hãy đáp rằng không giữ được.

    Thần thưa:

    - Con kính cẩn thọ giáo.

    - Ông có thể giữ giới cấm dâm dục được không?

    - Con vẫn còn có vợ.

    - Chẳng phải thế! Ta bảo là không nên tà dâm.

    - Con giữ được.

    - Ông có thể giữ giới cấm ăn cắp được không?

    - Con đâu có thiếu gì, sao lại đi ăn cắp?

    - Không phải vậy! Hưởng thụ mà không tham lam quá độ. Không được cúng, chớ nên gieo họa cho người hiền.

    - Con giữ được.

    - Ông có thể giữ giới cấm giết hại được không?

    - Con đang nhậm chức phán sát, sao không thể giết hại được?

    - Không phải thế! Chẳng nên lạm dụng quyền thế, giết hại người hiền.

    - Con giữ được.

    - Ông có thể giữ giới cấm nói láo được không?

    - Tâm con chất trực, sao lại đi nói láo?

    - Không phải thế! Không nói láo tức lời nói trước sau đều hợp với tâm của trời đất.

    - Con giữ được.

    - Ông có thể giữ giới cấm uống rượu được không?

    - Con giữ được.

    - Trên đây là những giới cấm do Phật chế. Có tâm phụng trì mà vô tâm chấp vật. Có tâm vì vật, mà vô tâm nghĩ tưởng thân. Nếu được như thế, thì lúc trời đất vừa thành lập, chẳng tinh khiết. Lúc trời đất tan hoại thì chẳng già. Biến hóa ngày đêm mà không động. Cứu cánh tịch mặc mà chẳng ngừng nghỉ. Ngộ được như thế, tuy có vợ mà chẳng phải thê thiếp. Tuy hưởng thụ, mà chẳng chấp thủ. Tuy có oai quyền mà chẳng lạm dụng uy thế. Tuy làm mà chẳng tạo. Tuy say rượu mà chẳng hôn mê. Nếu vô tâm nơi muôn vật, tuy nhiều dục mà chẳng dâm; thọ dụng mà không phạm tội ăn cắp; giết người mà không phạm tội sát. Trước sau ngược với trời đất mà không vọng dối. Hôn vọng điên đảo mà chẳng say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì vô giới. Vô giới tức là vô tâm, vô Phật, vô chúng sanh, vô nhân, vô ngã, vậy thì ai là người trì giới?

    - Thần thông của con thật không thể sánh bằng Phật.

    - Trong mười phần thần thông, ông không thể làm được năm phần, còn Phật thì không thể làm ba phần.

    Nghe thế Thần bèn quỳ xuống thưa:

    - Cầu xin Đại Sư kể rõ cho con nghe.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •