Cội Nguồn Truyền Thừa (1)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
Cội Nguồn Truyền Thừa (1)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
chimvacgoidan (04-29-2018),homeless (05-11-2018)
Cội Nguồn Truyền Thừa (1)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
NHỤC THÂN Thiền Sư NGUYỆT KHÊ
Mục Lục
Lời dịch giả
Lời luận tổng quát
Chương I: Cội Nguồn Tryền Thừa
Chương II: Yếu chỉ Thiền Tông
Chương III: Thỉnh Ích (Hỏi Đạo)
Phụ Lục:
1) Nguyệt Khê Pháp Sư Cao Ngọa Xứ Bi Văn
2) Tiểu truyện của Nguyệt Khê Pháp Sư
chimvacgoidan (04-29-2018)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI DỊCH GIẢ__________________________________________________ ______________________________________
Lời dịch giả
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách. Người biên soạn hình như không có tham thiền, đối với Phật pháp cũng chưa được thông thạo, chỉ đem những tác phẩm như THAM THIỀN TU PHÁP, NGUYỆT KHÊ NGỮ LỤC, PHẬT PHÁP VẤN ĐÁP LỤC, ĐẠI THỪA BÁT TÔNG TU PHÁP của Ngài Nguyệt Khê gom lại thành quyển sách này, trong đó lại thêm vào những lời của người giáo môn và ý kiến của tự mình, nghịch với ý chí của Ngài NGUYỆT KHÊ mà chẳng tự biết, mà người biên soạn chỉ biết giữ bản quyền - không cho người khác in lại, đối với văn tự trong sách, do người sắp chữ sắp lộn, có rất nhiều chỗ lời sai chữ trật cũng vẫn để y nguyên mà không dò lại và sử cho kỹ.
Chúng tôi vì muốn giữ đúng ý chí của Ngài NGUYỆT KHÊ mà chẳng di hại cho người đọc nên lược bỏ phần nghịch với ý chí của tác giả và giảm bớt những lời trùng nhau.
NGUYỆT KHÊ Thiền sư đã tịch năm 1965, sách này được in vào năm 1971.
Cuối quyển sách này có một bài đề mục là NGUYỆT KHÊ Pháp Sư Cao Ngọa Xứ Bi Văn (tiểu sử), soạn năm 1971, trong đó không đề cập đến sự viên tịch của Ngài Nguyệt Khê, nên chúng tôi dịch thêm tiểu sử của Ngài do Mục sư Vương Cảnh Khánh soạn. Dù chúng tôi giữ thái độ thận trọng trong việc phiên dịch quyển sách này, nhưng vẫn có thể còn nhiều chỗ sơ sót, xin độc giả hoan hỷ chỉ giáo cho.
chimvacgoidan (04-29-2018)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
LỜI LUẬN TỔNG QUÁT
Thế nào gọi là THIỀN ?
I.- ĐỊNH NGHĨA CỦA THIỀN.
THIỀN NA là tiếng Ấn Độ, xưa dịch TƯ DUY TU, sau dịch TỊNH LỰ, gọi tắt là THIỀN.
Trước đời Phật Thích Ca, có ông PHẤT ĐANG LA (Nirgranto Jnati Putra) đã sáng lập giáo pháp Thiền Na, dùng khổ hạnh để tu luyện. Sau này Phật Thích Ca lập ra sáu thứ Ba La Mật, cái thứ năm cũng gọi là Thiền na. Kỳ thực hai chữ THIỀN NA chỉ là một tên gọi thông thường về phương pháp tu luyện.
Ngôn giáo của Phật Thích Ca bất cứ Đại Thừa, Tiểu Thừa đều lấy TU THIỀN làm chủ yếu. Các phái ngoại đạo mỗi mỗi đều tự lập pháp Thiền của họ. Tên gọi dù đồng nhau, nhưng tính chất nội dung mỗi mỗi chẳng đồng, như MƯỜI HAI TỊNH PHÁP THIỀN của Phất Đang La, Phi Tưởng Phi phi Tưởng Thiền của Bà La Môn đều khác; nói về THIỀN của Phật Giáo như Lục Đồ Thiền của Đại Thừa, Tứ Đế và Thập nhị Nhân Duyên Thiền của Tiểu Thừa đều khác nhau, còn Bất Lập Văn Tự Thiền của Tối thượng thừa, gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”, là do Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Phái Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập văn tự lý luận, nên gọi là Thiền Tông, khác hẳn với các phái Thiền kia.
THIỀN TÔNG ở Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống rất là thịnh vượng, truyền đến ngày nay vẫn còn phổ biến khắp nơi. Cho nên người ta nói đến hai chữ “Tham Thiền" đều chỉ pháp Thiền của Thiền Tông này. Kỳ thật ở trong Phật Giáo, từ Tiểu Thừa cho đến Đại Thừa, các tông các phái mỗi mỗi đều có pháp Thiền riêng biệt, lý lẽ và phương pháp, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực mỗi phái mỗi khác. Xét theo lịch sử kể trên, chúng ta muốn lập ra một định nghĩa chính xác của chữ Thiền thật là rất khó, nhưng quyển sách này chỉ sáng tỏ về pháp Thiền của Tổ Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Do đó chúng ta chỉ có thể dựa theo Tông chỉ của Thiền Tông, giả thiết một định nghĩa cho chữ Thiền.
Theo pháp tu thông thường, đối với khái niệm của chữ Thiền là từ nhân đến quả, tức là từ nhân vị theo thứ lớp tu tập cho đến chứng quả thành Phật, đều là những phương pháp Tiệm tu, nhưng theo khái niệm của Thiền Tông thì chẳng phải vậy, vì đường lối thực hành của Thiền Tông là pháp trực tiếp, ngay đó hiển thị quả Phật. Chư Tổ nói: “Thấy phải thấy ngay, suy nghĩ là sai”. Kỳ thật quả đã được rồi thì nhân cũng đồng thời giải quyết xong, cho nên gọi là Thiền đốn ngộ. Định nghĩa của Thiền Đốn Ngộ là “Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật".
chimvacgoidan (04-29-2018)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
Tại sao phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự? Vì văn tự là một tên gọi giả danh, phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu hiện ra, nên chỉ là một việc gián tiếp, còn bản thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là một sự thực tế rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng thể dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà đến được, vậy cách gián tiếp của ngôn ngữ văn tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả. Nên Phật Thích Ca nói: “Ta thuyết pháp 49 năm, chưa từng thuyết một chữ”, lại nói: “Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết ngón tay chẳng phải mặt trang”. Thế thì ngôn ngữ văn tự là ngón tay để chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng, chỉ là một việc gián tiếp, sự chỉ thị gián tiếp dù cũng là một phương pháp để đạt đến bản thể chơn tâm, nhưng chẳng bằng sự rốt ráo giản dị của chỉ thị trực tiếp, lại sự chỉ thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự) truyền đến đời sau, có người lại nhận lầm cho ngón tay tức là mặt trăng. Do đó pháp Thiền trực tiếp Đốn ngộ của Thiền Tông bèn tùy nhu cầu khắp mọi nơi. Dù nói chẳng lập văn tự, nhưng chẳng phải phế bỏ văn tự, giá trị của văn tự được chư Tổ Thiền Tông chú trọng, cũng như Tổ Đạt Ma dùng kinh Lăng Già đế ấn chứng hậu học.
Thế Tôn ở nơi pháp hội Linh Sơn, đưa lên cành hoa, tất cả đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có Ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có Chánh Pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng, Pháp môn vi diệu. Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”. Từ đó pháp Thiền trực tiếp của Thiền Tông, căn cứ theo việc này lấy Tâm truyền Tâm.
Phương pháp trực tiếp biểu thị Phật tánh này, Phật Thích Ca đã dùng qua nhiều lần, cnũg như Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy Sắc hỏi Ngũ Phương Thiên Vương rằng: “Hạt châu này màu gì?. Khi ấy ngũ Phương Thiên Vương tùy sự thấy của mình đều trả lời màu sắc khác nhau. Thế Tôn dấu hạt châu rồi lại đưa tay hỏi tiếp: “Hạt châu này màu gì?”. Các Thiên Vương nói: “Trong tay Phật chẳng có hạt châu thì đâu còn màu gì!”. Thế Tôn nói: “Các ngươi sao mê muội điên đảo quá? Ta đem hạt châu thế gian cho xem thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, Ta thị hiện hạt châu chơn thật thì chẳng biết gì cả!”. Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương đều tự ngộ đạo.
Lại một hôm khác, ngoại đạo hỏi Thế Tôn: “Không hỏi một lời, không hỏi chẳng lời”. Thế Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán rằng: “Thế Tôn đại từ đại bi, khai phá đám mây mê muội cho con, khiến con được ngộ nhập”, xong đảnh lễ rồi ra đi. Ngài A Nan hỏi Phật: “Ngoại đạo được lý lẽ gì mà tán thán?”.
Thế Tôn nói: “Như con ngựa hay của thế gian, thấy bóng roi liền chạy nhanh”.
Việc dấu hạt châu rồi đưa tay và sự im lặng giây lâu đều là phương pháp trực tiếp chỉ thị bản thể của Chơn tâm chẳng phải chỉ có một việc “Niêm hoa thị chúng” mà thôi!
“Chẳng lập văn tự" chẳng phải tuyệt đối phế bỏ văn tự, nếu Phật Thích Ca phế bỏ văn tự thì Tam tạng kinh điển từ đâu mà ra? Nếu Tổ Đạt Ma tuyệt đối phế bỏ văn tự thì chẳng nên dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học. Thiền Tông nói chẳng lập văn tự, bất quá dùng để sáng tỏ phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp vốn là khác nhau mà thôi.
chimvacgoidan (04-29-2018),hoatihon (04-28-2018)
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
II.- PHÁP THIỀN RA ĐỜI LÀ DO NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI.
Loài người đời Thượng Cổ ngu mê ngoan cố, trí tuệ bị vô minh che khuất, linh tánh bị ngũ uẩn tam độc chi phối, sống trong cuộc sống dã man, nhưng Phật tánh vốn viên mãn, giống như quặng thất bửu ẩn giấu dưới đất, chỉ đợi người khai phá ra. Sau này trí thức mở mang, trước tiên đối với hiện tượng thế giới cảm thấy đủ thứ kỳ lạ và nghi hoặc, rồi sanh tâm tìm cầu bí mật của vũ trụ, hy vọng được giải thích cho rõ ràng, kế đó trở lại tìm hiểu tự tâm, muốn truy cứu nguồn gốc của sự biến hóa chẳng ngừng, sau cùng mới được nhờ sức Trí tuệ Bát Nhã, mong chứng nhập cùng tột rốt ráo của Bản thể tự tánh để vượt ra ngoài sanh tử luân hồi, ấy tức gọi là việc Minh tâm kiến tánh thành Phật vậy.
Ý nghĩa của hai chữ NHƯ LAI là bổn lai như thế, vì Phật tánh và pháp Thiền vốn sẵn đầy đủ, khắp không gian và thời gian, diệu dụng vô biên, nên Phật Thích Ca thường dùng hai chữ NHƯ LAI để đại diện cho bản thể Phật tánh và diệu dụng, nhưng chỉ có người đích thân chứng nhập mới được triệt để thấu rõ ý nghĩa của hai chữ NHƯ LAI và giá trị chơn chánh của pháp thiền.
chimvacgoidan (04-29-2018)
Cội Nguồn Truyền Thừa (2)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
Cội Nguồn Truyền Thừa (3)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
Giả + Giả + 0 = Giả !
Chân + Giả + . = Chân
hoatihon (05-06-2018)
Cội Nguồn Truyền Thừa (4)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
Giả + Giả + 0 = Giả !
Chân + Giả + . = Chân
Cội Nguồn Truyền Thừa (5)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
Giả + Giả + 0 = Giả !
Chân + Giả + . = Chân
Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)