DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 5/9 ĐầuĐầu ... 34567 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 41 tới 50 của 86
  1. #41
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    i)- NGÃ TƯỚNG: Tức ngã chấp; Tiểu thừa khi dã dứt lục căn, tiểu ngã đã diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, tiểu ngã dã diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, lúc ấy tâm lượng rộng lớn, thanh tịnh tịch diệt, hình như đầy khắp vũ trụ. Nhà triết học Hy Lạp nói “Đại ngã”, “Thượng đế”, Lão Tử: “Nhấp nhoáng trong đó có tượng, nhấp nhoáng trong đó có vật; sâu xa mịt mù, trong đó có tinh” đều thuộc cảnh giới NGÃ TƯỚNG.

    ii)- NHƠN TƯỚNG: Tức pháp chấp, khởi niệm sau để phá niệm trước, ví như niệm trước có ngã, niệm sau chẳng nhận ngã, rồi lại khởi một niệm nữa để phá cái niệm “chẳng nhận là ngã”, nối liền như thế cho đến vô ngã, nhưng kiến giải “phá” vẫn còn, ấy là nhơn tướng. Trang Tử nói: “Ta nay mất ngã” tức là NHƠN TƯỚNG.

    iii)- CHÚNG SANH TƯỚNG: Cũng là pháp chấp, cảnh giới này ngã tướng, nhơn tướng chẳng thể đến, tức là chúng sanh tướng. Nhà nho nói: “Mừng, giận, buồn, vui khi chưa phát gọi là Trung”. Thư Kinh nói: “Duy tinh duy nhất, nên chấp nơi Trung, chữ TRUNG này tức chúng sanh tướng.

    iv)- THỌ GIẢ TƯỚNG: Tức Không chấp, tất cả tư tưởng đều đã ngưng nghỉ, tất cả thị phi thiện, ác đều đã quên mất, trong đó trống rỗng chẳng có chi cả, đồng như mạng căn. Lục Tổ gọi là Vô ký không, Nhị thừa nhận lầm cho là cảnh giới Niết Bàn, kỳ thật chính là vô thỉ vô minh, Thiền Tông gọi là hầm sâu vô minh, “hầm sâu đen tối mịt mù”, đạo Giáo nói: “Vô cực” tức là cảnh giới này.

    Bốn tướng kể trên đều thuộc pháp hữu vi, đều chẳng cứu cánh, nên Kinh Viên Giác nói: “Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ bốn tướng, dù khổ hạnh tu tập trải qua nhiều kiếp, chỉ gọi là hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất cả Thánh quả. Kinh Kim Cang nói: “Có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng ắt chẳng phải Bồ Tát" là chỉ rõ bốn thứ cảnh giới này đều chẳng phải chánh pháp. Người trí kém thường nói: “Tam giáo cùng nguồn”, nếu được rõ tính nghĩa bốn tướng này thì biết tam giáo cách nhau như trời với đất.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  2. #42
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    Vì phạm bốn bệnh bèn lầm nhận Kiến, Văn, Giác, Tri là Phật tánh:

    Huệ Trung Quốc Sư hỏi một Thiền giả từ đâu đến. Đáp: từ miền Nam đến. Sư hỏi: “Miền Nam có Thiện tri thức nào?”. Đáp: “Trí thức rất nhiều". Sư hỏi: “Làm sao dạy người?”. Đáp: “Trí thức miền Nam khai thị người học: Tức Tâm là Phật, nghĩa Phật là Giác, nay ngươi sẵn đủ tánh kiến, văn, giác, tri, tánh này nhướng mày nháy mắt, vận dụng khứ lai khắp trong cơ thể, búng đầu đầu biết, búng chân chân biết, nên gọi Chánh biến tri, ngoài ra chẳng có Phật khác; thân này có sanh diệt, tâm tánh từ vô thỉ đến nay chưa từng sanh diệt, thân sanh diệt như con rắn lột da, người ra nhà cũ, thân là vô thường, tánh thì thường. Sở thuyết của miền Nam đại khái như thế". Sư nói: “Nếu vậy thì chẳng khác với bọn Ngoại đạo Tiên ni, họ nói: “Trong thân này có một thần tánh, tánh này hay biết đau ngứa, khi thân hoại thì thần ra đi, như nhà bị cháy chủ nhà ra đi, nhà là vô thưòng, chủ nhà là thường”. Nếu nói như thế thì chẳng phân biệt được tà chánh, lấy gì là đúng! Trước kia ta đi du phương gặp nhiều bọn này, tụ chúng năm ba trăm, mắt ngó mây trời, nói là Tông chỉ miền Nam, tự sửa đổi Kinh Pháp Bảo Đàn, lược bỏ Thánh ý, thêm vào lời tục để mê hoặc cho hậu học, đâu còn ngôn giáo! Khổ thay! Mất cả Tông ta! nếu cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh thì Duy Ma Cật chẳng nên nói: “Pháp lìa kiến, văn, giác, tri, nếu hành kiến, văn, giác, tri, ấy là kiến, văn, giác, tri, chẳng phải cầu pháp vậy”.

    Huỳnh Bá truyền tâm pháp yếu nói: “Cái tâm bổn nguyên thanh tịnh này thường tự sáng tròn chiếu khắp, người đời chẳng ngộ, chỉ nhận kiến, văn, giác, tri là tâm, bị kiến, văn, giác, tri che khuất nên chẳng thấy bản thể tinh minh. Hể ngay đó vô tâm thì bản thể tự hiện như mặt trời trên hư không, chiếu khắp mười phương chẳng có chướng ngại. Người học đạo nên ở nơi kiến, văn, giác, tri nhận bản tâm, nhưng bản tâm chẳng thuộc kiến, văn, giác, tri cũng chẳng lìa kiến, văn, giác, tri chớ nên ở nơi kiến, văn, giác, tri sanh khởi kiến giải, chớ nên ở nơi kiến, văn, giác, tri động niệm, cũng chớ lìa kiến, văn, giác, tri tìm tâm, cũng chớ bỏ kiến, văn, giác, tri cầu pháp, chẳng tức chẳng lìa, chẳng trụ, chẳng chấp, tung hoành tự tại, nơi nào chẳng phải đạo tràng!”.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  3. #43
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    8.- LỤC TỔ VỚI THẦN TÚ.

    Thần Tú nói: “Thân là cây bồ đề, Tâm như đài gương sáng, luôn luôn siêng lau chùi, chớ cho dính bụi trần”. Kiến, văn, giác, tri, dụ cho gương sáng, vọng niệm như bụi dính gương, siêng lau chùi, dụ cho dứt sạch vọng việm, chớ cho dính bụi là dụ chẳng cho vọng niệm sanh khởi.

    Thật ra kiến, văn, giác, tri vốn hay khởi vọng niệm, là chẳng thể dứt sạch được, ví như nguồn suối ngày đêm chảy nước ra, dứt rồi lại chảy nữa vĩnh viễn dứt không được. Cho nên người nhận kiến, văn, giác, tri là Phật tánh vốn là sai lầm, tu hành vô ích.

    Lục Tổ nói: “Bồ đề chẳng cây, gương sáng cũng chẳng đài, vốn là chẳng một vật, nơi nào dính bụi trần”. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh, nên kệ này hiển thị Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thọ huân nhiễm, bổn lai thành Phật, là đứng trên quả vị Chơn Như mà nói: “Vốn chẳng một vật” là chỉ thẳng Phật tánh vốn chẳng khởi vọng niệm, nên biết vọng niệm là kiến, văn, giác, tri chẳng khởi vọng niệm là Phật tánh. Nếu Phật tánh với kiến, văn, giác, tri chẳng phân biệt rõ ràng thì dụng công học phắt phải sai lầm.

    Thần Tú cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh, nhưng sai lầm ấy chẳng phải chỉ một mình Thần Tú, sai lầm ấy truyền nhau từ đời Lục triều, là chịu sự ảnh hưởng của học thuyết Lão Tử nói: “Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật, vạn vật cõng âm mà ôm dương, từ âm dương của vạn vật trở về ba, hai, một rồi tới đạo”. Bên ngoài thì nói danh từ của Phật pháp, bên trong là lý đạo của Lão Tử truyền nhau đến đời này, chẳng biết lầm hại cho bao nhiêu nhà học Phật với những cao Tăng thông minh, thật đáng thương xót!.

    Phàm dụng công tu hành, cần nhất là phá vô thỉ vô minh, Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phá vô minh đen tối”. Kinh Viên Giác nói: “Vô thỉ huyễn vô minh". Kinh Thắng Mạn nói: “Đoạn vô thỉ vô minh". Kinh Lăng Nghiêm nói: “Pháp trần u nhàn”, Tổ Sư Thiền Tông gọi là Vô ký không, hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn đen, đầu sào trăm thước, hang quỉ núi đen, giáo môn gọi là nguyên phẩm vô minh, căn bản vô minh, bạch tịnh thức ... Các Kinh Lăng Già, Niết Bàn và lịch sử Thiền Tông như Chỉ Nguyệt Lục, Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, trong đó nói về dụng công phá vô thỉ vô minh rất nhiều, chưa thể kể hết.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  4. #44
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    9.- THAM THIỀN LẦM NHẬN HẦM SÂU VÔ MINH LÀ PHẬT TÁNH NHƯ THÁI CỰC ĐỒ THUYẾT CỦA CHÂU LIÊM KHÊ.

    Châu Liêm Khê là Tổ sáng lập lý học của nhà Nho đời Tống, soạn Thái Cực Đồ thuyết, cho Đạo là trước vô hậu hữu làm căn bản, phối hợp với lý âm dương ngũ hành để thuyết minh thế hệ của vũ trụ vạn vật trở đi trở lại, tuần hoàn hóa sanh mãi mãi. Cái nghĩa “Vô cực thái cực” với học thuyết “Vô danh là bắt đầu của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” và “Vô vi mà vô bất vi” của Lão Tử đồng một ý chỉ. Nhà Nho vốn chỉ nói Thái cực, hai chữ “Vô cực” là học thuyết của đạo Giáo, Lão Tử Tri Hùng Chương nói: “Trở về vô cực”, Trang Tử Đại Tông Sư Thiên nói: “Yểu đào vô cực”, Khắc Ý Thiên: “Đạm nhiên vô cực”, Tại Hựu Thiên: “Dạo nơi đồng vô cực”, trong Đạo Tạng có Thái Cực Tiên Thiên Đồ, tác giả là Trần Đồ Nam, người đạo Giáo, ấy là một sản phẩm hỗn hợp với Nho và Đạo. Châu Liêm Khê từng theo học với Thích Thọ Nhai ở Hạc Lâm Tự, được bản Thái Cực Tiên Thiên Đồ, rồi sửa lại theo ý mình để kiến lập thế hệ Lý học.

    Theo quan điểm của nhà Phật, vô cực tức là vô thỉ vô minh, thái cực tức là nhất niệm vô minh. Tại sao ? Vô cực vốn vô mà sanh ra hữu, nhất niệm đã sanh tức là thái cực, niệm có động tịnh thì phân thành âm dương, âm dương phân thì lưỡng nghi lập, biến hợp mà sanh ngũ hành. Tinh diệu của lưỡng nghi hợp nhau mà có Càn nam, Khôn nữ, nhị khí (âm dương), ngũ hành hóa sanh vạn vật, rồi vạn vật trở về nơi ngũ hành, ngũ hành trở về âm dưong, âm dương trở về nơi thái cực, một lên một xuống, trở đi trở lại tức là pháp luân hồi sanh diệt, bắt đầu khởi từ vô minh, cuối cùng cũng trở lại nhập nơi vô minh, giống như Thập nhị nhân duyên của thừa Duyên Giác. Theo Thập nhị nhân duyên chỉ nói về tác dụng luân hồi của vô thỉ vô minh, với nhất niệm vô minh, nói cách khác tức là tác dụng của bộ não suy nghĩ, chẳng thể thuyết minh tác dụng của Phật, tánh, Phật tánh siêu việt luân hồi sanh diệt, vô nhân vô duyên, chẳng động chẳng tịnh, bổn lai vô sanh nên vô diệt, bổn lai chẳng hữu nên chẳng vô, sự hữu vô sanh diệt là do tác dụng tương đối của bộ não, chẳng dính đáng với bản thể chơn như.

    Thái Cực Đồ Thuyết nói vô cực sanh thái cực, thái cực lại sanh âm dương vạn vật, vì có sanh nên có diệt, có sanh diệt tức là luân hồi, có luân hồi thì chẳng phải tuyệt đối. Nên biết lý vô cực, thái cực là do kiến, văn, giác, tri quán xét hiện tượng biến hóa của vũ trụ mà kiến lập giả thiết, phàm chỗ quán xét có thể đến là quyết định chẳng phải bản thể tuyệt đối. Bản thể chơn như tuyệt đối là “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, chẳng thể dùng suy nghĩ đo lường, cũng chẳng thể dùng ngôn ngữ tỏ bày, chỉ có người trực tiếp chứng nhập mới biết được. Kẻ được chứng nhập thì chẳng còn sanh tử luân hồi, nên gọi Kiến Tánh thành Phật, sau khi thành Phật thì chẳng biến lại chúng sanh, chẳng chịu lại luân hồi, mà thái cực thì luân hồi chẳng dừng.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  5. #45
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    10.- THAM THIỀN NHẬN LẦM HỌC THUYẾT CỦA VƯƠNG DƯƠNG MINH LÀ THIỀN TÔNG.

    Có người cho học thuyết Dương Minh là Phật pháp, thật là lỗi lầm lớn. Học thuyết Dương Minh có bốn lời để làm cương yếu, tức ‘không thiện không ác là thể của tâm, có thiện có ác là động của ý, biết thiện biết ác là lương tri, làm thiện bỏ ác là cách vật (đủ tư cách làm người)”. Bốn lời này tức là vô thỉ vô minh với tác dụng của nhất niệm vô minh, so với thể dụng của Phật tánh còn xa lắm. Học thuyết Dương Minh chưa thể vượt ra phạm vi vô minh, vẫn còn ở trong luân hồi, cái bệnh ấy là do dùng bộ não suy xét đo lường, bộ não vốn huyễn hóa chẳng thật, chẳng phải thể dụng chơn thật cùng tột.

    Chơn như Phật tánh chẳng phải suy nghĩ đo lường có thể đến, chẳng thọ huân nhiễm, chẳng có biến đổi, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết nhau được. Nhà Phật lấy chơn như Phật tánh làm cội nguồn, mà nhà Nho thì lấy vô thỉ vô minh làm cội nguồn, vì cội nguồn chẳng đồng nên chẳng thể đến với nhau. Nhiều người chưa rõ sự khác biệt giữa Phật tánh với vô thỉ vô minh, lại lầm nhận vô thỉ vô minh là Phật tánh, nói Nho, Phật cùng nguồn, ấy là một sự lỗi lầm rất lớn. Hoặc cho “chẳng thiện chẳng ác thể của tâm” tức chơn như Phật tánh của nhà Phật, “có thiện có ác động của ý” tức vô minh phiền não của nhà Phật, ấy là sai. “Chẳng thiện chẳng ác thể của tâm” tức (vô thỉ vô minh), “có thiện có ác động của ý” tức nhất niệm vô minh, “biết thiện biết ác là lương tri” tức kiến, văn, giác, tri, “làm thiện bỏ ác là cách vật” tức là “Tác bệnh” trong bốn thứ Thiền bệnh, đều là linh tánh của bộ não, chẳng dính dánh với Phật tánh.

    Vô thỉ vô minh bổn lai ám muội chẳng sáng, vô tri vô giác nên chẳng phân thiện ác, khi bị kích thích sanh khởi nhất niệm vô minh, mới có kiến, văn, giác, tri, phân biệt thiện, ác, tốt, xấu, người có ý thức đều biết thiện biết ác, “Lương tri” của Dương Minh là tác dụng của bộ não, tác dụng của bộ não đều lấy vô minh làm chủ, chẳng phải Phật tánh. Nhất niệm vô minh có hai mặt: tịnh và nhiễm. Thiện là tịnh duyên, ác là nhiễm duyên, chẳng thể cho tịnh duyên là Phật tánh, nhiễm duyên là chúng sanh vậy.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  6. #46
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts


    Cội Nguồn Truyền Thừa (5)

    PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG


    Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực






    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  7. #47
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    11.- THAM THIỀN NHẬN LẦM PHỤC TÁNH THƯ CỦA LÝ CAO LÀ THIỀN TÔNG.

    Người đề xướng đạo học nhà Nho Hàn Dũ, Lý Cao đời Đường là nổi bật nhất, Phục Tánh Thư của Lý Cao đối với học giả nhà Nho ảnh hưởng lớn hơn. Lý Cao cho “Tánh vốn trong sáng, vì bị thất tình mê hoặc mà trở thành hôn trược”, nên chủ trương ức chế tình cảm để khôi phục bản tánh.

    Phục Tánh Thư nói: “Con người sở dĩ làm bậc Thánh là do tánh, tánh con người sở dĩ bị mê hoặc là do tình mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham, bảy thứ đều do tình làm ra, tình đã hôn muội thì tánh bị chìm đắm, ấy chẳng phải lỗi của tánh. Thất tình thay phiên tuần hoàn thì tánh chẳng toàn vẹn, như nước có cặn bả thì chẳng trong, lửa có khói đen thì sáng chẳng tỏ, ấy chẳng phải lỗi của nước và lửa không trong sáng, cặn bả chẳng có thì nước trong, khói đen chẳng tỏa thì ánh sáng tỏ, thất tình chẳng làm thì tánh toàn vẹn vậy”. Lại nói: “Tánh với tình chẳng lìa nhau, nếu chẳng có tánh thì tình chẳng thể sanh, vậy tình do tánh mà sanh, tình chẳng tự là tình, bởi tánh mà tình, tánh chẳng tự là tánh, do tình mà tánh”.

    Lý Cao từng tham học với Dược Sơn Thiền Sư, rất tin Phật pháp, kỳ thật Lý Cao bị lầm hại là do Kinh Phật ngụy bởi câu “Bản tâm viên giác trong sạch sáng tỏ (Phật tánh) hay sanh khởi phiền não", cái thuyết “Chơn như duyên khởi” xuất xứ từ Đại Thừa Khởi Tín Luận. Thật ra tác giả của Đại Thừa Khởi Tín Luận là Ngoại đạo, mạo tên Ngài Mã Minh để truyền bá, ấy là pháp sanh diệt, chẳng phải Phật pháp. Tại sao nói vậy? Vì chơn như Phật tánh chẳng thọ huân nhiễm, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi. Phẩm Hồi Hướng Kinh Hoa Nghiêm nói: “Vô minh vốn chẳng thể tánh, như hoa đốm trên không chẳng từ chơn như sanh khởi”, nếu nói vô minh nương chơn như sanh khởi, trừ bỏ vô minh trở về chơn như Phật tánh tức là Kiến tánh thành Phật, nói vậy thì ban sơ có thể sanh khởi, tương lai cũng có thể tái khởi, lúc vô minh tái khởi lại trở thành chúng sanh, lúc thì thành Phật, lúc lại thành chúng sanh, thế thì Phật cũng có luân hồi sanh diệt, thành Phật đâu có giá trị gì?

    Thuyết của Lý Cao tình với tánh thông nhau, khi tình chẳng sanh là tánh, là bậc Thánh, đến khi tình sanh, lại là phàm phu, vậy một hồi bậc Thánh một hồi phàm phu, tức là luân hồi sanh diệt. Bởi “Tánh” của Lý Cao nói là vô thỉ vô minh, “Tình” là nhất niệm vô minh, chỉ là tác dụng của bộ não. Bộ não khi tịnh là vô thỉ vô minh, bộ não khi động là nhất niệm vô minh, cùng trong một phạm vi, “ức chế tình, khôi phục tánh” là muốn khiến nhất niệm vô minh trở về vô thỉ vô minh, vô thỉ vô minh chính là nguồn gốc của sanh tử, là bản thể của vọng tâm. Nếu vô thỉ vô minh chưa phá tan thì chẳng thể Kiến Tánh thành Phật, như thế học thuyết của Lý Cao đâu thể cho là Thiền Tông!

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  8. #48
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    12.- THAM THIỀN NHẬN LÝ “SÂU XA MỊT MÙ, TRONG ĐÓ CÓ TINH” CỦA LÃO TỬ LÀ THIỀN TÔNG.

    Nhiều người cho rằng : chơn không diệu hữu, diệu hữu chơn không, tĩnh tĩnh tịch tịch, tịch tịch tĩnh tĩnh, chẳng chấp hữu chẳng chấp vô, cũng chẳng chấp phi hữu, cũng chẳng chấp phi vô, chẳng khởi niệm cũng chẳng dứt niệm, tựa như hữu mà phi hữu, tựa như vô mà phi vô, khởi niệm động niệm chẳng bị ngoại duyên xoay chuyển, cho đó là đạo lý của Thiền Tông. Kỳ thật là đạo lý của Lão Tử nói: “Thể của Đạo mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có tượng, mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có vật, sâu xa mịt mù, trong đó có tinh”, còn “chẳng chấp hữu, chẳng chấp vô, chẳng chấp phi hữu, chẳng chấp phi vô”, là đạo lý của Bà La Môn, hoàn toàn là tác dụng của bộ não, có sanh diệt luân hồi, chẳng phải phương pháp tham thiền.

    13.- THAM THIỀN NHẬN LẦM BA THỨ PHÁP MÔN DỤNG CÔNG CỦA GIÁO MÔN LÀ THIỀN TÔNG.

    Ba thứ pháp môn của giáo môn tức là Thiền quán Sa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na. Sa Ma Tha dịch là tịch tịnh, Tam Ma Bát Đề dịch là nhiếp niệm, Thiền Na dịch là tịnh lự. Ba thứ thiền quán này ở trong Kinh Viên Giác, Phật đã có giải thích rất kỹ càng, dù trong Kinh Viên Giác có nói: “Ba pháp môn này mười phương Như Lai do đó thành Phật, mười phương Bồ Tát đủ thứ phương tiện, tất cả đồng dị, đều nương theo ba thứ sự nghiệp này, nếu được viên chứng tức thành Viên giác”, ấy chỉ là nói cách tu trong phạm vi giáo môn, nên chính trong Kinh này có nói: “Chỉ trừ người đốn ngộ, và Xiển đề chẳng tin”, nói chỉ trừ người đốn ngộ tức là chỉ trừ Thiền Tông đốn ngộ, chẳng phải giáo môn, nên xưng giáo ngoại biệt truyền.

    Phương pháp dụng công của Đại thừa tên gọi rất nhiều mà ý nghĩa chẳng khác, nhưng đều chẳng phải Thiền Tông. Thiền Tông tham thoại đầu, công án, cần nhất là NGHI TÌNH. (Tức là dùng cái tâm không biết để chấm dứt tất cả biết), cho đến hoát nhiên đốn ngộ, dứt hẳn nghi căn, kiến tánh thành Phật. Khi đã minh tâm kiến tánh, nếu có Thiện tri thức mắt sáng thì tìm đến cầu Thiện tri thức ấy ấn chứng, nếu chẳng có người mắt sáng thì lấy Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục hoặc các Kinh như Lăng Già, Hoa Nghiêm, Duy Ma Cật v.v... xem kỹ để làm ấn chứng cũng được.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  9. #49
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    14.- DỤNG CÔNG LẦM NHẬN TAM CHỈ TAM QUÁN LÀ THIỀN TÔNG.

    Vân Cốc Thiền Sư Truyện trong Mộng Du Tập của Ngài Hàm Sơn có nói: “Vân Cốc Thiền Sư 19 tuổi bỗng quyết chí đi tham học bốn phương, nghe nói pháp môn Tiểu chỉ quán của Thiên Thai, bèn chuyên tâm tu tập, khi gặp Pháp Châu Tế Thiền Sư đang nhập thất tại Thiên Ninh, Sư bèn đi tham vấn, trình sở tu của mình. Châu nói: “Pháp yếu của Chỉ quán chẳng nương thân tâm hơi thở, trong ngoài đều bặt, cách tu của người là lạc nơi hạ thừa, chẳng đúng ý của Tổ Đạt Ma, người học đạo nên lấy tâm ngộ làm chủ”. Vân Cốc kích động chảy nước mắt, lại xin chỉ giáo, Châu dạy tham thoại đầu chơn thật, bảo ngay bây giờ hạ thủ công phu phát khởi nghi tình. Vân Cốc vâng lời ngày đêm tham cứu, cho đến ăn ngủ đều quên, một hôm dùng cơm, cơm hết cũng chẳng tự biết, chén bỗng rơi xuống đất, hoát nhiên đốn ngộ như trong mộng được thức tỉnh, lại thưa với Pháp Châu, được Ngài ấn khả “Xem qua nhân duyên ngộ đạo của Vân Cốc Thiền Sư, có thể làm mô phạm cho chúng ta dụng công tham thiền”.

    Có Tăng hỏi Tử Hồ Thiền Sư thế nào là "Nhất Tâm Tam Quán"? Sư nói: “Ta còn chẳng thấy có nhất tâm, ngươi gọi cái gì là tam quán?”.

    Xưa kia có một Pháp sư chỉ quán hỏi Huệ Hải Thiền Sư Nhất Niệm Tam Quán là nghĩa thế nào. Sư đáp: “Tâm quá khứ đã qua, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng trụ, trong đó lại dùng tâm nào để khởi quán?” Pháp Sư đáp: “Thiền Sư chẳng hiểu chỉ quán”. Sư nói: “Tọa chủ hiểu chăng?”. Pháp Sư nói: “hiểu”. Sư nói: “Như Trí Giả Đại Sư nói chỉ phá chỉ, nói quán phá quán, trụ chỉ thì chìm nơi sanh tử, trụ quán thì tâm rối loạn. Vậy nên lấy tâm chỉ tâm hay là khởi tâm để quán quán? Nếu có tâm quán là pháp thường kiến, nếu chẳng tâm quán là pháp đoạn kiến, nếu cũng có cũng không thì thành pháp nhị kiến, xin Tọa chủ nói kỹ xem!”. Pháp Sư nói: “Nếu hỏi như thế thì đều nói chẳng được". Sư nói: “Vậy đâu từng chỉ quán!”.

    15.- CHẤP THẬT “PHÂN BIỆT LÀ THỨC, CHẲNG PHÂN BIỆT LÀ TRÍ” THÀNH BỆNH:

    Hám Sơn Đại Sư nói: “Phân biệt là Thức, chẳng phân biệt là Trí”, hai câu này hình như mơ hồ, vì Thức với Trí một là bộ não, một là Phật tánh, lúc chưa chuyển Thức thành Trí, thì phân biệt tất nhiên là Thức, chẳng phân biệt cũng là Thức; khi đã chuyển Thức thành Trí thì chẳng phân biệt là Trí, phân biệt cũng là Trí. Phân biệt với chẳng phân biệt không thể dùng để phán đoán Thánh hay Phàm.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  10. #50
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    16.- CHẤP THẬT “NHIỄM VỚI TỊNH” THÀNH BỆNH.

    Nhiễm với tịnh là pháp tương đối, vì có nhiễm mới có tịnh, Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Sanh diệt là Thức, chẳng sanh diệt là Trí, lại nữa đọa tướng, vô tướng và hữu vô mỗi mỗi làm nhân với nhau là Thức, siêu việt tướng hữu vô là Trí. Lại nữa, tướng vô ngại là Trí, đủ thứ cảnh giới do tướng ngại Trí là Thức. Lại nữa, ba việc căn trần thức hòa hợp sanh tướng phương tiện là Thức, chẳng có việc phương tiện của tướng tự tánh là Trí. Lại nữa, đắc tướng là Thức, chẳng đắc tướng là Trí”.

    Theo lời Kinh kể trên thì được rõ, vừa nói có tịnh thì phải có nhiễm, đồng như sự sanh diệt, vì có sanh mới nói có diệt, nhiễm tịnh sanh diệt, đều là tác dụng của kiến, văn, giác, tri. Có một số người cho “chẳng khởi niệm là tịnh, tức là Phật tánh, khởi niệm là nhiễm, tức là vọng tưởng” thế là sai lầm. Chẳng khởi niệm là tịnh duyên của vô thỉ vô minh, chẳng phải Phật tánh, Phật tánh bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, ấy là tuyệt đối, chẳng dính dáng với nhiễm tịnh. Hám Sơn Đại Sư nói “Nhiễm là thức, tịnh là trí” ấy là lầm nhận. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: ‘Tịnh chẳng hình tướng mà lại lập tướng tịnh, nói là công phu, có kiến giải này tự chướng bản tánh, lại bị tịnh trói”.

    Tăng hỏi Huệ Trung Quốc Sư “Tọa Thiền khán tịnh là thế nào?”. Sư nói: “Bất cấu bất tịnh đâu cần khởi tâm mà khán tướng tịnh!”.

    17.- CHẤP THẬT “NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG LÀ PHẬT TÁNH” THÀNH BỆNH.

    Nói “Như như bất động” là hình dung từ để diễn tả chơn như Phật tánh. Ý nói chơn như Phật tánh vốn sẵn sàng, chẳng có thêm bớt, cũng chẳng động tịnh, thêm bớt động tịnh là tác dụng của bộ não, chẳng dính dáng với Bản thể chơn như.

    Có một số người tu hành, suốt ngày ngồi không như cây khô, miễn cưỡng đè nén suy nghĩ cho dừng lại, giống như nước biển sóng lặng, cho làm như thế tức là như như bất động của Phật tánh, ấy là sai lầm lớn. Sự suy nghĩ của con người chẳng thể dừng nghĩ mãi mãi, muốn vĩnh viễn dừng nghĩ chỉ có người chết mới làm được. Nếu người sống miễn cưỡng đè nén suy nghĩ, chỉ có thể dừng lại trong vòng mấy mươi phút hoặc mấy tiếng, nhiều nữa là mấy ngày, cuối cùng sẽ có một hôm tái khởi. Nếu cùng trong một ngày khi suy nghĩ dừng là Phật, qua một hồi suy nghĩ khởi dậy lại thành chúng sanh, vậy trong một ngày bỗng thành Phật bỗng thành chúng sanh, mỗi ngày đều ở trong luân hồi, như thế làm Phật có ích lợi gì? Nếu người thật đã "Minh tâm kiến tánh" thì dẫu cho cầm dao ra trận vẫn là như như bất động.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Nguỵên cầu
    Gửi bởi Mây trắng trong mục Thơ văn liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 10-31-2015, 08:49 AM
  2. Nhớ và Nguỵên
    Gửi bởi Nguyên Chiếu trong mục Thơ văn liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-27-2015, 03:16 PM
  3. Suối Nguồn Từ Bi
    Gửi bởi lamebay trong mục Âm nhạc Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 07-24-2015, 09:13 PM
  4. Truyện tiền thân đức Phật Thích Ca
    Gửi bởi ongmat trong mục Gương sáng tu học Phật pháp
    Trả lời: 4
    Bài cuối: 07-14-2015, 03:08 PM
  5. Cội nguồn của Mật Tông
    Gửi bởi cát bụi trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 11
    Bài cuối: 05-29-2015, 10:53 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •