Bài 98.
THIỀN SƯ HOÀI HẢI 懷海 NÚI BÁ TRƯỢNG 百丈.
(tiếp theo 2)
Tăng hỏi:
- Như hiện nay thọ trì giới, thân khẩu thanh tịnh rồi, đầy đủ các pháp thiện, được giải thoát không?
Đáp:
- Giải thoát ít phần, chưa được giải thoát tâm, chưa được giải thoát tất cả.
Hỏi:
- Thế nào là giải thoát tâm?
Đáp:
- Chẳng cầu Phật, chẳng cầu tri giải, thôi hết tình cảm dơ sạch cũng chẳng chấp đó là vô cầu. Đó cũng là chẳng trụ chỗ thôi hết, cũng chẳng sợ mắc Địa ngục, chẳng ham cái vui Thiên đường, chẳng vướng tất cả pháp mới gọi là giải thoát, vô ngại ngay thân tâm và tất cả gọi là giải thoát.
Bất cầu Phật bất cầu tri giải, cấu tịnh tình tận diệc bất thủ thử vô cầu vi. Thị diệc bất trụ tận xứ, diệc bất úy Địa ngục phọc, bất ái Thiên đường lạc, nhất thiết pháp bất câu, thuỷ danh vi giải thoát vô ngại, tức thân tâm cập nhất thiết giai danh giải thoát.
不求佛不求知解, 垢淨情盡亦不守此無求為. 是亦不住盡處, 亦不畏地獄縛, 不愛天堂樂, 一切法不拘, 始名為解脫無礙, 即身心及一切皆名解脫.
- Ông đừng nói có ít phần giữ giới và làm vài việc thiện, tưởng là được rồi, hãy còn có hằng sa pháp môn giới định tuệ vô lậu mà ông đều chưa hề trải qua một chút nào.
Nhữ mạc ngôn hữu thiểu phân giới thiện tương vi tiện liễu, hữu hà sa vô lậu giới định tuệ môn, đô vị thiệp nhất hào tại.
汝莫言有少分戒善將為便了, 有河沙無漏戒定慧門, 都未涉一毫在.
- Hãy nỗ lực dũng mãnh thực hiện sớm vậy, chớ đợi tai điếc mắt mờ, đầu bạc mặt nhăn, già khổ đến thân, nước mắt lưng tròng, trong lòng hốt hoảng vì chưa có chỗ đi, đến lúc ấy muốn điều chỉnh tay chân nào được đâu.
Dẫu có phước đức, trí thức, đa văn đều không cứu nhau được vì mắt tâm chưa mở (đèn lòng chưa sáng).
Nỗ lực mãnh tác tảo dữ, mạc đãi nhĩ lung nhãn ám đầu bạch diện trứu, lão khổ cập thân nhãn trung lưu lệ tâm trung chương hoàng vị hữu khứ xứ, đáo nhẫm ma thời chỉnh lí cước thủ bất đắc dã. Túng hữu phúc trí đa văn đô bất, tướng cứu vi tâm nhãn vị khai.
努力猛作早與, 莫待耳聾眼暗頭白面皺, 老苦及身眼中流淚心中慞惶未有去處, 到恁麼時整理脚手不得也. 縱有福智多聞都不相救為心眼未開.
- Chỉ có niệm duyên theo các cảnh mà không biết phản chiếu và không thấy Phật đạo. Các nghiệp thiện ác tạo một đời mình đều hiện ra trước mắt, hoặc hân hoan hoặc sợ hãi, thấy đầy đủ lục đạo ngũ uẩn trước mặt rất đẹp, nhà cửa ghe thuyền xe cộ sáng chói rực rỡ, tạo ra từ tâm tham ái. Cảnh thấy (sở kiến) đều biến làm cảnh đẹp, tùy theo cảnh thấy nào nặng phần tham ái mà thọ sanh, đều không có phần tự do, rồng súc sanh sang hèn cũng đều chưa quyết định được.
Duy duyên niệm chư cảnh bất tri phản chiếu, phục bất kiến Phật đạo. Nhất sinh sở hữu ác nghiệp tất hiện ư tiền, hoặc hân hoặc bố, lục đạo ngũ uẩn hiện tiền tận kiến, nghiêm hảo xá trạch chu thuyền xa dư quang minh hiển hách, vi túng tự tâm tham ái. Sở kiến tất biến vi hảo cảnh, tùy sở kiến trùng xứ thụ sinh, đô vô tự do phân, long súc lương tiện diệc tổng vị định.
唯緣念諸境不知返照, 復不見佛道. 一生所有惡業悉現於前, 或忻或怖, 六道五蘊現前盡見, 嚴好舍宅舟船車輿光明顯赫, 為縱自心貪愛. 所見悉變為好境, 隨所見重處受生, 都無自由分, 龍畜良賤亦總未定.
Hỏi:
- Thế nào được tự do?
Đáp:
- Như hiện nay đối với ngũ dục bát phong, không có cái tình lấy bỏ, cấu tịnh đều mất như vầng nhật nguyệt trên không chiếu soi không duyên cớ. Tâm như gỗ đá, giống như con hương tượng rẽ dòng nước qua sông hoàn toàn không ngừng trệ, người đó Thiên đường Địa ngục không thể bắt giữ.
Như kim đối ngũ dục bát phong tình vô thủ xả, cấu tịnh câu vong, như nhật nguyệt tại không, bất duyên nhi chiếu. Tâm như mộc thạch, diệc như hương tượng tiệt lưu nhi quá canh vô nghi trệ, thử nhân Thiên đường Địa ngục sở bất năng nhiếp dã.
答如今對五欲八風情無取捨, 垢淨俱亡, 如日月在空, 不緣而照. 心如木石, 亦如香象截流而過更無疑滯, 此人天堂地獄所不能攝也.
- Có phải đọc kinh xem giáo nói năng suông đâu, mà phải uyển chuyển quy về chính mình, nhưng tất cả ngôn giáo nhằm soi sáng tánh giác chính mình ngay bây giờ, tánh giác mình đều không bị tất cả các pháp cảnh hữu vô chuyển dời đó là Đạo sư.
Hựu bất độc kinh khán giáo ngữ ngôn, giai tu uyển chuyển quy tựu tự kỉ, đãn thị nhất thiết ngôn giáo, chỉ minh như kim giác tính tự kỉ, câu bất bí nhất thiết hữu vô chư pháp cảnh chuyển thị Đạo sư.
又不讀經看教語言, 皆須宛轉歸就自己, 但是一切言教, 只明如今覺性自己, 俱不被一切有無諸法境轉是導師.
- Hay chiếu phá tất cả cảnh pháp hữu vô, đó là kim cang, mới có phần độc lập tự do. Nếu không được như thế, dù tụng được 12 bộ Kinh, chỉ thành tăng thượng mạn, lại là hủy báng Phật, chẳng phải tu hành.
Năng chiếu phá nhất thiết hữu vô cảnh pháp, thị kim cương, tức hữu tự do độc lập phân. Nhược bất năng nhẫm ma đắc, túng linh tụng đắc thập nhị Vi đà Kinh, chỉ thành Tăng thượng mạn, khước thị báng Phật, bất thị tu hành.
能照破一切有無境法, 是金剛, 即有自由獨立分. 若不能恁麼得, 縱令誦得十二韋陀經, 只成增上慢, 却是謗佛, 不是修行.
- Đọc Kinh xem giáo theo thế gian là việc tốt lành, nhưng đối với người sáng lý thì người đó còn tắc nghẽn. Bậc Thập địa giải thoát, bỏ dòng Thánh vào sông sanh tử, chỉ không cần tìm cầu hiểu biết câu văn qua ngữ nghĩa, hiểu biết thuộc về tham, tham chuyển thành bệnh.
Độc Kinh khán giáo nhược chuẩn thế gian thị hảo thiện sự, nhược hướng minh lí nhân biên số thử thị Ủng tắc nhân. Thập địa chi nhân thoát bất khứ lưu nhập sinh tử hà, đãn bất dụng cầu mịch tri giải ngữ nghĩa cú, tri giải thuộc tham, tham biến thành bệnh.
讀經看教若准世間是好善事, 若向明理人邊數此是壅塞人. 十地之人脫不去流入生死河, 但不用求覓知解語義句, 知解屬貪, 貪變成病.
- Ngay bây giờ chỉ cần lìa tất cả pháp hữu vô thấu ra ngoài tam cú, tự nhiên cùng Phật không khác. Tự đã là Phật rồi lo gì Phật không biết nói pháp, chỉ sợ chẳng phải Phật, bị các pháp hữu vô chuyển dời, chẳng được tự do.
Chỉ như kim đãn li nhất thiết hữu vô chư pháp, thấu quá tam cú ngoại, tự nhiên dữ Phật vô sai. Kí tự thị Phật hà lự Phật bất giải ngữ, chỉ khủng bất thị Phật, bí hữu vô chư pháp chuyển bất đắc tự do.
只如今但離一切有無諸法, 透過三句外, 自然與佛無差. 既自是佛何慮佛不解語, 只恐不是佛, 被有無諸法轉不得自由.
- Vì vậy có phước trí trước mà chưa đứng vững trên lý thì phước trí lôi đi như kẻ hèn sai khiến người sang, chi bằng đứng vững nơi lý trước rồi sau mới có phước trí. Gặp thời làm nên, nắm đất thành vàng, biến nước biển thành tô lạc, phá núi Tu di làm vi trần, từ một nghĩa làm nên vô lượng nghĩa, nơi vô lượng nghĩa làm nên một nghĩa.
Thị dĩ lí vị lập tiên hữu phúc trí tái khứ, như tiện sứ quý, bất như ư lí tiên lập hậu hữu phúc trí. Lâm thời tác đắc, tróc độ vi kim, biến hải thuỷ vi tô lạc, phá tu di sơn vi vi trần, ư nhất nghĩa tác vô lượng nghĩa, ư vô lượng nghĩa tác nhất nghĩa.
是以理未立先有福智載去, 如賤使貴, 不如於理先立後有福智. 臨時作得, 捉土為金, 變海水為酥酪, 破須彌山為微塵, 於一義作無量義, 於無量義作一義.
------------
Năm Đường Nguyên Hòa thứ chín 814 (Đường Hiến Tông), ngày 17 tháng giêng, Sư quy tịch. Thọ 95 tuổi.
Năm Trường Khánh nguyên niên (821- Đường Mục Tông), vua ban thụy hiệu là Đại Trí Thiền Sư, tháp tên Đại Bảo Thắng Luân.
Hết quyển 6.