KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐAQuyển 571__________________________________________________ ______________________________________
Cho đến sanh duyên lão tử, sầu than khổ não cũng lại như vậy. Bố thí được phước lớn, đây gọi là có, còn bần cùng thì gọi là không.
Thọ trì tịnh giới được sanh cõi lành, đây gọi là có, sanh vào cõi ác thì gọi là không.
Cho đến tu tuệ được thành Thánh, đây gọi là có, làm kẻ ngu si thì gọi là không.
Nếu tu tập nghe nhiều sẽ được trí lớn, đây gọi là có, còn ngu si thì gọi là không.
Nếu tu chánh niệm, thường được xuất ly, đây gọi là có, không được gọi là không.
Nếu tu tà niệm chẳng được xuất ly, đây gọi là có, thường được xuất ly là không.
Nếu lìa ngã và ngã sở thường được giải thoát, đây gọi là có. Chấp ngã và ngã sở nếu được giải thoát, đây gọi là không.
Nếu nói hư không ở khắp tất cả mọi nơi, đây gọi là có. Nói trong năm uẩn có ngã chơn thật, đây gọi là không.
Như thật tu trí thường được giải thoát, đây gọi là có; nếu mắc vào tà trí mà được giải thoát, đây gọi là không.
Lìa các ngã kiến v.v... được không trí, đây gọi là có. Đắm vào các ngã kiến v.v... thường được trí Không, đây gọi là không.
Thiên vương nên biết! Các Đại Bồ-tát tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu biết có, không của thế gian, thường tu bình đẳng, hiểu rõ các pháp do nhân duyên sanh; vì theo thế tục nên nói có, chẳng khởi thường kiến; biết pháp nhân duyên bản tánh của chúng đều là Không, chẳng sanh đoạn kiến, đối với giáo pháp của chư Phật như thật thông suốt.
Thiên vương nên biết! Phật vì Bồ-tát lược nói bốn pháp là thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn v.v... và trời Trường Thọ khởi nhiều về thường kiến, vì muốn phá chấp kiến của họ mà nói các hành là vô thường. Có những trời người nhiều tham đắm dục lạc, vì phá kiến chấp của họ nên nói tất cả khổ. Với hạng tà kiến ngoại đạo chấp thân có ngã, vì phá kiến chấp của họ nên nói thân vô ngã. Kẻ tăng thượng mạn hủy báng Niết-bàn chơn thật, vì vậy nói Niết-bàn vắng lặng, nói vô thường để họ chí tâm cầu pháp rốt ráo, nói khổ để họ mong cầu xa lìa sanh tử. Đối với người nói vô ngã thì hiển rõ Không môn để họ thông suốt, và nói tịch tĩnh để họ hiểu rõ vô tướng, xa lìa sự chấp tướng.