X. LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÁNH THẤY
Kinh:
Ông Anan bạch: “Tuy tôi biết Tánh Thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?”
Phật bảo Ông Anan: “Nay tôi hỏi ông: hiện ông chưa được đạo quả Vô Lậu Thanh Tịnh, nhờ thần lực của Phật mới thấy cõi Sơ Thiền không chướng ngại. Ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem quả Am Ma La trong bàn tay. Các vị Bồ Tát thấy trăm ngàn cõi. Mười phương Như Lai thì cùng tột các quốc độ thanh tịnh nhiều như vi trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng sanh thì thấy rõ được không quá gang tấc.
“Anan, nay tôi cùng ông hãy xem cung điện của Tứ Thiên Vương, chặng giữa xem khắp các loài Thủy, Lục, Không, Hành. Tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng không có cái gì không phải là tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở đó, phân biệt mình, vật. Nay tôi để ông lựa chọn trong sự thấy đó: cái gì là Ngã Thể (Tự Tánh) của ông, cái gì là hình tướng của vật?
“Anan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật chứ chẳng phải ông, cho đến bảy núi Kim Sơn, xem xét cùng khắp tuy có những thứ ánh sáng nhưng cũng là vật chớ không phải ông. Lần lần xem đến: mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối, núi sông, cỏ rác, người vật đều là vật chứ không phải là ông.
“Anan, các vật xa gần đó tuy sai khác nhau nhưng đồng do cái Thấy (Kiến Tinh) trong sạch của ông trông thấy, thì các vật đó tuy có sai khác mà Tánh Thấy không sai khác. Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông”.
Thông rằng:
Ban đầu, Ông Anan hỏi cái Nguyên Tâm Diệu Minh tại sao không trả về. Đức Phật thấy cái Chân Tâm ấy không dấu vết, khó mà chỉ bày nên nương vào cái Kiến Tinh Minh Nguyên mà phương tiện chỉ bày. Cái Kiến Tinh rất gần với Chân Tâm, như mặt trăng thứ hai rất gần với mặt trăng thật. Nhưng cái Thấy này cũng là Vọng, cũng cần phải trả về, chỉ có mặt trăng thật ví dụ cho Chân Tánh là không thể trả về.
Văn sau có nói “Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy này không phải là cái thấy chân thật”. Thì há không phải cái Thấy này cũng có thể trả về hay sao? Ông Anan tuy biết cái Kiến Tinh không trả về, đã ngộ được cái nghĩa mặt trăng thứ hai, lại hỏi “Làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?”, đó là muốn nghiệm xét cái nghĩa Mặt trăng thứ nhất, cái Tánh không thể trả về này hiện phải có phương tiện nào để khiến ta tự biết, tự tin vậy. Phật vẫn dùng cái Kiến Tinh mà phân tách, chỉ bày: cái bị Thấy là Vật, cái Thấy là ông. Vật có sai khác, cái Thấy không sai khác. Không sai khác là Kiến Tinh, cái Thấy.
Nói “Trông thấy trong sạch”, là vì tuy nhờ sắc căn trong sạch là con mắt để thấy bốn Đại, nhưng cũng do Tánh Thể Trong Sạch xưa nay phát khởi, không do tạo tác nên tự mầu đẹp (Diệu) mà sáng soi (Minh), gọi là Tánh Thấy. Cái Thấy (Kiến Tinh) đã là Chân Kiến của ông thì cái Tánh Thấy chẳng phải là Chân Tánh của ông sao? Cho nên nói “Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông”.
Vốn là Tánh thì chỉ có Một. Nhưng cái mức trong sạch của sự Thấy thì chẳng bằng nhau, tức là do thấu cùng cái Tánh hay chẳng thấu cùng cái Tánh mà có sai khác.
Phật Nhãn thì cùng tột mười phương quốc độ trong sạch của Như Lai nhiều như vi trần, không chỗ nào là không thấy. Pháp Nhãn là con mắt của Chư Bồ Tát thì thấy trăm ngàn thế giới. Huệ Nhãn là như Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật. Thiên Nhãn, như Ông A Na Luật thấy cõi Diêm Phù Đề như thấy trái Am Ma La trong bàn tay. Nhục Nhãn, là chúng sanh thì thấy không quá gang tấc. Ông Anan chưa được thanh tịnh vô lậu, nhưng nhờ thần lực của Phật nên thấy cõi Sơ Thiền, đó là Nhục Nhãn mà được Thiên Nhãn. Chỗ thấy của năm loại Nhãn chẳng đồng, nhưng cái Thấy thì không hai, nên mới nói là “Không sai khác”. Hẳn là phải đến Phật Nhãn mới thấu cùng các cõi như vi trần, mới tròn đủ cái Dụng của Tánh Thấy.
Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Như thế nào là Tổ Sư Tây lai ý?”
Tổ đáp: “Suốt ngày xem núi”.
Ngài Đầu Tử tụng rằng:
“Thản nhiên tăng hỏi lão sư yên
Dường đặng Thiều Dương một câu truyền
Suốt ngày xem núi, tay tiên lộ.
Đêm khuya vượn hú, nguyệt ngoài hiên”.
Hãy nói “Suốt ngày xem núi” là chỉ cái Thấy hay chỉ Tánh Thấy, đối cùng “Tổ Sư Tây lai ý” hiểu thế nào đây?
Ngài Vân Cư Trí nói rằng: “Cái Tánh Trong Sạch xưa nay trong lặng, chẳng có một chút động lay, không thuộc Hữu, Vô, lìa ngoài Nắm, Bỏ, Tánh Thể làu làu, vốn tự như nhiên. Thấy rõ ràng như vậy, mới gọi là Thấy Tánh (Kiến Tánh). Tánh tức Phật, Phật tức Tánh nên nói là “Kiến Tánh thành Phật”.
Hỏi : “Tánh vốn trong sạch, chẳng thuộc Hữu, Vô sao lại còn có thấy?”
Đáp : “Thấy không chỗ thấy”.
Hỏi : “Đã không có chỗ thấy, sao lại còn có Tánh?”
Đáp : “Kiến Xứ (chỗ thấy) cũng không”.
Hỏi : “Như vậy thì khi thấy là ai thấy?”
Đáp : “Không người để thấy”.
Hỏi : “Rốt cùng thì như thế nào?”
Đáp : “Tính toán hư vọng mà cho là Có, liền có năng, sở: bèn mang tiếng là mê. Theo cái Thấy hư vọng đó sanh chuyện hiểu biết, liền đọa sanh tử. Người thấy biết rõ ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy. Tìm cầu danh, xứ, thể, tướng bèn chẳng có được. Năng, sở đều dứt tuyệt, gọi là Thấy Tánh”.
Hỏi : “Cái Tánh này trải khắp cả thảy nơi chăng?”
Đáp : “Không đâu chẳng khắp”.
Hỏi : “Phàm phu đủ chăng?”
Đáp : “Đã nói là không đâu chẳng khắp thì phàm phu sao lại chẳng đủ?”
Hỏi : “Cớ sao Chư Phật, Bồ Tát chẳng bị sanh tử ràng buộc, mà chỉ có phàm phu bị trói cột vào cái khổ này, thì sao lại trải khắp?”
Đáp : “Phàm phu ở ngay trong Tánh trong sạch này vọng thấy có năng, có sở : bèn sa vào sanh tử. Chư Phật, Bồ Tát khéo biết trong Tự Tánh trong sạch nào có hữu, vô nên chẳng lập năng, sở”.
Hỏi : “Nếu nói như vậy thì có người hiểu, người chẳng hiểu hay sao?”
Đáp : “Cái hiểu còn chẳng thể được, há có người hiểu sao ?”
Hỏi : “Tột lý như thế nào?”
Đáp : “Ta lấy yếu lý mà nói, ông phải biết rằng trong Tánh trong sạch không có hữu, vô, phàm, Thánh; cũng chẳng có người hiểu, người không hiểu. Phàm với Thánh, cả hai chỉ có danh. Nếu theo danh mà khởi sanh hiểu biết liền đọa vào sanh tử. Nếu biết mọi sự đều giả danh, không thật, tức thì không có cái mang danh”.
Ngài lại nói: “Đây là chỗ tột rốt ráo : như cho rằng ta hiểu, kia chẳng hiểu, tức là đại bệnh. Thấy có phàm Thánh, dơ sạch, cũng là đại bệnh. Khởi niệm không có phàm Thánh, lại là bác không có nhân quả. Thấy có cái Tánh trong sạch để có thể trụ dừng, cũng là đại bệnh. Khởi kiến giải chẳng có trụ dừng cũng là đại bệnh. Như vậy, trong Tánh trong sạch, chẳng phá hoại phương tiện ứng dụng mà hưng vận từ bi. Như thế, chỗ đạo tràng hưng vận đó, tức toàn Tánh trong sạch, nên nói là Thấy Tánh thành Phật”.
Lời dạy trên của Tổ Vân Cư rất gần với câu “Thấy Tánh do lìa tướng Thấy” của kinh, nên trích ra đầy đủ.