DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 48/59 ĐầuĐầu ... 38464748495058 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 471 tới 480 của 588
  1. #471
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Bản Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác của Phật, gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.

    Thông rằng:

    Hành tướng có thể hoại diệt, nhưng cái Biết sự hoại diệt thì chẳng hoại. Cái lìa có thể lìa, nhưng cái Biết sự lìa thì chẳng có lìa. Đây là Bổn Giác vậy. Lặng trong hợp vào lặng trong, Thức tức là Trí, cũng có thể gọi là lặng trong như nhiên.

    Chỗ này nói “Bản Giác lặng trong như nhiên” thì chẳng phải là chỗ không dao động của Thức lặng yên vậy. Chỉ vì cái Bổn Giác này chẳng phải là Thức, nên có thể ngang bằng cái Giác của Phật. Tình phàm Thánh giải tất cả tiêu tan, chỉ còn một cái Chân thật, nên có thể bằng ngang với tất cả Chư Phật. Tuy ngang với cái Giác của tất cả Chư Phật, nhưng không phải là Đẳng Giác vì còn sự hồi hướng trong đó, còn có sự tiến đến ở trong đó, nên gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.

    Tổ Hoàng Bá nói: “Bậc Thanh Văn là do âm thanh mà đắc ngộ nên gọi là Thanh Văn. Chỉ là chẳng rõ Tự Tâm, ở trên Thanh Giáo [Giáo pháp dạy bằng lời nói] khởi ra hiểu biết, hoặc do thần thông, hoặc nhờ tướng tốt, ngôn ngữ vận động, nghe có Bồ Đề Niết Bàn, trải qua ba tăng kỳ kiếp tu thành Phật Đạo, đều thuộc về đạo Thanh Văn, gọi là Thanh Văn Phật. Độc chỉ ngay đây tức thời rõ suốt Tự Tâm, xưa nay là Phật, không một pháp khá đắc, không một Hạnh để tu, đó là Vô Thượng Đạo, đó là Chân Như Phật.

    “Này người học Đạo, chỉ sợ một niệm có: liền cách xa Đạo. Niệm niệm Vô Tướng, niệm niệm Vô Vi, tức đó là Phật. Này người học Đạo, như muốn thành Phật thì tất cả Phật Pháp đều chẳng dùng đến chuyện học, độc chỉ học không cầu, không bám mắc. Không cầu thì tâm chẳng sanh, không bám mắc thì tâm chẳng diệt. Chẳng sanh chẳng diệt, tức đó là Phật.

    “Tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối với tám vạn bốn ngàn phiền não, đó chỉ là cửa dẫn dắt giáo hóa, vốn thật chẳng có pháp nào. Lìa tức là pháp; biết lìa, đó là Phật. Chỉ lìa tất cả phiền não thì liền chẳng có pháp nào để đắc”.

    Nếm được mùi vị “Biết lìa là Phật” của Tổ Hoàng Bá thì rõ ràng cái ý kinh “Bản Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác của Phật”.

    Lại như Ngài Huệ Siêu hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Như sao là Phật?”

    Tổ Nhãn nói: “Ông là Huệ Siêu”.

    Vị tăng hỏi Tổ Sơ Sơn: “Như sao là Phật?”

    Tổ Sơn nói: “Sao chẳng hỏi cái lão già Sơ Sơn?”

    Như lời đáp ấy là quá chừng nhiều. Thảy cốt đề tỉnh Bản Giác, thì ngay đây bình đẳng với Phật.



  2. #472
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Tinh Chân phát sáng, địa như Phật Địa, gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.

    Thông rằng:

    Cái Tinh Chân của Bản Giác chẳng phải chỉ là linh nhiệm sáng suốt vững bền mà thôi, lại có thể phát sáng rải bày, bước đi để thành Địa Vị. Địa Vị như Phật Địa, đối với Trị Địa Trụ ban đầu thật khác xa vậy. Có cái Thể của Chân Như toàn khắp pháp giới như thế thì cũng cùng ngay cái Dụng của Chân Như toàn khắp pháp giới như thế. Cho nên, cái Giác của Phật cùng khắp tất cả chỗ thì cái Hành của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ. Có chỗ chưa khắp thì chẳng phải là Phật Địa. Đây chỉ mới có thể như Phật chứ chưa có thể là một với Phật, nên gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.

    Vị tăng hỏi Tổ Lâm Tế: “Thế nào là Tam Nhãn Quốc Độ?”

    Tổ Lâm Tế nói: “Ta cùng ông vào trong quốc độ Tịnh Diệu, mặc áo thanh tịnh, thuyết nói Pháp Thân Phật. Lại vào trong quốc độ Vô Sai Biệt, mặc áo không sai biệt, thuyết nói Báo Thân Phật. Lại vào trong quốc độ Giải Thoát, mặc áo quang minh, thuyết nói Hóa Thân Phật. Tam Nhãn Quốc độ này đây đều là Y Báo biến hóa. Theo các kinh luận gia thì lấy Pháp Thân làm căn bản, Báo Thân, Hóa Thân là Dụng. Chỗ thấy của sơn tăng thì Pháp Thân chẳng mượn đến lời nói. Bởi thế cổ nhân nói “Thân (Pháp, Báo, Hóa) y theo nghĩa mà luận, Độ căn cứ nơi Thể mà luận”. Pháp Tánh Thân, Pháp Tánh Độ rõ ràng là pháp kiến lập. Quốc độ y-thông là nắm tay không, là chiếc lá vàng để dối gạt trẻ nít. Trái tật lê, củ ấu sừng hột khô queo thì tìm nước gì đây? Ngoài tâm không pháp, trong còn chẳng thể đắc thì cầu vật gì?

    Thiền sư Thiên Y Hoài thượng đường: “Vô biên cõi Phật, đây kia chẳng cách hở mảy lông. Hãy nói Bất Động Như Lai thế giới Diệu Hỷ thuyết pháp gì đó? Bao đời xưa nay thủy chung chẳng lìa Đương Niệm. Vậy như trong một hội tối sơ Phật Oai Âm Vương độ người nhiều ít? Như thật là người suốt khắp thử nói xem!”

    Giây lâu, Ngài nói: “Đường đi khó! Đường đi khó! Đầu núi muôn tầm ông tự thấy!”

    Bởi thế, ngộ Pháp Tánh Thân, Pháp Tánh Độ cốt yếu là quay về Vô Vật [Xưa nay không một vật của Ngài Huệ Năng], đó là Chân Phật Địa. Nếu có chỗ đắc thì đã có nơi chốn, làm sao “Đến khắp tất cả chỗ [Chí nhất thiết xứ]”?”



  3. #473
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế giới, Như Lai hỗ tương, dung nhập, được không chướng ngại, gọi là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.

    Thông rằng:

    Thế giới tức là Chân Như Pháp Giới, thuộc Tướng Phần. Như Lai tức là Chân Như Bản Thể, thuộc Kiến Phần. Kiến Phần và Tướng Phần vốn đồng một nguồn nên tuy Căn Trần phân minh, mà đây kia vẫn là dung nhập. Nêu Kiến Phần thì Tướng Phần ở ngay trong đó. Nêu Tướng Phần thì Kiến Phần ở ngay trong đó. Tức Kiến không gì chẳng phải là Tướng, tức Tướng không gì chẳng phải là Kiến. Thế nên, Thế Giới, Như Lai hỗ tương dung nhập. Vốn không chướng ngại mà chẳng khỏi có chướng ngại, là cái thấy chưa dung thông vậy.

    Tinh chân phát sáng đến khắp mọi chốn nhưng vẫn còn ở mọi nơi chốn thấy có hai. Nay hỗ tương dung nhập, tinh chân là tất cả mọi chốn, tất cả chốn chính là tinh chân. Tâm, cảnh trọn dung thông, cả hai không ngăn ngại. Lý chẳng ngại Sự, Sựï chẳng cản Lý, đầy ắp tất cả chỗ, nên gọi là Vô Tận Công Đức Tạng.

    Vô Lượng Công Đức của mười Hạnh trước chỉ đủ đức ở thân, còn Vô Tận Công Đức Tạng này là kho công đức không cùng, dùng mà chẳng hết, lấy ra chẳng cạn, ấy là chỉ cái Biển Tạng Thức Như Lai vậy. Hầu như ngang bằng với Hư Không Tạng Bồ Tát, thân và cõi dung nhập mà hay rộng làm Phật sự, tùy thuận chúng sanh.

    Ngài Ngũ Tổ Diễn thượng đường rằng: “Ngàn núi bày xanh, bến liễu rủ vàng, lão tiều ca hát, ngư ông nhảy múa, sênh phách rộn ràng, chim hát líu lo, người đẹp phấn hồng, công tử phong lưu, mỗi mỗi đều vì các ông mà phát tỏ cái thượng thượng cơ, mở ra Chánh Pháp Nhãn. Nếu hướng trong ấy mà tiến cử được thì Kim Sắc Đầu Đà [Ngài Ca Diếp] không chỗ dung thân. Nếu chẳng am hiểu, ăn cháo, nhai cơm, chịu cho ông bảy hang tám lỗ [Thất xuyên bát huyệt]!”

    Lại như Ngài Pháp Đăng nói bài kệ:

    “Ai tin Thiên Chân Phật?

    Hưng Bi khắp vạn đường

    Bờ xưa, hoa Liêu nở

    Cò trắng đứng bãi vàng

    Sương rơi sân cỏ mọc

    Mây thâu, lạnh trăng khe

    Mỗi mỗi : nơi bày chỉ

    Tử tế, hãy nhìn xem”.


    Đây là Thế Giới, Như Lai chung thành một phiến. Theo đây mà ngộ nhập gọi là Chân Giải Thoát. Dùng công đức này tiếp dẫn chúng sanh, vì thế giới vô tận nên công đức cũng là vô tận.



  4. #474
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Ở nơi đồng với Phật Địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân thanh tịnh. Nương nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết Bàn, gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng.

    Thông rằng:

    Đồng Phật Địa, đồng thanh tịnh, đồng Niết Bàn sao lại nương nơi nhân mà phát huy mỗi mỗi chẳng đồng? Đó là do các thiện căn đã trồng trong những đời trước, mỗi cái do sự huân tập mà có đặc tánh riêng. Tánh thiện tuy bình đẳng mà do căn (rễ) nảy mầm, nương Nhân chứng Quả mà muôn vật chẳng đồng. Dầu chẳng đồng vẫn không ngại sự tự tu tự ngộ, chứng lấy Niết Bàn. Đúng là chẳng cần cố chấp một pháp môn, mỗi mỗi phải đều theo một lối.

    Nói tùy thuận nghĩa là tùy theo căn cơ mà tiếp dẫn, chứ chẳng miễn cưỡng làm chỗ không thể được. Đây mới là quyền nghi lớn để độ khắp chúng sanh vậy.

    Ngài Tuyết Phong ở nơi Tổ Động Sơn làm đầu bếp.

    Một hôm, đang đãi gạo, Tổ sơn hỏi: “Đãi cát bỏ gạo, hay đãi gạo bỏ cát?”

    Ngài Phong rằng: “Cát gạo đồng thời bỏ”.

    Tổ nói: “Đại chúng lấy gì ăn?”

    Ngài Phong bèn đậy bồn gạo lại.

    Tổ nói: “Theo cái nhân duyên của ông thì hợp với Đức Sơn”.

    Về sau quả nối pháp Tổ Đức Sơn.

    Ngài Đầu Tử nêu ra rằng: “Này đại chúng! Tổ Động Sơn nói như vậy là đạo lý gì thế? Tuy là một sắc Càn Khôn, khốn nỗi núi cao sông rộng. Bởi thế lão dã này nói “Công phu chẳng tới, chẳng vuông tròn. Ngôn ngữ không thông chẳng phải bà con””.

    Bèn thay thế, nói: “Đãi cát bỏ gạo, đãi gạo bỏ cát: Cây quế trường sanh không ảnh, trải qua sương tuyết kết trái đều”.

    “Đại chúng lấy gì ăn: Chim Kim Phụng hái bông ngậm chẳng hết, Ngọc Sô [Chim giả bằng ngọc] ăn nhụy lá tươi hoài”.

    Tụng rằng:

    “Hiện đầy bình bát: không một vật

    Há đồng Hương Tích hóa đồ ngon

    Nhật nguyệt xoay hoài soi chẳng thấu

    Người gỗ múa tay hướng lò hồng”.

    Ngài Đầu Tử rất rành ý chỉ của Tổ Động sơn, biện biệt rất rõ ràng.

    Có nhà sư hỏi Ngài Ngũ Tổ Diễn: “Thế nào là chuyện nhà Lâm Tế?”

    Tổ Diễn nói: “Kẻ phạm tội ngũ nghịch nghe sấm sét!”

    Hỏi : “Thế nào là chuyện nhà Vân Môn?”

    Đáp : “Cờ hồng sáng lòe”.

    Hỏi : “Thế nào là chuyện nhà Quy Ngưỡng?”

    Đáp : “Dẹp cái bia ngang lối xưa”.

    Hỏi : “Thế nào là chuyện nhà Tào Động?”

    Đáp : “Đem thơ chẳng tới nhà”.

    Nhà sư làm lễ.

    Tổ Diễn nói: “Sao chẳng hỏi chuyện nhà Pháp Nhãn?”

    Đáp: “Để lại cho Hòa Thượng”.

    Tổ Diễn nói : “Người đi tuần phạm tội đi đêm”.

    Ở đây, thiện căn của năm Tông, mỗi Tông đều có chỗ khế hợp riêng. Chẳng phải chỉ có Tổ Động Sơn chỉ dạy Ngài Tuyết Phong đến Tổ Đức Sơn mà thôi.

    Từ Tổ Huệ An ở Tung Sơn chỉ cho Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến ra mắt Đức Lục Tổ, Tổ Thạch Đầu chỉ Ngài Dược Sơn ra mắt Đức Mã Tổ, rồi Đức Mã Tổ chỉ Ngài Đơn Hà đến Ngài Thạch Đầu đều là tùy thuận thiện căn bình đẳng, khiến nương nơi nhân mà phát huy, giữ lấy đường Niết Bàn. Nào có từng cố chấp theo riêng một pháp môn để chứng Cực Quả đâu?



  5. The Following 2 Users Say Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    honglien (12-31-2015),socnho (12-31-2015)

  6. #475
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Chân Căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là Bản Tánh của mình. Tánh tròn vẹn tựu thành, không bỏ sót một chúng sanh, gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhứt Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.



    Thông rằng :

    Thiện căn là cái thiện căn ai cũng sẵn đủ. Nương thiện căn này, giữ lấy đường Niết Bàn thì thiện căn hóa thành Chân Căn vậy. Không còn cái Thiện nào để chỉ ra, độc chỉ một cái Chân Thật, Thể Tánh viên dung toàn khắp Pháp Giới, nên chúng sanh mười phương đều là Bản Tánh của mình. Bản Tánh đã tròn vẹn, đã tự thành tựu, nên gọi là Viên, không ngại mà hội với chúng sanh thành một Thể, nhưng cũng chẳng bỏ mất tướng chúng sanh. Chúng sanh chưa hẳn mỗi mỗi đều thành tựu, nhưng Tánh ta tròn vẹn thì không một chúng sanh nào chẳng phải là Phật Tánh. Bởi thế Tánh tròn vẹn thông suốt tựu thành, cho đến không bỏ sót một chúng sanh nào cả.

    Sự Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sanh này thì chẳng kể người, vật, thiện, ác... dưới đến các loài xuẩn động hàm linh đều có Phật Tánh. Không chỉ tùy thuận bình đẳng thiện căn mà thôi, như Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, gặp ai cũng lễ lạy mà nói : “Tôi chẳng dám khinh các người. Các người đương nhiên sẽ thành Phật”, thật hợp ý chỉ này.

    Thiền sư Dục Vương Dụ thượng đường : “Trọn khắp đại địa là con mắt của Sa Môn, khắp mười phương là ánh sáng của tự mình. Vậy thì cớ sao ở Đông Phất Du Đãi đánh trống thì Tây Cù Da Ni chẳng nghe ? Nam Thiệm Bộ Châu đốt đèn, Bắc Uất Đơn Việt vẫn tối. Dù cho hướng vào trong ấy nói được đầy đủ thì vẫn còn ở trong bóng dáng mà làm kế sanh nhai !”

    Ngài rung cây phất tử, nói : “Trăm thứ tạp nhạp nát rồi, sao là một đường thoát thân ?”

    Ném cây phất tử đi, nói : “Hãy tham ! Chuyện này mà chẳng thực tham, thực chứng, làm sao trộm thấy tin tức của Chân Căn ?”

    Ngài Tuyết Phong dạy rằng : “Ở đình Vọng Châu đã cùng các ông tương kiến rồi ! Ở đỉnh Ô Thạch đã cũng các ông tương kiến rồi ! Trước tăng đường đã cùng các ông tương kiến rồi vậy !”
    Khi ấy, có nhà sư bước ra hỏi : “Trước tăng đường hãy để đó, còn đình Vọng Châu, đỉnh Ô Thạch chỗ tương kiến là thế nào ?”
    Tổ Phong hốt nhiên lui về phương trượng.
    Đây là thấy được thì mới tin mười phương chúng sanh đều là Bổn Tánh của mình.



  7. #476
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Tức cả thảy pháp, lìa cả thảy tướng. Cả Tức và Lìa đều không chỗ dính mắc, gọi là Chân Như Tướng Hồi Hướng.

    Thông rằng :

    Ở trước, nói “Lìa cả thảy tướng, tức cả thảy pháp” ấy là nơi tướng mà lìa tướng, vẫn còn có tướng của pháp vậy. Ở đây, nói “Tức cả thảy pháp, lìa cả thảy tướng” ấy là nơi pháp mà lìa pháp, quên mất cả pháp tướng vậy. Có Tức có Lìa thì tuy không có pháp tướng nhưng chẳng phải không có cái không pháp tướng, đó cũng còn là sự trừ bỏ pháp tướng. Ở đây thì đồng đều là không có, mảy tơ hết sạch, chỉ một Chân Thể như như bất động. Đó gọi là Chân Như Tướng, chẳng thể lấy các thứ tướng như Tướng, Pháp Tướng cho đến sự trừ bỏ Pháp Tướng mà so sánh được.

    Chỗ nói “Lìa cả thảy tướng” tức xem sự lìa Tướng chúng sanh là nhiệm mật. Chỗ nói “Cả hai đều không dính mắc” tức xem sự xa lìa các thứ Lìa là nhiệm mật. Đến đây thì Sở Tri Chướng đã được trong sạch, cái Chân Tánh hiện tiền, đến không từ đâu, đi không về đâu, vốn tự như như, nên gọi là Chân Như.

    Thiền sư Dục Vương Dụ thượng đường : “Khi hành bặt mất dấu của hành, khi thuyết không có vết của thuyết. Hành, thuyết mà có chỗ đến ắt có đích sanh ra thì tên liền tới. Hành, thuyết chưa sáng rõ ắt mũi kiếm linh quyết đoán vạch rõ. Dù cho thuyết không có sấm lậu, hành chẳng mê nơi chốn thì vẫn còn vướng mắc ở xác thân. Nếu là đại bàng cánh vàng thì vút lên trăm ngàn do-tuần. Nếu là ngựa Thần Câu thập ảnh thì ruổi nhanh bốn phương tám cõi, chẳng cần thứ lớp ăn uống, chẳng theo chốn mà chôn thân. Tóm lại, chẳng có dựa nương thì lại có cái phần dẫm bước, thực hành không nhỉ ? Chốn chốn, mảy mảy, chính là Bờ Giác !”

    Lời dạy này có thể nói là đắc cốt tủy Chân Như. Chỗ đó mà được siêu thoát bèn khế hợp Như Như.



  8. #477
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Thật đắc Như Như, mười phương không ngại, gọi là Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng.



    Thông rằng :

    Xa lìa các tướng, chỉ một Chân Như thì gọi là Vô Phược, không trói buộc. Còn cái Tướng Chân Như, ấy là còn bị cái Vô Phược trói buộc, chưa thể Vô Ngại, nên chưa là Chân Giải Thoát.
    Thật đắc Như Như thì ở đâu cũng Như Như, không còn trệ ngại, ngay cái tướng Chân Như cũng quên mất. Ban đầu trừ bỏ chấp pháp gọi là Hữu Phược Giải Thoát. Nay trừ bỏ cái không chấp pháp gọi là Vô Phược Giải Thoát. Đã không có Phược(29) để thoát thì còn có Phược nào nữa ? Đã không có chỗ trói buộc thì chỗ nào chẳng Như Như ? Cái “Mười phương không ngại” này nếu chẳng đắc cái Tối Chân trong Chân Như thì chẳng đủ sức để nói vậy.

    Ngài Lạc Phổ ban đầu làm thị giả của Tổ Lâm Tế. Tổ thường giữa chúng khen Ngài rằng : “Ấy là mũi tên chiếc trong môn hạ Lâm Tế, ai dám đối đầu với mũi nhọn ấy ?”

    Ngài Lạc Phổ tự cho là đã đầy đủ, từ giã Tổ đi du phương về Nam.

    Tổ Lâm Tế nói : “Môn hạ Lâm Tế có con lý ngư sạch chút đỉnh, ngoảy đầu quạt đuôi hướng về phía Nam, chẳng biết hướng về trong hũ dưa muối nhà nào mà chết vùi đây ?”

    Ngài Lạc Phổ đi du phương xong đến thẳng Giáp Sơn dựng am, suốt năm không hỏi thăm Tổ Giáp Sơn. Tổ bèn viết thơ bảo một vị tăng đưa sang. Lạc Phổ tiếp thơ bèn cất luôn, lại đưa tay đòi nữa, vị tăng không đáp được.

    Ngài Lạc Phổ bèn đánh mà nói : “Về nói y lại cho Hòa Thượng”.

    Vị tăng về kể lại cho Ngài Giáp Sơn, Tổ nói : “Ông tăng ấy mà mở thơ ra thì trong ba ngày phải đến đây. Còn chẳng mở thơ thì không cứu nổi ông ta rồi”.

    Ba ngày sau, quả Ngài Lạc Phổ đến ra mắt Tổ Giáp Sơn, không lễ bái, ngay trước mặt Tổ mà đứng.

    Tổ Sơn nói : “Gà nương ổ phụng, chẳng cùng đồng loại. Lui ra !”
    Ngài Phổ : “Từ xa nghe tiếng đến đây, xin thầy tiếp đón một lần”.
    Tổ Sơn : “Trước mắt không có Xà Lê, nơi đây không có Lão Tăng !”
    Lạc Phổ bèn hét : “Một chữ Vô(30) cũng chẳng cho lập !”

    Tổ Sơn : “Chớ có hấp tấp vội vàng ! Phải biết mây, trăng thì đồng, mà núi, khe mỗi khác. Cắt đứt đầu lưỡi thiên hạ thì chẳng phải là không có, còn làm sao dạy người không có đầu lưỡi mở lời ?”
    Lạc Phổ không có lời đáp.

    Tổ Sơn bèn đánh. Lạc Phổ bèn khuất phục. Quả nhiên là hướng vào trong hũ dưa muối của Giáp Sơn mà chết vùi.

    Ngài Đầu Tử nêu lên rằng : “Đến trong ấy, làm sao đây ? Nói được một câu thì đồng thân, cùng mạng, một hơi thở, liền lá cành !”

    Rồi nói thay : “Đôi phụng không mắt đủ năm màu. Vọt lên trời không thấu mây xanh !”

    Tụng rằng :

    “Người đá không bạn đêm vào núi
    Mây lồng đỉnh đỏ áo lục hàn
    Hét khai điềm kiếp ba chót đỉnh
    Bưng áo vàng(31) ra, dưới nhật xem”.

    Hai câu đầu tụng ý chỉ : Dứt hết đầu lưỡi người trong thiên hạ, chỗ ẩn thân, mất dấu vết.
    Hai câu sau tụng ý chỉ : Người không có lưỡi lại mở lời, chỗ mất dấu vết, chớ ẩn thân.

    Cái ông Lạc Phổ lộn xộn, chỉ được một cái hàm thiết, đã bị Tổ Lâm Tế khám phá. Giả sử không gặp Tổ Giáp Sơn thì cơ hồ bị cái Vô Phược trói buộc mà tống táng một đời vậy.



  9. #478
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Tánh Đức viên thành, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất, gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.



    Thông rằng :

    Từ Chân Như Tánh phát khởi cái Đức Dụng. Ba Đức Lý, Trí, Hạnh đều tròn vẹn. Lý, Sự vô ngại, Không, Có đều chẳng phải. Thành tựu thuần nhiên Một Tánh, rốt ráo không còn dấu vết. Ở trước nói “Đến tất cả chỗ” là dường còn cái thấy có hạn lượng(32), nên Pháp Giới Tánh chưa lìa hữu lượng. Nay hạn lượng về Pháp Giới diệt mất(33), nên gọi là Vô Lượng(34).

    Tổ Phật Quả Khắc Cần gặp cư sĩ Trương Vô Tận, đàm luận ráo riết về yếu chỉ kinh Hoa Nghiêm.
    Tổ nói : “Cảnh giới hiện lượng của Hoa Nghiêm thì Lý, Sự toàn chân. Ngay ban đầu đã không có giả pháp, bởi thế, ngay Một mà Muôn, rõ Muôn là Một, Một trở lại Một, Muôn trở lại Muôn, mênh mông không cùng. Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt. Cuốn, mở tự tại, vô ngại viên dung. Chỗ này tuy là tột lý, nhưng rốt cuộc cũng là không gió mà nổi sóng vòng vòng !”
    Cư sĩ này không lãnh hội nổi, lúc lắc cái giường ngồi.

    Tổ Khắc Cần bèn hỏi : “Đến chỗ này thì cùng với ý Tổ Sư từ Tây sang là giống hay khác ?”
    Cư sĩ : “Dạ, giống”.
    Tổ Cần nói : “Hãy được cái chỗ không có giao thiệp”.
    Cư sĩ có sắc giận.
    Tổ Cần nói : “Chẳng nghe Vân Môn nói “Núi sông đất đai không mảy tơ lầm lỗi”. Đó còn là chuyển cú. “Chẳng thấy một sắc” mới là một nửa đề. Còn phải biết cái toàn đề của thời tiết hướng thượng. Các Tổ Đức Sơn, Lâm Tế há chẳng phải là toàn đề đấy sao ?”
    Cư sĩ bèn gật đầu đồng ý.
    Hôm sau lại bàn về Sự Pháp Giới, Lý Pháp Giới cho đến Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới.
    Tổ Khắc Cần lại hỏi : “Đây có thể nói thiền chăng?”
    Cư sĩ đáp : “Chính nên nói Thiền vậy”.

    Tổ cười nói : “Chẳng phải ! Chính vì còn trong cái suy lường về Pháp Giới nên hạn lượng về Pháp Giới chưa diệt mất. Nếu vào đến Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất, mới nên nói Thiền ! Như sao là “Phật là que cứt khô” ? Như sao là “Phật là ba cân gai” ? Thế nên Tổ Chân Tịnh có kệ rằng :

    “Sự Sự vô ngại
    Như ý tự tại
    Tay nắm đầu heo
    Miệng tụng tịnh giới
    Lướt khỏi nhà thổ
    Chưa trả nợ rượu
    Đầu ngã tư đường
    Mở banh túi bố !”.

    Cư sĩ : “Chỗ luận bàn tuyệt thay ! Há dễ được nghe ư ?”

    Như diệu nghĩa này, chẳng bàn luận sâu xa như vậy thì không thể giãi bày hết yếu chỉ.

    Mười địa vị Hồi Hướng ở trên là hồi Chân, hướng Tục, hồi Trí hướng Bi khiến Chân - Tục viên dung, Trí - Bi bất nhị. Đến đây hạn lượng, tình kiến đều đã hồn hóa, mới có thể đăng địa, chứng quả Bồ Tát vậy.



  10. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    socnho (01-02-2016)

  11. #479
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    VI. TỨ GIA HẠNH

    Kinh :

    “Anan, người thiện nam đó tu hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến thành tựu bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên : tức lấy Phật Giác dùng làm tâm mình, như ra mà chưa ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt cái cây, gọi là Nỗn Địa.

    Thông rằng :

    Bốn mươi mốt tâm ở trên, từ Càn Huệ đến Mười Hồi Hướng lần hồi sửa trị, lần hồi điều phục, đào thải phàm tình, đã thành cùng cực thanh tịnh. Nhưng Thánh vị khó lên, Thánh quả khó chín muồi. Đến miếng đất này, Thần không thể xét đến, “Hóa chẳng thể giúp tăng trưởng. An nhiên mà thong dong, chờ cái tự nó đến mà thôi vậy. Đức Thế Tôn nhiều kiếp tu hành, suốt thấu rõ ràng chỗ huyền vi, ở đây lại lập ra bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên. Giữa khoảng sắp thành tựu và chưa thành tựu, quả thực là có bốn địa vị này, chẳng phải là Phật nhãn thì ai mà biện biệt ra được ? Ở trước, nói “Giác bằng cái Giác của Phật”, ấy là ở trong tâm rõ ràng mà chưa thể dùng được. Đến đây thì “Lấy Phật Giác dùng làm tâm mình”, đưa lên xem ngắm mà chẳng ra, giống như dùi cây cho ra lửa mà cây chưa cháy, nên gọi là Nỗn(35) Địa. Lửa có ra thì cũng vô tâm, dùi lâu thì cây tự cháy. Giác mà dùng thì cũng vô ý, Định lâu thì Huệ tự hiện, trong khoảng ấy chẳng để cho sức người góp vào vậy. Tổ Thúy Nham Chân thượng đường, nêu lên bài tụng của Tổ Long Nha rằng : “Học đạo như dùi lửa, thấy khói chưa thể ngừng, chờ đến Kim Tinh hiện, về nhà mới đến nơi !” Và bài tụng của Tổ Thần Đỉnh rằng : “Học Đạo như dùi lửa, thấy khói có thể dừng, chớ chờ Kim Tinh hiện, cháy cẳng lại cháy đầu !” Tổ Chân nói : “Nếu luận Đốn thì Long Nha quả ở nửa đường ! Nếu luận Tiệm thì Thần Đỉnh mới ngộ ít. Ở đây thì thế nào ? Này các nhân giả, năm nay nhiều lá rụng, chỗ nào quét về nhà ?” Theo chỗ thấy của Ngài Thúy Nham, cháy chẳng hết thì hiện củi, dùng chẳng hết thì hiện lửa, thế dùng sự dùi làm chi ? Tuy thế, phải là người xuất cách mới xong !



  12. #480
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Lại lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Hình như nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đảnh Địa.

    Thông rằng :

    Chỗ thấy cùng Phật không khác, nhưng còn phải quý trọng hành vi cho tương xứng. Nếu đã có thể lấy cái Giác của Phật dùng làm tâm mình thì có thể lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Ở nơi hỗ tương đối đãi mà nói thì vì còn có cái thấy của Phật, của mình nên hình nhưng nương mà chẳng phải nương, là thấy có quy tắc của Phật. Hình như nương nơi Phật thì đó chỉ là quy tắc của mình. Nếu không có chỗ nương, đó là hành vi của Phật không vết tích. Nay có chút so nghĩ, tính toán, bởi vì lằn vết chưa mất. Giống như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại. Cho là Nương thì thân ở hư không nên chẳng phải nương vậy. Cho là Chẳng phải nương thì chân còn dẫm trên đảnh nên chẳng phải là Không nương. Sắp vào chỗ Thần Hóa mà còn chút đầu lông chưa tiêu dung, nên hình như có ngăn ngại. Kinh Đại Bát Nhã cho sự chấp trước hư không là Pháp Thân gọi là Đỉnh Đọa, rơi nơi đỉnh, chính thật tương đương với chỗ này. Nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Như sao là cô đỉnh Diệu Phong ?”
    Tổ Châu nói : “Lão tăng không đáp câu ấy của ông”.
    Hỏi : “Vì sao không đáp câu ấy ?”
    Tổ Châu nói : “Ta đáp cho ông, sợ rơi trên đất bằng”.
    Ý vị thay ! Rõ ràng đã đáp rồi vậy.
    Về sau, hai Ngài Bửu Phước và Trường Khánh đang dạo núi.
    Ngài Bửu Phước lấy tay chỉ, nói : “Chỉ trong ấy bèn là đỉnh Diệu Phong !”
    Ngài Trường Khánh nói : “Đúng là như vậy thì đáng tiếc cho !”
    Có nhà sư kể lại với Ngài Cảnh Thanh. Ngài Cảnh Thanh nói : “Nếu chẳng phải là bậc Tôn Công thì thấy sọ khô đầy đồng !”
    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng : “Diệu Phong cô đảnh cỏ dẫy đầy
    Nêu được rõ ràng, phó chúc ai ?
    Chẳng phải tôn công phân đích xác
    Sọ khô đầy đất, mấy ai hay !”. Tôn Công Trường Khánh khá tiếc cho chính là sợ rớt trên đất bằng. Nếu rớt nơi đất bằng mà thương lượng thì trước sọ khô thấy quỷ ma vô số ! Lại như Tổ Động Sơn hỏi nhà sư : “Chỗ nào đến?”
    Đáp : “Dạo núi đến”.
    Tổ Sơn nói : “Có đến đỉnh chăng ?”
    Đáp : “Dạ có đến”.
    Tổ Sơn nói : “Trên đỉnh có người không ?”
    Đáp : “Không người nào”.
    Tổ Sơn : “Như vậy chắc chưa tới đỉnh”.
    Đáp : “Nếu chưa tới đỉnh sao biết là không người?”
    Tổ Sơn : “Sao chẳng ở (trụ) lại ?”
    Đáp : “Tôi chẳng từ chối ở, chỉ vì Tây Thiên có người chẳng chịu”.
    Tổ Sơn nói : “Vậy mà lâu nay ta lại nghi gã ấy !” Như nhà sư này, đến đỉnh chẳng trụ thì còn gì ngăn ngại ? Tức là cái hoạn nạn Đỉnh Đọa còn không có, lo gì tai họa Đất Bằng ư ?



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •