Kinh :
“Khéo hay lợi ích cho hết thảy chúng sanh, gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
Thông rằng :
Sự lợi ích cho chúng sanh tuôn ra từ Tâm Từ Bi. Có Tâm Từ Bi thì có khả năng ấy, mà lại khéo làm được. Trí đã soi khắp, Dụng cũng viên dung. Lòng Từ cứu độ chúng sanh mà không có ý. Chẳng kể là tài thí hay pháp thí, chỉ cốt quy về sự lợi ích cho chúng sanh hữu tình mà thôi, nên gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
Thiền sư Ngưu Đầu Dung đã được Đức Tứ Tổ thọ ký, từ đó hoằng pháp rất thịnh hành. Vào niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, đồ chúng thiếu lương thực, Ngài sang xứ Đơn Dương quyên gạo, cách núi tám mươi dặm. Tự mình vác bao gạo một thạch tám đấu, sáng đi chiều về cung cấp cho ba trăm vị tăng hai bữa ăn mỗi ngày. Đây thật là hay hành Nhiêu Ích Hạnh vậy.
--------------
Kinh :
“Tự giác, giác tha, được không-chống-trái, gọi là Vô Sân Hận Hạnh.
Thông rằng :
Tự giác để giác tha. Có Trí thế gian, có Trí xuất thế gian, có Trí xuất thế gian thượng thượng để đem ra nói cho người, được không có sự chống trái, như đá thả xuống nước. Đó là chỗ nói “Gặp rồi nối truyền, cùng đẹp lòng để hiểu rõ”, nên không có sân hận. Cái sân hận này chẳng phải tình phàm có thể so sánh. Hận là hận tất cả chúng sanh đều có Trí Huệ, Đức Tướng của Như Lai mà chẳng tự biết; mà sân là giận rằng ta chưa độ thoát cho hết.
Đức Lục Tổ có đoạn kệ :
“Muốn định hóa độ người
Cần tự có phương tiện
Chớ khiến người có nghi
Tức là Tự Tánh hiện
Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian Giác
Lìa thế kiếm Bồ Đề
Khác nào tìm sừng thỏ
Chánh Kiến là xuất thế
Tà Kiến là thế gian
Tà, Chánh dẹp hết ráo
Bồ Đề Tánh rõ ràng”.
Thế nên dùng Trí Thế Gian mà giác tha đó là cái nhân Trời, Người; dùng Trí Xuất Thế Gian mà giác tha là nhân Bồ Đề. Độc chỉ cái Vô Thượng Bồ Đề, cả hai đều phá bỏ mới gọi là Thượng Thượng Trí. Dùng cái Trí ấy mà giác tha là cái nhân Đẳng Giác, Diệu Giác vậy.