DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 34/59 ĐầuĐầu ... 24323334353644 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 331 tới 340 của 588
  1. #331
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Do nhân thế giới lưu ngại luân hồi, điên đảo về Chướng nên hòa hợp với Trước (Bám Níu) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng tinh diệu. Do đó mà có yết nam sắc tướng, trôi lăn trong cõi nước : lưu cữu, tinh minh... các loài đầy dẫy.

    “Do nhân thế giới tiêu tán luân hồi, điên đảo về Cảm, nên hòa hợp với Ám thành ra tám mươi bốn loạn tưởng âm ẩn. Do đó mà có yết nam vô sắc, trôi lăn trong cõi nước : không, tán, tiêu, trầm... các loài đầy dẫy.

    “Do nhân thế giới ảo tưởng luân hồi, điên đảo về Ảnh, nên hòa hợp với Ức (Nhớ) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng tiềm kết. Do đó mà có yết nam hữu tưởng, trôi lăn trong cõi nước : thần quỷ, tinh linh... các loài đầy dẫy.

    “Do nhân thế giới ngu độn luân hồi, điên đảo về Si nên hòa hợp với Ngoan (Ngu Độn, Ngoan Cố) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng khô cằn. Do đó mà có yết nam vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước: tinh thần hóa làm đất, cây, sắt, đá... các loài đầy dẫy.

    Thông rằng:

    Sắc thuộc về Tướng Phần. Tưởng thuộc về Kiến Phần. Tóm lại thì chẳng ra ngoài tứ cú: Có, Không, cũng Có cũng Không, chẳng phải Có chẳng phải Không. Vậy là cùng tận sự biến thái của thế giới.

    Hữu Sắc thì bám níu nơi Sắc, như sự thờ phụng mặt trời, mặt trăng, nước, lửa của ngoại đạo. Cái Tưởng đã kết thành tinh diệu cho nên chỉ có Sắc mà thôi. Tinh diệu sanh nơi Minh, Minh sanh nơi “Giác”. Giác không có trụ tướng mà tinh diệu có dính mắc nên gọi là lưu ngại. Kinh Niết Bàn nói “Tám mươi vị Thần đều nhận nguồn tưởng lưu ngại mà thành cái tinh diệu này”. Bởi thế tất cả tinh minh, thần vật đều có thể dự biết trước, sự cát hung chưa từng rời Giác thể. Chỉ bởi chướng ngại nên chẳng lưu thông nên gọi là điên đảo về Chướng.

    Vô Sắc thì bám níu nơi Không, như sự chán cái có quay về cái Không của ngoại đạo, mê cái vô văn (không nghe) hữu lậu nên gọi là Hoặc (Mê Lầm). Mờ tối âm ẩn thì vào Vô Sắc Giới. Hạng hữu tưởng Vô Sắc này chẳng thành cái thân của nghiệp, nhưng sanh Vô Sắc Giới nên cũng có yết nam tiêu tán.

    Thần quỷ tinh linh không có hình trạng thật sự, hình như có, hình như không nên gọi là ảo tượng. Như cúng vái cầu đảo thì nương tựa nơi ảnh tượng, hết lòng cảm mộ ứng thông thì chỉ có nhớ tưởng. Cái hình trạng tiềm kết chẳng phải có thực sắc nên chỉ có yết nam hữu tưởng.

    Đất, cây, vàng, đá có Sắc mà không có Tưởng, ngoan không làm nhân nên gọi là Si. Ngoại đạo cho sắt, đá cứng rắn là vô tình mà hữu mệnh bèn tập định ngưng đọng như tro tàn, khô khan mê độn, gặp vật thành Hình, giống như tiên Hoàng Đầu hóa thành đá, đó là yết nam Vô Tưởng. Đây là do tà kiến ngoại đạo hóa ra vậy. Hữu Sắc Vô Tưởng không ngu ngoan mà làm cây, đá thì bám chấp mà làm tinh diệu, đó là Tướng Phần trổi vượt hóa nên mà làm vật vậy. Hữu Tướng Vô Sắc chẳng u ẩn mà làm quỷ vật thì tan ra mà làm không hình thể, đó là Kiến Phần trổi vượt hóa nên mà làm Thần vậy. Thần Thuấn Nhã Đa (Hư Không) không có thân mà có cảm giác là thuộc về Vô Sắc Giới.

    Những thứ đó đều do sáu Vọng Tưởng lộn loạn mà ra, chỉ vì đạo nhãn chẳng sáng mà phải như vậy.

    Có nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí: “Thân này vô tri, như đất, cây, ngói, đá. Ý này ra sao?”

    Sư bước xuống thiền sàng, vặn tai nhà sư. Nhà sư đau quá la lên.

    Ngài nói: “Ngày nay mới nắm đầu được cái gã vô tri!”

    Nhà sư làm lễ, lui ra.

    Ngài gọi : “Xà Lê!”

    Nhà sư ngoái đầu lại.

    Ngài nói : “Vào trong thiền đường, chớ có nói ra!”

    Hỏi rằng : “Sao thế”.

    Ngài nói : “Hẳn có người cười tâm lão bà [Từ bi] của Kim Phong này”.

    Lại có một hành giả ngồi trong tịnh thất, hào quang tỏa sáng ra, thiền sư trụ trì e mê hoặc trong chúng, nên đuổi đi. Đó là tu tập lầm loạn, chẳng rõ cái chí lý bình thường vậy.

    “Phải biết Đạo chẳng xa người. Người ở nơi Đạo như cá ở trong nước, chưa hề có khoảnh khắc xa rời. Chỉ chẳng biết mình, chạy đuổi theo vật nên chung thân chẳng tự biết. Phật nói Đại Giác; Nho nói Tiên Giác, là chỗ Giác này vậy. Người xưa có câu “Xưa nay nào rớt lọt, rõ ràng ngay trước mắt”.

    Lại nói : “Đạo lớn chỉ ngay trước mắt. Chính vì trước mắt nên khó thấy. Muốn rõ Chân Thể của Đạo thì chẳng rời ngôn ngữ, thanh sắc!”

    Lại nói:

    “Đêm đêm ôm Phật ngủ

    Sáng sáng lại cùng dậy

    Đi đứng trọn theo nhau

    Nói nín cùng yên ở

    Muốn rõ chỗ Phật ư

    Chỉ lời, tiếng là đó!”.

    Đó là chỗ nhà Phật nói Đạo là rất thân thiết vậy.

    “Đứng thì thấy sờ sờ trước mắt. Ngồi trên xe liền thấy dựa nơi đòn ngang của xe. Ngắm xem thì ở trước, hốt nhiên là ở sau. Nắm qua tả hữu thì ngay đầu mối”.

    “Khốn nỗi, Đạo này chỉ có thể tâm truyền, chẳng lập văn tự. Bởi thế, Đức Thế Tôn đưa hoa lên mà Diệu Tâm truyền cho Ngài Ca Diếp. Đức Đạt Ma ngó vách mà tông chỉ phó cho Ngài Thần Quang. Sáu Cánh đã bày (từ Tổ Đạt Ma đến Lục Tổ) thì ngàn hoa đua nở, phân Tông khai Phái mà mỗi mỗi môn đình. Thế nên có nháy mắt, nhướng mày, đưa nắm tay, dựng ngón tay, hoặc vung gậy, quát hét, dựng phất, dỡ chùy, hoặc cầm chĩa, dương cung, đá cầu, múa hốt. Hoặc đào đá, ban đất, đánh trống, thổi lông, hoặc nín hoặc nói, hoặc hô hoặc cười, cho đến hết thảy phương tiện đều chỉ thân thiết vì người. Nhưng chỉ vì cực kỳ thân thiết mà người ta phần đông hoang mang. Chớp mắt là thấy, chẳng cách mảy tơ! Giả như trầm ngâm thì xa vời muôn dặm! Muốn rõ Đạo này chớ để trợt qua! Tổ Tổ truyền nhau đến nay chẳng dứt.

    Phàm như thế thì đều hợp với diệu chỉ của Tông Môn, đắc cái Chân Cơ của giáo ngoại biệt truyền vậy. Bởi thế cái học của tôi ắt là cầu tự được mới thôi. Hạnh phúc cho tôi là một đêm nọ được khai ngộ nên phàm mắt thấy gì, tai nghe gì, tâm nghĩ gì, miệng nói gì, tay chân vận động gì đều không gì chẳng là mầu nhiệm (diệu). Được rồi càng lâu ngày càng thêm hiện tiền. Có khi đem trao cho người, người chẳng lãnh nhận, mới biết Diệu Đạo quả chẳng có thể lấy văn tự mà truyền.

    “Hởi ôi, Đạo là vậy, có được người thì truyền, không có người thì tuyệt mất. Tôi đã được thế, có ai giống vậy không nhỉ? Suốt đời tôi có người ư? Không có người ư? Trong chỗ “Chẳng thể đắc” mà biết vậy. Nên tôi làm lời ký, tụng, ca để lưu truyền việc này, lại trước tác thiên này để chỉ dạy học trò của tôi đó”.



  2. #332
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Do nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Ngụy nên hòa hợp với Nhiễm thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng nhân y. Do đó mà có yết nam “Không phải có Sắc mà có Sắc” trôi lăn trong cõi nước: những loài sứa lấy tôm làm mắt... các loài đầy dẫy.

    “Do nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Tánh nên hòa hợp với Chu” thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hô triệu. Do đó mà có yết nam “Chẳng phải Vô Sắc mà Vô Sắc” trôi lăn trong cõi nước: Chú trớ, yếm sanh... các loài đầy dẫy.

    “Do nhân thế giới hợp vọng luân hồi, điên đảo về Võng nên hòa hợp với Dị thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hồi hỗ. Do đó mà có yết nam “Không phải Có Tưởng mà Có Tưởng” trôi lăn trong cõi nước : các loài tò vò, lấy chất khác thành thân mình... các loài đầy dẫy.

    “Do nhân thế giới oán hại luân hồi, điên đảo về Sát nên hòa hợp với Quái thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng ăn thịt cha mẹ. Do đó có yết nam “Không phải Vô Tưởng mà Vô Tưởng” trôi lăn trong cõi nước: như con thổ kiêu ấp đất cục làm con, hay chim phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn lên thì trở lại ăn thịt cha mẹ... các loài đầy dẫy.

    “Đó là mười hai chủng loại chúng sanh.

    Thông rằng :

    Sắc, Tưởng là có hay là không, cũng như nghĩa Âm Dương đủ bao gồm muôn biến hoá. Nhưng trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, tựa như Âm mà thật là Dương, hình như Dương mà thật là Âm, sự biến hóa không lường nổi. Loạn tưởng không cùng, chúng sanh vô tận, chẳng phải cái Trí Đại Viên Cảnh của Phật thì ai mà thấu suốt cho nổi?

    Tương đãi luân hồi là nương mượn vật, nên gọi là Ngụy. Con sứa dùng con tôm làm mắt, nghĩa là chẳng phải có Sắc mà đợi vật khác để thành Sắc. Đây kia khác chất nên gọi là hòa hợp với Nhiễm Duyên.

    Còn như tà nghiệp dẫn nhau chỉ nhờ Chú Thuật hô triệu, chẳng phải đây có tánh kia cũng có thể dẫn, nên gọi là điên đảo về tánh. Bùa Chú trù yếm này cũng hay biến hiện được, chẳng phải là Vô Sắc Tướng. Nhưng mượn Âm Thanh mà tạo ra hình chất, không do sanh lý nên vốn là Vô Sắc. Cái sức Chú này từ con người làm ra, không có gì lạ lắm.

    Con tò vò vốn là sâu lá dâu, chẳng phải có cái Tưởng con ong mà lại thành cái Tưởng con ong, vì lấy chất khác nên chẳng phải như thai hay trứng là truyền mạng trong Tưởng, rốt là thành lẫn nhau. Chú kia theo ta, lấy Vọng hóa ra Vọng, cái khác mà lấy cho là của mình, nên gọi là hồi hỗ. Đây là loài khác nhau mà nương nhau, tuy gọi là hợp vọng cũng chưa là kỳ quái.

    Như con thổ kiêu, phá kính, lấy vật khác làm con, con lớn lên thì trở lại ăn thịt, mất hết luân thường đạo nghĩa, chẳng phải là cái lý thường nên gọi là kỳ quái. Tất cả đều do nhiều đời oán hại nên sanh lẫn nhau, giết lẫn nhau, đổi thương thành oán, đổi oán thành thương, vay trả trả vay mà thành ra một chủng loại.

    Con thổ kiêu ăn mẹ, con phá kính ăn cha chẳng phải là Vô Tưởng, nhưng đất cục và quả độc thì “Có Tưởng” sao? Đến như Ghẻ-Mặt-Người [Xem tích Ông Ngô Đạt trong kinh Thủy Sám. Ở đây sơ lược như sau. Ông Ngô Đạt, kiếp trước tên Viên Án, có hại một người tên Triều Thố. Kiếp này y đi theo báo oán: làm một cái mụt ghẻ lồi lên hình mặt người, hành hạ đau đớn để trả thù] của Quốc Sư Ngô Đạt là mối thù oán nhiều đời giữa Viên Án và Triệu Thố, nơi một thân mà tự hại nhau, thì loài thổ kiêu, phá kính cách thân mà hại nhau đâu có thể so sánh. Viên Án, Triệu Thố chẳng phải là Vô Tưởng, mà cái Ghẻ-Mặt-Người chẳng phải là Hữu Tưởng. Đây là do phiền não kết thành, mỗi mỗi có tám mươi bốn ngàn luân hồi, theo nghiệp đời đời không cùng. Một thời đầy dẫy, thì không cõi giới nào chẳng có, nhiều kiếp đầy dẫy thì không đời nào mà chẳng thế! Không có chúng sanh Chánh Báo lấy gì mà cảm thọ Y Báo? Không có thế giới Y Báo lấy gì mà thành ra Chánh Báo? Vậy điên đảo của thế giới chính là điên đảo của chúng sanh. Cũng đều do phản bội cái Giác, hợp với Trần chứ chẳng có hai nhân nào hết vậy. Chỗ này đối với chúng sanh thì chỉ dạy sơ lược về nguồn gốc điên đảo, còn đối với thế giới thì chỉ rõ thực trạng của điên đảo. Điên Đảo chính là nghiệp quả mà ở trước nói là “Ba cái tương tục”, là gồm chung hết vậy.

    Nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng: “Như nay thọ Giới, thân khẩu trong sạch, đã đủ muôn thiện, có được Giải Thoát không?”

    Tổ Trượng nói: “Giải Thoát chút ít! Nhưng chưa được Tâm Giải Thoát, cũng chưa được Nhất Thiết Xứ [Cả thảy chỗ] Giải Thoát”.

    Hỏi rằng: “Thế nào là Tâm Giải Thoát và Nhất Thiết Xứ Giải Thoát?”

    Tổ Trượng nói: “Chẳng cầu Phật, Pháp, Tăng cho đến chẳng cầu Phước Trí, Tri Giải hết thảy đó. Cái tình Sạch Dơ hết ráo mà cũng chẳng giữ cái không cầu này cho là phải. Cũng chẳng trụ nơi chỗ hết này, cũng chẳng khoái Thiên Đường, sợ Địa Ngục, trói buộc hay giải thoát đều không ngại. Như thế thì thân tâm cùng nhất thiết xứ đều là Giải Thoát.

    “Ông chớ nói có chút phần Giới Thân, Khẩu, Ý trong sạch bèn cho là xong, mà chẳng biết hằng sa Giới Định Huệ, Vô Lậu giải thoát đều chưa ăn nhằm một mảy lông. Hãy nỗ lực tiến tới, cần dũng mãnh cứu xét lấy, chớ đợi đến tai điếc mắt mờ, da nhăn tóc bạc, già khổ đến thân, sầu thương rối buộc, nước mắt lưng tròng, tâm hồn sợ sệt, hoàn toàn không có chỗ tựa nương, chẳng biết chỗ về. Đến lúc đó rồi thì sửa sang lo liệu chẳng được đâu! Dù có Phước Trí, danh văn, lợi dưỡng đều chẳng thể cứu.

    “Cũng bởi Tâm Nhãn chưa mở ra, chỉ nghĩ nhớ theo cảnh, chẳng hề chịu soi trở lại, lại không thấy Phật Đạo. Bao nhiêu nghiệp duyên thiện ác một đời hiện ra trước mắt, hoặc vui mừng hoặc khủng khiếp. Năm uẩn, sáu đường cùng lúc hiện ra trước mặt, phô bày nhà cửa đẹp đẽ, thuyền bè xe cộ tráng lệ huy hoàng. Tất cả đều từ thân tâm tham ái mà hiện ra. Đường ác mà mê mờ đều biến thành cảnh tốt đẹp, chỉ tùy theo chỗ nghiêng nặng của tham ái, sự dẫn dắt của nghiệp thức, theo chỗ bám níu mà thọ sanh, tuyệt chẳng có chút gì tự do. Rồng, thú, tốt, xấu mịt mờ đều chưa định”.

    Hỏi rằng: “Như sao là được phần tự do?”

    Tổ Trượng nói: “Ngay đây thì được. Hoặc là đối với ngũ dục, bát phong, tình không lấy bỏ, tiếc lẩn, tham ái. Tình ngã sở tuyệt mất, dơ sạch tiêu vong. Như mặt trời, mặt trăng giữa không chiếu soi không dính dáng. Tâm tâm như gỗ đá, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, hay như con hương-tượng vượt sông, chặt đứt dòng mà qua, không còn nghi ngờ vướng víu. Người như thế thì Thiên Đường, Địa Ngục làm sao nhiếp giữ”.

    Than ôi, Tổ Bách Trượng đinh ninh răn dạy, chẳng tiếc từ bi. Cần ở nơi chỗ căn dặn mà dũng mãnh tỉnh thức, dựng đứng tâm tư, mới hay rằng cái nhân điên đảo nào có do ai, mới hay cái Chân Tam Ma Địa vốn tự sẵn đủ xưa giờ. Đến chỗ “Sạch dơ đều mất, Thiên Đường Địa Ngục làm sao nhiếp giữ” thì còn mười hai chủng loại nào mà xoay chuyển được ư?



  3. #333
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    III. KHAI THỊ BA TIỆM THỨ TU TẬP

    Kinh:

    “Anan, như thế chúng sanh trong mỗi mỗi loài cũng đều đầy đủ hết mười hai thứ Điên Đảo. Cũng như dụi mắt thì hoa đốm cuồng loạn phát sanh, Chân Tâm tròn sáng trong sạch nhiệm mầu mà Điên Đảo thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như thế. Nay ông tu chứng Tam Ma Đề của Phật thì đối với các loạn tưởng làm nguyên nhân cội gốc của các Điên Đảo, phải lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được. Cũng như trong đồ đựng sạch sẽ trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro, chất thơm rửa sạch đồ đựng, rồi sau mới chứa nước cam lồ.

    “Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ các Trợ Nhân. Hai là, chân tu, nạo sạch Chính Tính. Ba là, tăng tiến trái lại Hiện Nghiệp.

    Thông rằng:

    Mười hai thứ Điên Đảo đều từ trong Chân Tâm minh tịnh biến khởi. Bắt đầu trong một niệm Ái Thủ. Có Thương thì có Ghét, có Thủ thì có Xả. Do đó, bốn thứ Thai, Noãn, Thấp, Hóa đều do Tình, Tưởng, nặng nhẹ tùy theo mỗi loài.

    Các loài Hữu Sắc, Vô Sắc, Hữu Tưởng, Vô Tưởng chỉ là hai câu Hữu, Vô. Nhưng do cái Tưởng mà sanh hóa, thì Tưởng càng ngày càng vi tế, sự sanh hóa càng lần lần thuần khiết. Các loài hoặc chẳng phải Hữu Sắc, hoặc chẳng phải Vô Sắc, hoặc chẳng phải Hữu Tưởng, hoặc chẳng phải Vô Tưởng gồm ở trong ấy hai cái “Cũng Là”, hai cái “Chẳng Phải”. Quả là do Tình mà biến hóa, Tình càng vướng mắc thì càng biến hóa càng khổ. Tình, Tưởng, Thương, Ghét phô bày lẫn lộn, không loài nào chẳng có, nên trong mỗi loài mỗi mỗi đều đủ mười hai thứ điên đảo.

    Tình, Tưởng giống như mắt nhặm; Điên Đảo giống như hoa đốm lăng xăng. Hoa đốm lăng xăng ở trong hư không mà chẳng ngăn ngại được hư không. Điên Đảo ở trong Chân Tâm Diệu Viên mà chẳng thể chướng ngại Tánh Diệu Viên. Dù đủ loạn tưởng hư vọng thế kia, rốt ráo nơi Chân Tâm minh tịnh chẳng hề ngăn ngại, rồi sau thấy được cái Diệu Viên vậy. Chân Tâm Diệu Viên tức là Tam Ma Địa, rỗng suốt nhiệm mầu bao la như hư không tạnh ráo. Mười hai thứ Điên Đảo chỉ do sáu Vọng Tưởng hỗn loạn làm Bổn Nhân. Mắt nhặm nếu trừ, hoa cuồng tự dứt.

    Nhưng trừ loạn tưởng phải lập ra ba món tiệm thứ. Vì sao? Vì như một cái bình sạch, vốn là đồ chứa đựng nước cam lồ, một khi bị mật độc nhiễm dơ mà đổ ngay cam lồ vào thì cam lồ trở thành thuốc độc. Ắt là phải súc rửa bằng nước sôi cọng với tro, chất thơm cho trơn sạch, trải qua tháng năm, thì độc khí dần dần tiêu, cam lồ mới có thể cho vào. Ba món tiệm thứ này chính là nước sôi, tro, chất thơm để rửa sạch loạn tưởng vậy.

    Bốn thứ khuyên dạy ở trước là Sát, Đạo, Dâm, Vọng đã đủ Chánh Giới, đây lại trừ Trợ Nhân của Dâm, Nộ, Si, nạo sạch cái Chánh Tính của Sát, Đạo, Dâm, Vọng, dần dần xa lìa Vô Minh hiện hành. Do đấy tăng tiến, ngược dòng toàn nhất, sáu cái Dụng chẳng hiện hành, trái nghịch Hiện Nghiệp thì tâm không trôi dạt. Tình ái khô khan, loạn tưởng không tự khởi lên thì Điên Đảo lấy đâu mà sanh? Chỉ một Chân Tâm rồi sau mới lập các Thánh vị. Bốn mươi bốn Tâm để nhập chân Tam Ma Địa của Diệu Giác. Cũng như mật độc đã tiêu, bèn chứa được cam lồ vậy.

    Thiền sư Đại Tùy Chân thượng đường nói: “Tánh này vốn xưa nay thanh tịnh, sẵn đủ muôn đức. Chỉ bởi hai duyên nhiễm, tịnh mà có sai khác. Cho nên các Thánh ngộ nó thì cứ một bề dùng trong sạch mà thành đạo Giác. Người phàm mê nó thì cứ một bề dùng dơ nhiễm mà chìm đắm luân hồi. Thể nó không hai, nên kinh Bát Nhã nói “Không hai, không hai phần vì không riêng không dứt vậy”.

    Nếu tin được lời nói của Ngài Đại Tùy, “Thể nó không hai”, thì vốn là một bình chứa tinh sạch, chứa độc mật chẳng có hao bớt mà đựng cam lồ cũng chẳng tăng thêm. Thẳng đến Bồ Đề Vô Thượng, nhiễm tịnh đều không dính dáng, thì sau có dẹp bỏ chỗ nói về ba món tiệm thứ cũng không phải là không thể được vậy.



  4. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015)

  5. #334
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nào là Trợ Nhân?

    “Anan, mười hai loài chúng sanh đó trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà sống, đó là Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực, Thức Thực. Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sanh đều nương cái ăn mà sống còn.

    “Anan, tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy những chúng sanh cầu Tam Ma Đề phải dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này, ăn chín phát lòng dâm, ăn sống thêm lòng giận. Trong thế gian, những người ăn rau cay đó dầu có thể tuyên thuyết mười hai bộ kinh, thì Tiên Thiên mười phương không thích hôi nhớp đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói v.v... nhân lúc người ấy đang ăn bèn liếm môi mép. Thường ở với quỷ, nên phước đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được lợi ích. Người ăn rau cay ấy, tu Tam Ma Địa, Bồ Tát, Thiên Tiên, Thiện Thần mười phương không đến thủ hộ. Đại Lực Quỷ Vương thừa cơ hội đó hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê phá Cấm Giới, khen Dâm, Nộ, Si. Khi chết tự làm quyến thuộc Ma Vương, hưởng phước Ma hết, đọa vào ngục Vô Gián. Anan, người tu Đạo Bồ Đề vĩnh viễn dứt bỏ năm thứ rau cay.

    “Đó là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

    Thông rằng:

    Đoạn Thực cũng gọi là Đoàn Thực, nghĩa là lấy tay viên tròn lại mà ăn (người Ấn độ). Nhưng có thứ không thể vê tròn nên đổi thành đoạn. Đoạn là cắt ra từng khúc, như dao cắt. Các thức ăn cơm, bún, rau... ăn theo lối cắt. Đó là cách ăn của con người.

    Xúc Thực là ăn theo lối Căn, Cảnh, Thức tiếp xúc nhau mà thành. Chỉ tiếp xúc cái khí vị mà thôi, đó là cách ăn của Quỷ Thần.

    Tư Thực là cõi Thiền Thiên không có Đoạn Thực, chỉ có ăn bằng tư tưởng, nên nói “Nghĩ đến ăn thì được ăn”.

    Thức Thực là cõi Vô Biên Xứ, không ăn bằng tư tưởng mà chỉ có cái Thức biết ăn, Thức thủ (hiểu lấy) mùi vị Pháp đầy đủ nên no.

    Các lối ăn Xúc, Tư, Thức Thực cũng đều có thể nuôi sống như đoạn thực, nên nói “Đều nương theo cái ăn mà sống còn”. Bộ Hiệp Luận nói: “Thức thực là A Lại Da Thức nương theo ba cách ăn trước mà tồn tại. Làm sao để biết ? Năm Thức trước là Tướng Phần Tự Chứng của A Lại Da. Thức Thứ Sáu và Thức Thứ Bảy là Kiến Phần Tự Chứng của A Lại Da. Phạm vi của năm Thức trước nương vào Đoạn Thực. Thức Thứ Sáu phân biệt nương vào Xúc Thực. Thức Thứ Bảy nương vào Tư Thực. Cho nên Thức Thực nương vào ba loại ăn trước mà tồn tại”.

    Tất cả chúng sanh ăn thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết, thì há năm loại rau cay nhớp mà không trợ Dâm, sanh Giận ư ? Rốt cục Trời, Tiên xa lánh, thường ở với Quỷ, cũng chẳng khác gì ăn thức ăn độc. Nhưng Dâm, Giận ngày càng tăng, hẳn là chê phá Cấm Giới, đọa vào ngục Vô Gián. Như vậy há có thể không cẩn thận ngay ở chỗ vi tế ư?

    Hòa Thượng Kim Ngưu mỗi lần đến giờ ăn, tự đem thùng cơm đến trước tăng đường, múa cười ha hả mà rằng: “Bồ Tát ơi, đến ăn cơm!”

    Ngài Tuyết Đậu nói: “Tuy nhiên như thế, Kim Ngưu chẳng phải hảo tâm!”

    Nhà sư hỏi Tổ Trường Khánh: “Cổ nhân nói “Bồ Tát ơi, đến ăn cơm”, ý chỉ như thế nào?”

    Tổ Khánh nói: “Cũng giống nhân bữa ăn mà ca mừng”.

    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

    “Trong bóng mây trắng cười ha hả

    Hai tay bưng đến trao người ta

    Nếu quả Kim Mao Sư Tử nhỏ

    Ngoài ba ngàn dặm thấy sai ngoa”.


    Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Kẻ học nhơn mới vào tùng lâm, xin thầy chỉ bày cho”.

    Tổ Châu nói: “Vậy ăn cháo rồi chưa?”

    Vị tăng: “Dạ, ăn rồi”.

    Tổ Châu nói: “Thì rửa chén bát đi!”

    Vị tăng tỉnh ngộ.

    Tổ Vân Môn nói: “Hãy nói là có chỉ bày hay không chỉ bày? Nếu nói có thì Triệu Châu nói cái gì với ông ta vậy? Nếu nói không thì vì sao vị tăng kia lại ngộ?”

    Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

    “Cháo xong thì dạy rửa bát đi

    Rỗng rang tâm địa tự dung thông

    Như nay, khách tham thiền no đủ

    Thử hỏi khoảng này có ngộ không?”.





  6. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015)

  7. #335
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nào là Chính Tính?

    “Anan, chúng sanh như thế vào Tam Ma Đề trước hết cốt phải nghiêm trì Giới Luật thanh tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ lòng Dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. Anan, người tu hành đó, nếu chẳng đoạn Dâm Dục và Sát Sanh mà ra khỏi ba cõi, thì không thể có. Phải quan sát sự Dâm Dục như rắn độc, như thấy giặc thù.

    “Trước hết, hãy giữ gìn Tứ Khí, Bát Khí của Giới Luật Thanh Văn, nắm giữ thân chẳng động. Sau đó, hành trì Luật Nghi thanh tịnh của hàng Bồ Tát, nắm giữ tâm chẳng khởi. Giới Cấm thành tựu thì trong thế gian đời đời không còn nghiệp sanh sát nhau. Trộm cướp chẳng làm, thì không còn mắc nợ nhau, và khỏi trả nợ đời trước trong thế gian. Người trong sạch đó tu Tam Ma Địa, ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe Pháp, chính mình vâng lĩnh Thánh Chỉ của Phật, đắc đại thần thông, dạo khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm.

    “Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.

    Thông rằng:

    Sát, Đạo, Dâm sao gọi là Chính Tính?

    Kinh Viên Giác nói: “Hết thảy chúng sanh đều lấy Dâm Dục mà “chính [Tạo thành]” tánh mạng”. Vì Chánh Báo của chúng sanh do cảm lấy Dâm Dục mà sanh ra, nên lấy Dâm Dục làm Chính Tính, tức là ở trước có nói Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp. Lại vì đối với Trợ Nhân mà nói, nên gọi là Chánh Tính. Nói là Nạo Sạch, ví như nạo khoét cây làm thuyền, dần dần làm cho trống không để mang chở. Nên Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp đều không mới hợp với nghĩa nạo vét.

    Cái Căn Dâm rất khó đoạn, phải xem như rắn độc, vì hại đến Pháp Thân vậy. Phải thấy như giặc thù vì làm tổn thương Huệ Mạng. Trước giữ Giới Thanh Văn khiến không có thân phạm. Sau giữ Giới Bồ Tát khiến không có tư tưởng phạm. Cấm Giới thành tựu thì Giới mà không có chỗ Giới. Dâm dứt thì không còn Nghiệp tương sanh. Sát dứt thì không có Nghiệp tương sát. Trộm cắp dứt thì không có Nghiệp trả nợ. Ngay nơi thân tâm này sáu Căn thanh tịnh, không cần Thiên Nhãn mà chứng Ngũ Thông. Nhãn Thông nên xem thấy mười phương. Nhĩ Thông nên nghe Phật thuyết pháp. Thần Thông nên có thể dạo khắp mười phương cõi. Túc Mạng Thông nên không có khó khăn nguy hiểm. Tha Tâm Thông, tự tại ở trong ấy. Duy chỉ có Lậu Tận Thông thì không dễ chứng. Chỗ này giống kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Thân hiện tại được sáu Căn thanh tịnh tức là địa vị tương tự. Thế thì nghiêm giữ Giới Luật thanh tịnh đâu có thể tự trễ nải ư?”

    Thiền sư Dũng Tuyền Hưng thượng đường nói: “Tôi bốn mươi chín năm ở trong ấy mà còn tự có khi lộn xộn (tẩu tác). Này các ngươi chớ múa mỏ khua môi. Người kiến giải thì nhiều, người hành giải cả vạn, trong đó không có một người hiểu rõ lời lẽ biết suốt cái cần yếu. Nếu Thức chẳng hết, dám nói hết chuyện luân hồi ư? Vì sao như vậy? Bởi vì Thức Lậu chưa hết. Ông mà hết sạch ngay giờ mới được thành lập. Cũng gọi là Lập Trung Công, chuyển công tựu thành cái kia. Cũng gọi là Tựu Trung Công, thân với cái kia vậy. Bởi thế, tôi mới nói: Người thân chẳng được độ, hắn chẳng độ người thân. Thí dụ như vậy còn chẳng hiểu thì chỉ tiến lên hít lấy cái hơi mù mịt, chỉ nắm giữ cái tánh loạn động nơi đầu lưỡi. Chẳng thấy Tổ Động Sơn nói “Tương tục, ấy là đại nạn”. Các ông cần biết có sự việc này, nếu không biết, có ngày rồi khóc lóc!”

    Mới biết rằng Giới Hạnh dũng mãnh, cốt yếu là dứt sạch tức thì, chuyển công thành vị, vào Tam Ma Địa. Chẳng thế thì dùng huyễn để tu huyễn, uổng công siêng nhọc, ăn nhằm gì đến Tự Tánh đâu!



  8. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015)

  9. #336
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nào là Hiện Nghiệp?

    “Anan, người giữ gìn Cấm Giới thanh tịnh như vậy, Tâm không tham dâm, đối với sáu Trần ở ngoài không hay giong ruổi theo. Do không giong ruổi nên tự quay về Tánh gốc. Trần đã chẳng duyên, Căn không chỗ hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu Dụng chẳng hành. Mười phương cõi nước sáng suốt thanh tịnh, như ngọc lưu ly bên trong treo mặt trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, bình đẳng diệu viên, được đại an ổn. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Từ đó lần lượt tu hành, tùy chỗ phát Hạnh mà an lập các Thánh vị.

    “Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.

    Thông rằng:

    Hiện Nghiệp là Nghiệp tạo ra của Vô Minh hiện hành, tức là các Nghiệp Sát, Đạo, Dâm ở trên.

    Giữ Cấm Giới thì đối với sáu Trần ở ngoài chẳng hay giong ruổi theo, hay đoạn trừ phiền não khách trần, hay trừ được Kiến Hoặc. Trần đã chẳng duyên theo thì Căn không chỗ gặp hợp, hay phá Vô Minh vi tế, hay trừ được Tư Hoặc. Chưa trừ hai cái Hoặc thì cũng còn tùy thuận theo Hiện Nghiệp, chưa chịu nghịch lại. Giờ tự quay vào lặng trong, nghịch lại với Hiện Nghiệp vậy. Vì giong ruổi nên sáu Dụng hiện hành, thế là trái với Giác, hợp với Trần thành sáu Vọng Tưởng loạn khởi ra Nghiệp hiện giờ. Bởi ngược dòng nên sáu Dụng chẳng hiện hành, thế là trái với Trần, hợp với Giác thành một Tánh trong lặng tròn sáng, Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Lý mật trí viên tịnh hành nhiệm mầu phù hợp không dấu vết. Pháp Thân thanh tịnh như ngọc lưu ly. Chân Trí trong suốt giống như trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, Căn, Cảnh đều dung thông, Diệu Viên bình đẳng, được đại an ổn bèn được Vô Sanh Pháp Nhẫn mà vào Tam Ma Địa. Từ đó tiệm tu, an lập Thánh Vị cho đến bậc Đẳng Giác.

    Cái Giác này mới được vị Càn Tuệ Địa ban đầu trong Tâm Kim Cang, bèn chứng Tam Ma Địa của Phật, cứu xét tận hết bổn nhân, cùng tột vị Diệu Giác vậy. Đây là chỗ bước vào, đoạn văn sau là chỗ tu, rốt ráo chỗ chứng, đều là Tam Ma Địa của Phật, đó gọi là “Cửa vào một đường Niết Bàn của mười phương Chư Phật”.

    Chỗ này cốt ở Đốn Chứng, cớ sao lại lập thêm các món tiệm thứ để tăng tiến? Bởi vì Lý cần Đốn Ngộ, Sự theo đó lần hồi dứt trừ. Trước hết, trừ cái Trợ Nhân, kế nạo sạch Chánh Tánh, rồi trái với Hiện Nghiệp. Tất cả đều ở trên Sự mà tiêu dung dần dần. Cảnh càng vào Chân thì công phu càng thêm tế mật. Tuy chủ Đốn Ngộ, chẳng bỏ Tiệm Tu. Đây là gồm trọn cả ba căn Thượng, Trung và Hạ nên là Pháp Môn Viên Đốn vậy.

    Thiền sư Kính Sơn Liễu Nhất thượng đường, nói: “Người học Đạo chạm cảnh, gặp duyên mà không thể lập tức thấu thoát (tỏ suốt) đều vì Nghiệp Thức sâu nặng, Vọng Tình gắn chặt. Sáu cửa chưa dứt thì một chỗ chẳng thông. Cái Tánh thuần túy trong sạch không một điểm vết thì phàm phu khó đến. Cần ngay “Vào rừng không động lá, vào nước không nổi sóng” mới có thể thuận dòng sanh tử, vào với nhân gian. Chư vị ơi, có hiểu chăng?”

    Bèn lấy cây gậy quơ vẽ mà nói: “Chỉ hướng trong ấy mà tiến nhận”.

    Giả sử có tay nào ở đây tiến nhận được, giống như lưu ly trong sạch ngậm trăng sáng ở trong, thì có gọi là người xong việc không, nhỉ?

    Chẳng thấy Tổ Nam Tuyền đang cùng Ngài Triệu Châu thưởng trăng.

    Ngài Châu nói: “Bao lâu thì được tương tự như cái kia?”

    Tổ Tuyền nói: “Vương lão sư này hai mươi năm trước đã từng như vậy đó”.

    Ngài Châu: “Nay thì sao?”

    Tổ Nam Tuyền bèn quay về phương trượng.

    Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Hai mươi năm trước để yên đó. Hai mươi năm sau làm sao đây? Có biết chỗ bước của Vương lão sư chăng? Trong nhà không linh sàng, vợ đâu mặc đồ tang!”

    Ôi, “Thanh tịnh như lưu ly bên trong treo trăng sáng” tức là chỗ đoạn sau nói “Càn Tuệ Địa” vậy. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó thì chỗ thấy chốn nào chẳng sáng tỏ, nhưng còn thiếu bước dẫm đi. Thế nên, có biết chỗ dẫm đi của Tổ Nam Tuyền thì hai mươi năm trước được tương tự cái kia cũng là chưa xong.



  10. The Following 2 Users Say Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015),thubuon (11-06-2015)

  11. #337
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

    MỤC HAI: AN LẬP CÁC THÁNH VỊ



    I. CÀN TUỆ ĐỊA.

    Kinh:

    “Anan, người thiện nam ấy, Dục Ái cạn khô, Căn Cảnh chẳng phối hợp, cái Thân Tâm hiện tại không còn sanh tiếp nữa. Nắm lấy Tâm rỗng sáng, thuần là Trí Huệ. Tánh Huệ toàn sáng tỏ sáng mười phương thế giới. Mới có cái Huệ khô khan, gọi là Càn Huệ Địa.

    Thông rằng:

    Dục Ái thấm nhuần thành nghiệp, Căn và Cảnh tạo nghiệp nên sanh tử nối tiếp, mê muội chẳng quay về. Nay lòng Dục khô cạn, Cảnh lui đi, nên cái Thân Tâm nhân thế chẳng còn sanh tiếp. Ngược dòng toàn nhất ắt giữ lấy cái Tâm rỗng sáng. Sáu Dụng chẳng hiện hành tức thuần là Trí Huệ. Chẳng dùng gì nơi Dục Ái thì Huệ chẳng lìa ngoài Tự Tánh, như ánh sáng viên ngọc không dùng soi chiếu vật mà chỉ tự chiếu cái Thể của nó.

    Đây là cái sáng suốt cho đến chỗ không lập ra cái Sở, thì cái sáng toàn vẹn vậy. Mười phương cõi nước rỗng sáng thanh tịnh, ví như lưu ly ở trong treo trăng sáng, nên gọi là “Tỏ sáng”. Đây là Dục Ái cạn khô nên phát Huệ, mới gọi là Càn Huệ. Lại chỉ mới có cái Huệ khô khan, chưa đến chỗ Diệu Viên, nên là Sơ Địa. Trong Thập Địa của kinh Đại Phẩm thì Địa đầu tiên gọi là Càn Huệ. Trong Viên Giáo của Ngài Thiên Thai, trước Thập Tín lập ra Ngũ Phẩm Vị, gọi là nghĩa Thôi [Chuyển đổi, từ bỏ] cũng giống như Càn Huệ Địa của kinh Đại Phẩm. Kinh này chưa đến đây mà chỗ lập ra danh vị của Ngài Thiên Thai đã thầm hợp với Tâm Phật. Chẳng phải là bậc tự thân đến được hội Linh Sơn thì làm sao có được như thế!

    Quan Đại Phu Lục Tuyên thưa với Tổ Nam Tuyền: “Đệ tử cũng hiểu sơ sơ Phật Pháp”.

    Tổ Tuyền bèn hỏi: “Trong mười hai thời, ông làm gì?”

    Đáp: “Chẳng dính mảy lông”.

    Tổ Tuyền nói : “Còn là kẻ dưới thềm”.

    Lại nói: “Ông há chẳng nghe “Quân Vương có Đạo chẳng thu bầy tôi có Trí” ư?”

    Về sau, có nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí rằng: “Khi “Ngàn núi không mây, ngàn dặm tuyệt ráng” thì sao?”

    Tổ Chí nói: “Ngọn Phi Thiên Lãnh, phía nào mà chẳng mửa hết ra!”

    Quả là cùng Tổ Nam Tuyền trước sau một vết bánh xe. Thế biết Càn Tuệ Địa cũng là chỗ tạm nghỉ. Bằng như cùng tận Diệu Giác thì cái ý rốt ráo phải tự riêng khác.



  12. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

  13. #338
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    II. THẬP TÍN

    Kinh:

    “Cái tập khí của ngũ dục mới khô cạn chưa tiếp thông được với dòng nước pháp của Như Lai. Tức nhân tâm này, ngay giữa lần vào Viên Diệu mở bày, theo Diệu Giác Viên chân thật, càng phát ra chân diệu. Diệu Tín thường trụ, tất cả vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung Đạo thuần Chân, gọi là Tín Tâm Trụ.

    Thông rằng:

    Ngay giữa lần vào, chẳng nghiêng về Không, chẳng nghiêng về Giả, đó là Trung Đạo Diệu Quán vậy. Vừa mới vào Quán, Tam Đế viên dung, như ba điểm của chữ Y ( ) nên gọi là Viên Diệu, đây là chỗ sức người có thể làm. Nơi Quán đã thành, theo cái Chân phát ra Diệu, khế hợp với lý Viên, nên gọi là Diệu Viên, đây là chỗ sức người không thể đáp ứng nổi.

    Trung Đạo thì y nơi Chân, Diệu thì có cái chẳng phải do Chân. Từ Chân phát ra Diệu thì Diệu đó là Chân Diệu. Diệu mà chẳng phải do Chân nên chẳng thể Thường. Trung Đạo thuần Chân nên Diệu ấy thường trụ. Cái Diệu đã thường trụ thì hết thảy vọng tưởng không còn đất để chân vậy. Cái gọi là Diệu ấy chỉ riêng người ấy rõ biết ý thú của Diệu này, không thể dùng lời nói chỉ bày cho người được. Đức tin này rất chân thật nên gọi là Tín Tâm Trụ.

    Tổ Quy Sơn nói với Ngài Ngưỡng Sơn: “Ông nên riêng tự hồi quang phản chiếu, người khác không biết chỗ tri giải của ông. Ông thử đem cái kiến giải chân thật trình lão tăng xem!”

    Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Như dạy con tự xem thì vào trong ấy không có viên vị, cũng không có một vật, một giải nào để trình Hòa Thượng”.

    Tổ Quy nói: “Chỗ không có viên vị là chỗ kiến giải của ông thì chưa rời tâm, cảnh”.

    Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Đã không viên vị, chỗ nào có pháp? Lấy không vật làm cảnh”

    Tổ Quy nói: “Vừa rồi, chính ông có kiến giải ấy, phải không?”

    Ngài Ngưỡng đáp: “Dạ, phải”.

    Tổ Quy nói: “Nếu như thế thì đầy đủ tâm, cảnh lẫn pháp, chưa thoát khỏi tâm Ngã-Sở. Nguyên vì có kiến giải trình tôi. Cho ông rõ được Tín Vị, còn Nhân Vị thì chưa!”

    Về sau, Ngài Ngưỡng Sơn hỏi Ngài Song Phụng: “Sư đệ, gần đây chỗ thấy thế nào?”

    Đáp rằng: “Theo chỗ thấy của tôi, thật không có một pháp để lưu tình”.

    Ngài Ngưỡng nói: “Kiến giải của ông còn ở trong Cảnh”.

    Đáp rằng: “Tôi chỉ như vậy. Sư huynh thì sao?”

    Ngài Ngưỡng nói: “Ông há chẳng biết “Không có một pháp để lưu tình” ư?”

    Tổ Quy Sơn nghe được, nói: “Một câu của Huệ Tịch e giết hết người trong thiên hạ”.

    Xét nghiệm như vậy, chẻ bửa như vậy mới biết “Theo Tánh Chân Thật, Diệu Viên càng phát ra Chân Diệu”. Cái chỗ Chân Tín cách nhau xa hẳn với con đường tri giải vậy.



  14. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

  15. #339
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Chân Tín sáng rõ, hết thảy viên thông. Ba thứ Ấm, Xứ, Giới không thể ngăn ngại. Như vậy cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ra trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ tưởng không quên mất, gọi là Niệm Tâm Trụ.

    Thông rằng:

    Niệm Tâm Trụ ở trong Thập Tín này là Túc Mạng Thông. Trước có nói “Cấm Giới thành tựu, sáu Căn thanh tịnh không cần Thiên Nhãn, xem thấy mười phương túc mạng thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm, cũng lần lần ra khỏi ngăn ngại” Ở đây, cả quá khứ, vị lai trong vô số kiếp đều có thể tưởng nhớ, ắt viên thông sáng rõ. Đây là trong Chân Tín phát khởi, Tánh Không đâu chẳng toàn khắp, nên suốt thông không đâu chẳng thấu đến. Đây là đã chứng Chân nên địa vị “Tương Tự” chẳng thể sánh được. Không chứng Chân thì Ấm, Xứ, Giới làm ngăn ngại, nên không thể thông suốt. Nay nắm giữ cái tâm rỗng sáng; căn, cảnh chẳng dính nhau, lâu ngày thì Chân Diệu một mình bày lộ, siêu vượt lên căn, cảnh. Do đó, tất cả tập khí do Tư Hoặc kết thành như quá khứ bỏ thân, vị lai thọ thân đều rõ ràng trước mắt, mà không quên mất.

    Cái Niệm Tâm vốn thuộc sanh diệt, nay lấy Chân Tín mà nắm giữ nó thì niệm cũng an trụ, tức niệm tức Chân, lấy Chân, Vọng dung nhau thành một. Túc Mạng Thông từ bậc A La Hán cho đến cõi Phi Phi Tưởng, các ngoại đạo thì biết trước sau đến tám vạn kiếp. Nhưng vô số kiếp tức là A Tăng Kỳ kiếp thì ngoài Phật không ai chứng được. Xứ này, người biết quá khứ thì cũng đã có, còn người biết vị lai thì không nhiều.

    Thiền sư Huệ Trung ở núi Ngưu Đầu nghe thiền sư Uy ra đời bèn đến thăm.

    Thiền sư Uy vừa thấy, nói rằng: “Sơn chủ đến vậy”.

    Ngài Huệ Trung cảm ngộ, ở lại hầu hạ.

    Sau này, Huệ Trung xin đi các nơi tham học.

    Một hôm, thiền sư Uy thấy cây Lăng Tiêu nơi Viện Cụ Giới gặp mùa Hạ nên héo úa. Có người muốn chặt đi, Ngài bảo: “Đừng chặt, khi Huệ Trung về, nó sẽ sống lại!”

    Sau, Ngài Huệ Trung trở về, quả như lời nói, bèn giao Sơn Môn cho Huệ Trung.

    Lại như Ngài Linh Thọ, suốt hai mươi năm không có Thủ Tòa. Ngài thường nói: “Thủ Tòa của ta đã sanh rồi! Thủ Tòa của ta đang chăn trâu! Thủ Tòa của ta đang hành cước !”

    Một hôm, bảo đánh chuông, ra ngoài tam môn tiếp đón vị Thủ Tòa. Đại chúng ra đón thì quả là Ngài Vân Môn đến, bèn mời thẳng vào liêu Thủ Tòa.

    Mở gói hành lý xong, trình thơ cho Tổ Linh Thọ, viết rằng: “Đây là vị Thủ Tòa trong chùa, con mắt của trời, người”.

    Ngài bèn mời Tổ Vân Môn khai đường.

    Hai vị tôn túc trên, có thể nói là đắc Niệm Tâm Trụ.



  16. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

  17. #340
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Diệu Viên thuần Chân, Chân Tinh phát hóa ra, các tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh. Chỉ nhân Tinh Minh ấy tiến đến chỗ Chân Tịnh, gọi là Tinh Tiến Tâm.

    Thông rằng:

    Từ Chân Tín lần vào nên có thể tưởng nhớ. Từ Thuần Chân lần vào nên được cái Tinh Minh. Chân hay chuyển hóa cái Vọng thì Chân Tinh phát hóa là không thể nghĩ bàn, nên tập khí từ vô thủy hóa thành Tinh Minh. Ở trước nói “Tập khí hiện tiền”, đến đây hóa thành Tri Giác Vô Thượng vậy. Tịnh mà đối với nhiễm thì chưa là Chân Tịnh. Chẳng dơ, chẳng sạch mới là Chân Tịnh. Nhân dùng cái Tinh Minh này tiến đến Chân Tịnh, ấy là muốn dẹp bằng dấu vết của cái “Thông thành một Tinh Minh” mà đều chuyển hóa hết vậy. Sự chuyển hóa này chẳng thể làm được thì sự Tiến cũng chẳng Tinh vậy.

    Nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Thế nào là Tinh Tiến?”

    Tổ Bá nói: “Thân tâm chẳng khởi, đó là Tinh Tiến mạnh mẽ đệ nhất. Vừa khởi Tâm hướng ngoài tìm cầu thì gọi là “Vua Ca Lợi ưa đi săn bắn”. Tâm chẳng đi rong ở ngoài tức là “Tiên nhơn nhẫn nhục”. Thân tâm đều không, đó là Phật đạo”.

    Kinh Pháp Cú nói: “Nếu khởi tâm Tinh Tiến, đó là vọng chứ chẳng phải Tinh Tiến. Nếu Tâm thường chẳng vọng, đó là Chân Tinh Tiến”.

    Ngài Thiên Thai Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa ở núi Nam Nhạc đến chỗ phẩm Dược Vương: “Đó là Chân Tinh Tiến, đó gọi là Chân Pháp cúng dường Như Lai”, ngay đó ngộ nhập Pháp Hoa Tam Muội, được gọi là Toàn Đà La Ni, thấy Pháp Hội Linh Sơn rõ ràng chưa tan.

    Đây có thể nói là tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh vậy. Hẳn là tiến đến chỗ thân tâm đều Không, mới gọi là Chân Tịnh. Lìa ngoài Chân Tịnh mà riêng cầu chuyện tinh tiến đó là vọng vậy.



  18. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •