DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 31/59 ĐầuĐầu ... 21293031323341 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 301 tới 310 của 588
  1. #301
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Nay cõi Ta Bà này

    “Thanh luận được tỏ rõ

    “Chúng sanh mê gốc Nghe

    “Theo thanh nên lưu chuyển

    “Anan tuy nhớ kỹ

    “Chẳng khỏi lạc tưởng tà

    “Há chẳng tùy chỗ đắm

    “Xoay dòng được Thường Chân

    “Anan, ông nghe kỹ :

    “Tôi nương oai lực Phật

    “Tuyên nói Kim Cang Vương

    “Như huyễn, chẳng nghĩ bàn

    “Phật Mẫu, chân Tam Muội

    “Ông nghe hằng sa Phật

    “Tất cả pháp bí mầu

    “Trước chẳng trừ dục lậu

    “Chứa nghe thành lầm lỗi

    “Dùng Nghe trì Pháp Phật

    “Sao chẳng nghe (cái) tự nghe ?

    Thông rằng:

    Luận cái căn cơ của cõi này, nên chẳng rõ Tâm Tánh, phải nương theo tiếng luận giải mà được tỏ rõ, nghĩa là nhân lời nói mà ngộ Đạo, đó là sự thường vậy. Nhưng chúng sanh chẳng thấu đạt bổn nguyên, theo tiếng mà lưu chuyển, gọi đó là mê. Thế đó, chạy theo vật là tà, về gốc là chánh. Nếu có thể ngược dòng đến tột nguồn, đến chỗ chẳng sanh diệt, đó là xoay cái Nghe mà chứng Chân Thường, chẳng theo dòng chìm đắm. Đây là pháp môn một đường Niết Bàn của hằng sa Phật vậy. Tam Muội Kim Cang Văn Huân Văn Tu gọi là như huyễn, vì không nguyện, không làm vậy. Không nguyện, không làm, thông suốt gốc Nghe, Chư Phật đều do đó mà xuất. Nếu có nguyện, có làm là dục lậu chẳng trừ, tuy rộng giữ các pháp môn bí mật, cũng đổi thành lầm lỗi. Chẳng phải chỉ tâm ô nhiễm, tình thức còn mới gọi là dục lậu, mà chỉ lòa mắt khởi lên niệm thấy Phật cũng gọi là tà. Nên xoay cái Nghe, nghe vào Tự Tánh mới là cơ đệ nhất đối trị bệnh đa văn vậy.

    Vua Tống Hiến Tông hỏi nhà sư Thiên Trúc rằng: “Đã là “Ngọn núi bay đến [Phi Lai Phong, tên riêng]” sao chẳng bay về?”

    Đáp rằng: “Một động chẳng bằng một tĩnh”.

    Lại hỏi: “Đức Quán Âm trong tay lần chuỗi niệm gì?”

    Đáp rằng: “Niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát”.

    Lại hỏi: “Tự niệm danh hiệu mình làm gì?”

    Đáp rằng: “Cầu người chẳng bằng cầu mình!”

    Có nhà sư hỏi thiền sư Chí Siêu: “Như sao là Phật?”

    Tổ Siêu nói: “Ông là người nào?”

    Nói rằng: “Há chẳng phải “Bèn là [Tiện thị]” hay sao?”

    Tổ Siêu nói: ““Bèn là” tức mất giao thiệp!”

    Hai tắc này đều hợp với ý chỉ “Nghe cái tự nghe”.



  2. #302
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Cái Nghe chẳng tự nhiên sanh

    “Nhân Thanh có danh tự

    “Xoay Nghe thoát khỏi Tiếng

    “Giải Thoát đâu có danh

    “Một Căn đã về nguồn

    “Sáu Căn thành Giải Thoát

    “Thấy, Nghe như lòa, huyễn

    “Ba cõi là không-hoa

    “Nghe lại, gốc lòa trừ

    “Trần tiêu, Giác tròn sạch

    “Sạch tột, quang thông suốt

    “Lặng chiếu trùm hư không

    Thông rằng:

    Dưới đây nói rõ đường vào bằng cách tự nghe cái Tánh Nghe.

    Trước cần xét định cái Tánh Nghe này. Từ Nhân Duyên sanh ư? Từ Tự Nhiên sanh ư? Tánh Nghe vốn chẳng phải sanh, nên chẳng phải Nhân Duyên hay Tự Nhiên sanh, đặc biệt nhân có âm thanh thì hiển nên lập ra cái tên “Nghe”. Nếu quay lại với cơ Phản Văn thì đến chỗ chẳng sanh diệt. Đã không có người nghe, tự không có chỗ nghe, hẳn nhiên với âm thanh chẳng quan hệ gì nhau. Cái ấy vốn thoát khỏi âm thanh, không thể trở lại gọi là cái Nghe vậy. Gọi là gì ư? Cái ấy đặt tên cho tất cả mà tất cả không thể đặt tên cho cái ấy. Chỉ có thể ví cái đó như nguồn cội mà thôi. Cho nên quay về nguồn, trở về cội, thì cái Tánh Nghe còn không có tên, lấy gì làm ràng buộc? Tức ngay một Căn ấy, đương thể giải thoát, nên sáu Căn nhất thời trong sạch vậy. Sáu Căn vốn tự trong sạch, bỗng dấy lên cái Thấy, Nghe mà làm cái Năng, giống như trừng mắt nhìn thì sanh lòa huyễn; bỗng thấy ba cõi mà làm cái Sở, như mắt lòa thấy hoa đốm giữa hư không.

    Lòa huyễn, không-hoa vốn tự chẳng có, mà đuổi theo dòng quên trở lại, chẳng biết là hư vọng. Giờ nghe trở lại cái gốc nghe, căn lòa trước hết diệt mất, ắt sáu Trần tan biến, mà cái Bổn Giác thường hằng tròn sạch. Như mắt sáng thì hoa đốm chỗ nào nảy sanh? Cái gọi là vẹn tròn trong sạch là chẳng dẹp bỏ muôn tượng mà Căn và Trần đồng đều trong sạch. Trong sạch cùng cực, thấy suốt mười phương, như ngọc lưu ly trong ngần, ngậm mặt trăng báu ở trong, thì ánh sáng có chỗ nào không thấu suốt? Đó là ở trong sáng sạch phát ra ánh sáng, lặng mà khắp soi, tức chỗ gọi là sự chiếu soi của Nguyên Minh. Chiếu soi mà chẳng sanh cái Sở, ắt lặng khắp hư không. Như mảnh mây tại khoảng trời xanh, mà biển Giác toàn vẹn lắng trong, được cái gốc nguyên diệu vậy. Muốn đại giải thoát bèn xoay lại cái Nghe thì xong rồi vậy.

    Tổ Hoàng Bá nói: “Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, tức là Bồ Đề. Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh đây cùng với chúng sanh, Chư Phật, núi sông thế giới, có tướng, không tướng, khắp mười phương cõi, cả thảy bình đẳng, không có tướng kia, đây. Cái Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh này thường tự tròn sáng, soi khắp.

    “Người đời chẳng ngộ, chỉ nhận Thấy, Nghe, Hay, Biết làm Tâm, bị Thấy Nghe, Hay Biết ngăn che, vì đó mà chẳng thấy cái Bản Thể thuần túy sáng suốt. Chỉ ngay đấy vô tâm, Bản Thể tự hiện. Như vầng mặt trời lớn mọc lên giữa hư không, soi chiếu khắp mười phương, suốt không chướng ngại. Thế nên, người học Đạo chỉ nhận thức nơi cái Thấy, Nghe, Hay, Biết động tác nhỏ nhặt. Dẹp đi cái Thấy, Nghe, Hay, Biết thì nẻo tâm bặt chẳng có chỗ vào. Chỉ ngay nơi chỗ Thấy, Nghe, Hay, Biết nhận là Bổn Tâm, nhưng Bổn Tâm chẳng thuộc Thấy, Nghe, Hay, Biết cũng chẳng lìa ngoài Thấy, Nghe, Hay, Biết. Chỉ chớ ở trong Thấy, Nghe, Hay, Biết mà khởi kiến giải, chớ ở trên Thấy, Nghe, Hay, Biết mà động niệm, cũng chẳng lìa Thấy, Nghe, Hay, Biết mà giữ pháp. Chẳng Tức, chẳng Ly, chẳng trụ, chẳng bám, dọc ngang tự tại, không đâu chẳng đạo tràng”.

    Như lời Tổ Hoàng Bá, liền nơi bệnh lòa cạo chùi hết ráo. Đó cũng là một sự giúp trở lại nguồn.



  3. #303
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Xem trở lại thế gian

    “Giống như việc trong mộng

    “Ma Đăng Già trong mộng

    “Ai giữ được hình ông?

    “Như đời, huyễn sư khéo

    “Huyễn làm các nam nữ

    “Tuy thấy các Căn động

    “Cốt do một máy giật

    “Máy nghỉ là lặng yên

    “Các huyễn thành vô tánh

    Thông rằng:

    Đã là thanh tịnh tột cùng, ánh sáng thông suốt, lặng chiếu trùm hư không thì hư không còn bao trùm được, huống là các sự vật ở trong hư không? Cho nên bệnh lòa hết dứt, thì không chỉ ba cõi hoa đốm xưa nay không tịch, mà nào Căn nào Trần ở trong ba cõi đều như mộng huyễn vậy. Cô Ma Đăng Già trong mộng làm sao bắt giữ hình hài người tỉnh. Tâm dù tỉnh táo, đâu thể nắm được sự vật trong mộng? Đây là một chứng cớ về Căn, Cảnh vốn tự giải thoát vậy.

    Bộ Liệt Tử có chép huyễn sư khéo làm nên người huyễn, trong đủ năm tạng, ngoài đủ năm căn, chạy nhảy diễn trò đủ thứ, y như người thật. Trò vui đã xong, người huyễn lại vời ái thiếp của vua, vua nổi giận. Huyễn sư vội tháo người huyễn, toàn là bằng gỗ. Cái giận của vua mới tiêu tan. Cái giận của vua chẳng có ăn nhằm chi người huyễn, vì người huyễn vô tâm. Huyễn vốn không tánh, sao có chuyện vui buồn trong ấy! Đây cũng là một chứng cớ Căn Cảnh vốn tự giải thoát.

    Thiền sư Ngũ Tổ Diễn dạy chúng rằng: “Hôm qua sơn tăng vào thành, thấy một rạp hát tượng gỗ múa rối, bèn đến gần trước xem. Hoặc thấy uy nghiêm lạ lùng, hoặc thấy xấu xí không chịu nổi, chuyển động đi, ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi rõ ràng. Khi xem kỹ lưỡng thì trong tấm màn xanh có người. Sơn tăng kìm giữ chẳng được, mới hỏi quý tánh ông ta.

    “Người kia nói: “Lão Hòa Thượng xem rồi thôi, lại hỏi tánh nào?”

    “Sơn tăng bị một câu ấy, liền chẳng có lời đối lại, không lý lẽ để trải bày. Giờ có người nào vì sơn tăng nói được chăng? Hôm qua trong kia lạc tiết, hôm nay trong ấy bứng gốc!”

    Như hiểu được tin tức “Bứng gốc” này thì có thể nói là “Máy nghỉ tức lặng yên” vậy.



  4. #304
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Sáu Căn cũng như thế

    “Vốn y một Tinh Minh

    “Phân thành sáu Hòa Hiệp

    “Một chỗ đã về nghỉ

    “Sáu dụng đều chẳng thành

    “Một niệm trần cấu tiêu

    “Thành Viên Minh Tịnh Diệu

    “Còn Trần là Hữu Học

    “Sáng tột tức Như Lai

    Thông rằng:

    Tổ Hoàng Bá nói rằng: “Đồng là một Tinh Minh (cái Thuần Sáng), phân làm sáu Hòa Hiệp. Một Tinh Minh ấy là Một Tâm vậy. Sáu Hòa Hiệp là sáu Căn vậy. Sáu Căn này mỗi cái cùng với Trần hiệp : Mắt với Sắc hiệp, Tai với Tiếng hiệp, Ý với Pháp hiệp. Khoảng giữa sanh ra sáu Thức, thành mười tám Giới. Như rõ mười tám Giới không chỗ có, gồm sáu cái hiệp thành một Tinh Minh. Một Tinh Minh là Tâm vậy. Người học đạo đều biết thế. Chỉ chẳng khởi lý giải “Một Tinh Minh sáu Hòa Hiệp” bèn bị pháp buộc, chẳng khế hợp Bổn Tâm.

    “Như Lai ra đời muốn thuyết Chân Pháp Nhất Thừa. Chúng sanh chẳng tin, khởi lên bài báng, chìm trong biển khổ. Bằng trọn chẳng nói, thì rơi vào lẫn tiếc, chẳng vì chúng sanh khắp xả đạo mầu. Bèn bày phương tiện, nói có ba thừa. Thừa có lớn, nhỏ; chỗ được có cạn sâu, đều chẳng phải là Bổn Pháp. Nên nói : Duy chỉ có một Đạo Nhất thừa, dư hai thì chẳng phải Chân. Nhưng rốt cuộc chưa bày pháp Nhất Tâm. Nên vời Ca Diếp cùng chia tòa ngồi, riêng phó chúc Nhất Tâm, ngoài lời mà thuyết pháp. Đây là một ngành biệt hành, nếu có thể khế ngộ bèn đến Phật địa vậy”.

    Lời của Tổ Hoàng Bá đây trọn chẳng luận đến “Còn Trần là Hữu Học”, đúng là khí trượng Đại Thừa.

    Hiệp Luận nói rằng: “Bồ Tát Sơ Hạnh thấy cái Dụng bậc trung, bởi thâm tín Chân Như nên thấy được chút ít, biết thân Như Lai là không đến, không đi, không có chỗ dứt mất, duy tâm ảnh hiện, chẳng lìa Chân Như. Nhưng Bồ Tát này còn chưa lìa phân biệt vi tế vì chưa nhập vị Pháp Thân. Bồ Tát Tâm Tịnh thấy cái Dụng vi tế, như vậy mà vượt chuyển, cho đến Bồ Tát Cứu Cánh Địa cái Thấy mới hết. Dụng vi tế gọi là Thân Thọ Dụng. Vì có Nghiệp Thức, thấy Thân Thọ Dụng. Nếu lìa Nghiệp Thức ắt không gì để thấy. Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân. Pháp Thân không có sắc tướng sai biệt kia, đây, mà hỗ tương thấy vậy.

    Ôi, phàm lấy cái Dụng vi tế gọi là Thân Thọ dụng, lấy sự hết cái Nghiệp Thức vi tế gọi là trong địa vị Bồ Tát, nên nói “Còn Trần là Hữu Học”. Nếu lìa Nghiệp Thức ắt không gì để thấy, gọi đó là Pháp Thân Như Lai, nên kinh nói “Sáng tột tức Như Lai”.



  5. #305
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Đại chúng cùng Anan

    “Xoay cơ nghe điên đảo!

    “Quày nghe, nghe Tự Tánh

    “Tánh thành : Vô Thượng Đạo

    “Có thể thật như vậy

    “Đây một đường Niết Bàn

    “Cửa vào hằng sa Phật

    “Chư Như Lai quá khứ

    “Pháp môn này thành tựu

    “Hiện tại các Bồ Tát

    “Thảy theo, vào Viên Minh

    “Người vị lai tu học

    “Hãy y Pháp như thế

    “Tôi cũng trong ấy chứng

    “Chẳng riêng Quan Thế Âm

    Thông rằng:

    Cơ nghe theo ngoài buông tuồng, ắt mê gốc theo ngọn, nên gọi là đảo điên. Quày cái Nghe nên xoay lại cái Cơ ấy vậy. Nghe trở lại Tự Tánh, là ngược Trần hiệp Giác, nên gọi rằng Chánh. Nghe Tự Tánh bèn nhìn thấy mặt mũi xưa nay, thì cái Tánh Nghe này tiện thành Vô Thượng Bồ Đề, Chân Thường Viên Thông; chẳng nhờ ngoài được. Đó là Đốn Môn chứng thành Vô Thượng Bồ Đề của ba đời Chư Phật vậy.

    Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa: “Thế nào là Văn Thù?”

    Tổ Sa nói: “Tường vách, ngói gạch đó vậy”.

    Hỏi: “Thế nào là Quan Âm?”

    Tổ Sa nói: “Âm thanh ngôn ngữ đó vậy”.

    Hỏi: “Thế nào là Phổ Hiền?”

    Tổ Sa nói: “Tâm chúng sanh đó vậy”.

    Hỏi: “Thế nào là Phật?”

    Tổ Sa nói: “Sắc thân chúng sanh đó vậy”.

    Hỏi: “Thể của hằng sa Chư Phật đều đồng, sao lại có đủ thứ danh tự?”

    Tổ Sa nói: “Theo căn Mắt trở lại nguồn gọi là Văn Thù. Theo căn Tai trở lại nguồn gọi là Quan Âm. Theo Tâm trở lại nguồn gọi là Phổ Hiền. Văn Thù là Diệu Quan Sát Trí của Phật. Quan Âm là Vô Duyên Đại Từ của Phật. Phổ Hiền là Vô Vi Diệu Hạnh của Phật. Ba Thánh là Diệu Dụng của Phật. Phật là Chân Thể của ba Thánh. Dụng thì có hằng sa giả danh. Thể thì gọi chung là Bạc Già Phạm”.

    Thế nên biết, mỗi Vị nhập Viên Minh cùng Chư Phật không khác. Nhưng căn Tai thì tột viên, nên phải lấy Quan Thế Âm làm Pháp.



  6. #306
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Thật như lời Thế Tôn

    “Hỏi tôi các phương tiện

    “Để cứu đời rốt chót

    “Người cầu xuất thế gian

    “Thành tựu Tâm Niết Bàn

    “Quan Thế Âm hơn cả

    “Còn các phương tiện khác

    “Đều là Phật oai thần

    “Nơi sự bỏ trần lao

    “Chẳng phải Pháp học thường

    “Sâu cạn đồng nghe Pháp

    “Đảnh lễ Như Lai Tạng

    “Vô Lậu, chẳng nghĩ bàn

    “Nguyện gia bị vị lai

    “Trong Pháp này không lỗi

    “Phương tiện dễ thành tựu

    “Nên dùng dạy Anan

    “Cùng đời sau chìm đắm

    “Chỉ nơi Căn này tu

    “Viên thông hơn tất cả

    “Chân Thật Tâm là thế”.


    Thông rằng:

    Đây là Đức Văn Thù trả lời chỗ hỏi của Phật, chọn lựa Viên Thông thì không gì bằng pháp môn xoay lại cái Nghe của Đức Quan Âm, đáng dạy cho Ông Anan để chữa trị cái lỗi chứa lắm chuyện nghe, và cứu được cho đời mạt kiếp, dứt đi cái khổ trôi xoay. Chẳng như các phương tiện khác, tình cờ chạm nhằm một cơ duyên, phát minh việc mình, người sâu thì nhập vào chỗ vi diệu, sơ tâm chẳng bì kịp, người cạn vướng nơi dấu vết, đối với Viên Thông chưa hợp, trước sau đều chẳng phải là chỗ tu học lâu dài. Độc chỉ theo căn Tai mà vào thì sâu cạn đều hợp nên, đáng tu học lâu dài, lại rất dễ thành tựu, phương tiện tột cùng. Thế nên Đức Văn Thù xin Thế Tôn âm thầm gia bị thì cái tâm chân thực vì người của Ngài mới an ổn vậy.

    Thiền sư Trung Hội Cừu thượng đường: “Nhân duyên cơm cháo của tôi ở chốn này, vì các anh em xướng nêu, rốt chẳng phải là thường hằng. Muốn Viên Thông chỗ tỉnh yếu, hãy chính nơi núi sông, đất đai cùng ông phát tỏ. Đạo ấy Chân Thường, cũng vốn rốt ráo. Như theo cửa Văn Thù vào thì tất cả đất, cây, ngói, gạch vô vi giúp ông phát tỏ cơ yếu. Như theo cửa Quan Âm vào thì tất cả tiếng tăm, ếch nhái, trùn dế giúp ông phát tỏ cơ yếu. Như theo cửa Phổ Hiền vào thì chẳng động bước mà đến nơi. Ba cửa phương tiện này mở hoác cho ông. Giống như lấy một mũi tên gãy khuấy nuớc biển cả khiến cho loài cá, rồng kia biết nước là sinh mệnh. Hội chăng ? Bằng không Trí Nhãn mà thẩm xét chân chánh đó, tha hồ ông trăm thứ khéo hay cũng chẳng là cứu cánh”.

    Lại có nhà sư hỏi thiền sư Đạo Phổ: “Kẻ Sơ Tâm hậu học, mới vào tùng lâm, trong cửa phương tiện, xin thầy chỉ bày”.

    Tổ Phổ gõ khuôn cửa.

    Nhà sư hỏi: “Hướng thượng lại có sự việc hay không?”

    Tổ Phổ nói: “Có”.

    Hỏi: “Như sao là việc hướng thượng?”

    Tổ Phổ lại gõ khuôn cửa.

    Ôi! Đức Phổ Hiền nói “Tâm nghe suốt mười phương”. Đức Văn Thù nói “Ta cũng từ trong đó chứng”. Ba vị Thánh thay nhau cổ xướng khiến người theo căn Tai nhập, đều để ứng với cơ yếu của cõi này vậy. Nếu các vị tôn túc phát minh, trước sau tiếp dẫn chỗ hướng thượng, nào từng chẳng tuân lối vết Viên Thông ư? Chỉ sao người đốn chứng ít vậy? Chứng nhập Tịch Diệt Hiện Tiền tự chẳng có dễ.

    Nhưng trong Trí Độ Luận nói rằng: “Căn Tai không có sự tỏ biết, nên chẳng có nghe. Nhĩ Thức chỉ chốc lát, nên chẳng thể phân biệt. Tai chẳng nghe, Ý Thức cũng chẳng có nghe. Vì sao thế? Năm Thức trước biết năm Trần, rồi sau Ý Thức biết. Ý Thức chẳng thể biết năm Trần hiện tại, mà chỉ biết năm Trần quá khứ và vị lai. Nếu Ý Thức có thể biết năm Trần hiện tại thì người mù điếc cũng biết được Thanh Sắc!”

    Hay thay chỗ luận này! Thật hạp với ý chỉ tịch diệt. Thanh thì vô giác vô căn, nên “Hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh”. Căn thì vô giác, nên “Chẳng trụ ở chỗ hết nghe”. Thức thì không có sắc, không đối đãi, không xứ sở, nên “Giác, Sở Giác không”. Sở không, Năng không, sanh diệt đã diệt, nhất niệm liền chứng. Còn với sự lần hồi thêm, lần hồi hóa, vốn chẳng phải hai đường. Nên xoay lại cái Nghe mà vào dòng, đến chỗ chẳng sanh diệt, thật phải tuân theo vậy.



  7. #307
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    Ngay đó, Ông Anan cùng cả đại chúng thân tâm suốt nhiên, đắc đại khai thị. Thấy rõ Bồ Đề cùng Đại Niết Bàn của Phật, như người nhân có việc đi xa, chưa được trở về, song đã rõ con đường về nhà.

    Tất cả đại chúng trong hội, tám bộ Trời Rồng, Nhị Thừa Hữu Học cùng tất cả các Bồ Tát mới phát tâm, số lượng cả mười hằng hà sa đều đắc Bản Tâm, xa lìa trần cấu, được Pháp Nhãn Tịnh.

    Tánh Tỳ Khưu Ni nghe bài kệ xong, thành quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Ông Anan nghiêm chỉnh y phục, ở trong đại chúng chấp tay đảnh lễ. Tâm tánh trọn sáng, vừa mừng vừa tủi, vì muốn lợi ích cho khắp các chúng sanh đời sau, cúi đầu bạch Phật: “Con nay đã ngộ pháp môn thành Phật, trong đó tu hành, không còn nghi hoặc. Con thường nghe Như Lai nói lời thế này: “Mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là sự phát tâm của các Bồ Tát. Tự giác đã tròn, thường giác cho người, đó là sự ứng thế của Chư Như Lai”.

    “Con tuy chưa được độ, nguyện độ tất cả chúng sanh đời mạt thế. Thưa Thế Tôn, các chúng sanh ấy cách Phật ngày càng xa, nghe tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp tâm vào Tam Ma Địa, làm sao khiến họ an lập đạo tràng, lìa các ma sự, trong Bồ Đề Tâm được không thoái khuất?”

    Thông rằng:

    Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là Tối Thượng Thừa vậy. Không vật gì bằng mà hay bình đẳng cùng vật, nên gọi là Vô Đẳng Đẳng. Đã lìa phiền não nên gọi là Phật Bồ Đề. Đã lìa sanh diệt nên gọi là Đại Niết Bàn. Vô lượng chúng sanh đều biết ở nơi chỗ này phát tâm, rõ biết phiền não chẳng phải là nhà, mà Tánh Giác là nhà vậy. Rõ biết sanh diệt chẳng phải là nhà mà Niết Bàn là nhà vậy. Pháp môn xoay lại cái Nghe, tự vào dòng, mất cái Sở, đến chỗ Tịch Diệt Hiện Tiền, trong đó tu hành, được con đường đạo Viên Thông nhiệm mầu. Thật là rõ ràng như đường chỉ trong bàn tay.

    Ông Anan tuy chưa tự độ, chưa dứt hết hai thứ phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử mà đến bờ kia, nhưng muốn độ chúng sanh đời sau đều được vào Chánh Định, chẳng bị ma quấy rối. Vì ma sự rất nhiều, phòng ngừa chẳng dễ. Như Tánh Tỳ Khưu Ni, nếu không được thần chú Như Lai làm sao được tâm dâm liền ngừng thành A La Hán. Năm mươi thứ Ấm Ma ở đoạn sau đều để đáp chỗ hỏi này, lại khiến rõ ràng con đường về nhà vậy.

    Thiền sư Thủ Sơn Niệm dạy chúng rằng: “Lão tăng định muốn về quê, có người nào theo được?”

    Khi ấy có nhà sư hỏi: “Chẳng hay khi nào Hòa Thượng đi về?”

    Tổ Niệm nói: “Đợi cho có bạn thì nói với ông”.

    Nhà sư hỏi: “Không có bạn việc ấy thế nào?”

    Tổ Niệm nói: “Trọn ngày chẳng gặp ai, rõ ràng không biết chỗ!”

    Nhà sư hỏi : “Bỗng gặp một người thì lại thế nào?”

    Tổ Niệm nói : “Con mê chẳng về nhà, mất rồi đường lúc đến”.

    Nhà sư hỏi : “Xin thầy chỉ cái đường về quê”.

    Tổ Niệm nói : “Rồng ẩn cây khô, chẳng còn nương dựa”.

    Nhà sư hỏi : “Khi nào Hòa Thượng lại trở lại?”

    Tổ Niệm nói : “Một đi chẳng tri âm, sáu nước không tin tức”.

    Nhà sư hỏi : “Chính lúc đang về thì thế nào?”

    Tổ Niệm nói : “Độc xướng khúc nhà Hồ [Ấn Độ, để chỉ dòng Phật], không người hòa cho nổi!”

    Nhà sư hỏi : “Lúc ấy bỗng gặp tri âm thì thế nào”.

    Tổ Niệm nói: “Đầu non người-đá xúm vỗ tay. Bên suối lão quê cười ha hả”.

    Nhà sư hỏi: “Về nhà rồi trở lại, việc ấy thế nào?”

    Tổ Niệm nói : “Tám nước dâng áo lễ, bốn tướng không cải đổi”.

    Nhà sư hỏi : “Chẳng rõ ở vị thứ nào?”

    Tổ Niệm nói : “Văn Thù chẳng tọa Kim Đài Điện, tự có tiêu dao nhánh trúc lay”.

    Xem Tổ Niệm Pháp Hoa [Thường niệm kinh Pháp Hoa] tỏ lại chỉ qua, gõ rao tự tại. Thật y cái khí vị của Tổ Ngưỡng Sơn.



  8. #308
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong đại chúng khen ngợi Ông Anan: “Hay lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về an lập đạo tràng, cứu vớt chúng sanh chìm đắm trong đời mạt kiếp, nay ông hãy nghe cho rõ, Ta vì ông nói ra”.

    Ông Anan cùng cả đại chúng vâng nghe lời dạy.

    Phật bảo Ông Anan: “Ông thường nghe trong Luật Tạng của Ta tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là: Nhiếp Tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ. Ấy gọi là ba Vô Lậu Học.

    Thông rằng:

    Ở trước nói hai nghĩa quyết định. Một là xét cái Tâm Nhân Địa. Hai là lựa chọn Căn Viên Thông, trở lại cùng tột dòng căn, đến chỗ chẳng sanh diệt; thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải luận gì đến cái học Giới Định Huệ. Đây là một môn siêu xuất, con đường Xa Ma Tha nhiệm mầu của mười phương Như Lai để tiếp người thượng thượng căn vậy. Trong đó nói “Căn và Trần chẳng sánh hợp”, chưa từng không có Giới. “Như lóng nước dơ”, chưa từng không có Định. “Ở trong rực rỡ phát sáng”, chưa từng không có Huệ. Chỉ chẳng dùng Giới Định Huệ tự trói buộc, nên là Đệ Nhất Nghĩa Đế.

    Nay lại trước hết nói rõ nơi Giới, mà nên bày bốn Cấm trong Luật là để tiếp người trung-hạ căn. Để phòng ngừa Ma, không thể không nghiêm về Giới. Tiểu Thừa thì vâng theo Pháp là Giới, đối trị thô thiển, cái ngọn. Đại Thừa nhiếp tâm là Giới, dứt trừ tinh vi gốc rễ. Giới nơi Pháp thì không phạm nơi thân mà thôi, Giới nơi Tâm thì không phạm cả trong tư tưởng. Giới châu (tròn sáng như ngọc) là chuyển Thức thành Trí, không năm Ấm, phá năm Trược vậy. Còn có ma sự nào để lo sợ ư?

    Đức Lục Tổ dạy chúng rằng: “Pháp môn này của ta lấy Định Huệ làm gốc. Đại chúng chớ mê, nói Định Huệ khác nhau. Định Huệ một thể, chẳng phải hai. Định là Thể của Huệ, Huệ là Dụng của Định. Ngay trong Huệ, Định ở tại Huệ. Ngay trong Định, Huệ ở tại Định. Như rõ nghĩa này, tức là cái học Định Huệ bình đẳng. Các người học Đạo, chớ nói trước Định mới phát Huệ, trước Huệ rồi phát Định, mỗi cái khác nhau. Thấy ra như vậy hóa ra Pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành, trong tâm chẳng lành thì không có Định Huệ, vì Định Huệ chẳng đồng đều. Nếu tâm và miệng đều lành, trong ngoài một thứ thì Định Huệ đồng đều. Tự ngộ tu hành, chẳng vướng nơi tranh cãi. Nếu tranh trước sau là đồng với người mê, chẳng dứt hơn thua là thêm ngã pháp, chẳng lìa bốn tướng. Thiện tri thức, Định Huệ giống như đèn và ánh sáng. Có đèn thì sáng, không đèn thì tối. Đèn là Thể của ánh sáng, ánh sáng là Dụng của đèn. Danh tuy có hai, Thể vốn đồng nhất”.

    Ở đây, Đức Lục Tổ tuy bày rõ Định Huệ nhất thể, mà trong đó nói tâm, miệng đều lành, trong ngoài như một thứ, Định Huệ bèn đồng đều, thì Giới cũng đã có trong ấy vậy.

    Một hôm, Tổ nói với Chí Thành rằng: “Chỗ thuyết pháp của ta, chẳng lìa Tự Tánh. Lìa Thể thuyết pháp, gọi là Tướng thuyết, vẫn thường mê Tự Tánh. Phải biết hết thảy muôn pháp đều từ Tự Tánh khởi dụng. Đó là pháp Giới Định Huệ chân thật.

    Hãy nghe kệ ta:

    “Tâm địa không trái (phi) : Tự Tánh Giới

    Tâm địa không si : Tự Tánh Huệ

    Tâm địa không loạn : Tự Tánh Định

    Chẳng tăng chẳng giảm : Tự Kim Cang

    Thân đến thân đi : Hằng Tam Muội”.

    Thầy Thành nghe kệ tỉnh ngộ, bèn trình một bài kệ:

    “Năm Uẩn huyễn thân

    Huyễn đâu cứu cánh?

    Hướng đến Chân Như

    Pháp lại chẳng tịnh!”.


    Tổ bằng lòng.

    Đó là chỗ thuyết Giới Định Huệ của Tối Thượng Thừa, đều là lời trong nhà, đối với lời khác ở ngoài cửa, cách nhau như trời với đất.



  9. #309
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Anan, nhiếp tâm thế nào thì gọi là Giới?

    “Nếu chúng sanh lục đạo của các thế giới tâm họ chẳng dâm, ắt chẳng sanh theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng dâm không trừ thì không ra khỏi cảnh ma được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà không đoạn lòng dâm, hẳn lạc vào ma đạo: hạng trên thành Ma Vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ. Các chúng ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp, nhiều bọn ma này lẫy lừng trong thế gian, lan rộng hành vi tham dâm, giả làm thiện trí thức, khiến các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường Bồ Đề.

    “Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề: trước phải dứt lòng dâm. Đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ nhất của Chư Như Lai Tiên-Phật Thế Tôn.

    “Thế nên, Anan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định thì cũng như nấu cát đá mà muốn thành cơm, trải trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng. Vì sao thế? Vì nói là cát đá mà thành, chẳng phải gốc là cơm vậy. Ông dùng thân dâm cầu diệu quả Phật, dầu được diệu ngộ cũng đều là gốc dâm, căn bản thành dâm, xoay chuyển trong ba đường sanh tử, hẳn không ra khỏi, đường nào mà tu chứng Niết Bàn của Như Lai? Hẳn phải khiến cho cái cơ dâm, dù thân hay tâm, đều đoạn dứt, cho đến tánh lìa dứt cũng không còn, thì đối trong Bồ Đề của Phật mới có thể trông mong.

    “Như Ta nói đây, gọi là lời Phật; chẳng như đây nói tức lời Ba Tuần.


    Thông rằng:

    Chúng sanh trong lục đạo, sanh tử nối tiếp nhau, kia yêu lòng đây, đây mến cái sắc kia, đời đời kiếp kiếp thường bị ràng buộc. Duy cái Dâm là gốc rễ bắt đầu. Cái thấy phát minh thì Sắc phát khởi, thấy có thì Tưởng thành, khác với chỗ thấy thành ghét, cùng với chỗ Tưởng thành thương. Một tưởng niệm, gốc Ái khởi động trước hết nên lấy Cấm Dâm làm đầu. Chẳng bỏ dâm mà tu thiền định, dầu được diệu ngộ chỉ ích cho cơ dâm, nên rốt cuộc chẳng thành Phật mà thành quyến thuộc của Ma. Ma cũng có thần thông biến hoá, cũng có thể nói Đạo Vô Thượng, chỉ vì nghiệp dâm chẳng trừ, phước ma đến lúc hết, rốt lại trôi lăn trong ba đường khổ. Sự dâm phát lên có cơ, mà tâm là cội gốc, nên gọi là Tâm Dâm. Tâm mà chẳng động thì cơ tự chẳng phát, nên nhiếp tâm giữ Giới Luật, trước đoạn dứt lòng dâm, gọi là Tánh Đoạn Dứt. Còn Tánh Đoạn Dứt thì chưa lìa đối trị. Sự đối đãi còn sờ sờ thì cơ dâm còn ẩn phục. Hẳn Tánh Đoạn Dứt cũng không mới là đoạn diệt chân thật vậy. Dâm là căn nguyên phiền não, lìa dứt nó thì Bồ Đề mới có thể trông mong. Chỉ có dâm là gốc rễ sanh tử, đoạn dứt nó thì Niết Bàn có thể chứng. Nói là đoạn lìa như chặt lìa chân tay, chẳng dùng lại được. Cái dâm mà đoạn lìa, tức là lấy cái chẳng sanh chẳng diệt làm Tâm Nhân Địa, nên đắc Chánh Định. Chẳng có như thế, nấu cát mà thành cơm làm sao có chuyện ấy được!

    Kinh Pháp Hoa nói rằng “Chẳng thể đối với thân người nữ, giữ tướng hay sanh dục tưởng mà thuyết pháp cho, cũng chẳng ưa thích thấy. Như có vào nhà, chẳng có truyện trò với người thiếu nữ, trinh nữ, đàn bà góa, cũng chẳng gần với năm loại người bán nam bán nữ, rồi thành thân thiết. Chẳng vào nhà họ một mình. Nếu có nhân duyên cần phải vào một mình, chỉ một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, chớ cười lộ răng, chẳng bày hở ngực. Cho đến vì nói pháp còn chẳng thân mật, huống lại có sự gì khác. Chẳng thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa Di ấu thơ, cũng chẳng ưa kẻ đồng môn. Thường thích ngồi thiền, ở nơi vắng vẻ, tu nhiếp tâm mình”.

    Đó là phép tắc của Tiên Phật Thế Tôn như vậy.

    Xưa, Đức Nhị Tổ thường trà trộn ở chốn thanh lâu quán rượu; người ta cười cợt.

    Tổ nói: “Ta tự điều tâm, nào liên can gì việc ngươi”.

    Chẳng phải là người thật ra thoát làm sao xuống bùn, vào nước?

    Thiền sư Bá Trượng Duy Chính thượng đường: “Hòa Thượng Nham Đầu lấy ba đồng tiền tìm được bà vợ chỉ biết mò tôm vớt ốc, nhưng lại chẳng biết sanh trai nuôi gái! Cho đến như nay môn phong dứt tuyệt. Muốn biết vợ Khoát Công [Thiền sư Nham Đầu Toàn Khoát] chăng? Bá Trượng ngày nay chẳng tiếc môi mép, giải rõ cho các ông: chuyện lấy cây trâm cưới vợ - đời ít có. Quần vải vẫn còn là y phục thuở lấy chồng. Kỳ thay, lại gọi đó là vợ lão Khoát Công, nguyên lai cùng với mặt mũi Khoát Công tương tợ!”

    Lại có nhà sư hỏi Tổ Trấn Sơn: “Như sao là gia phong [Thói nhà] Hòa Thượng?”

    Tổ Trấn nói: “Túi gấm đầy hương bạc, gió thổi thơm ngập đường”.

    Tổ Nham Đầu nghe được, bảo một nhà sư đến nói: “Truyện kể mười tám chị, thờ Phan Lang tốt lắm”.

    Tổ Nham Đầu tợ nói thiền-phong-lưu, còn Tổ Duy Chính mượn sự chỉ dấu của Tổ Nham Đầu, phong lưu càng lắm. Đều là hoa sen tháng Chạp vậy.



  10. #310
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Anan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới lòng chẳng giết hại, ắt chẳng theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng Sát không trừ, thì không thể ra khỏi trần được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền mà không đoạn dứt sự Giết Hại hẳn lạc vào Thần Đạo, người bậc trên làm đại lực quỷ, bậc giữa thì làm phi hành dạ xoa và các loại Quỉ Soái, bậc dưới thì làm địa hành La Sát. Các Quỉ Thần ấy cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp nhiều thứ Quỉ Thần này lẫy lừng trong thế gian, tự nói ăn thịt cũng được Đạo Bồ Đề.

    “Anan, Ta bảo hàng Tỳ Khưu ăn năm thứ tịnh nhục, thịt ấy đều do thần lực Ta hóa sanh, vốn không có mạng căn. Bà La Môn các ông, đất đai phần nhiều nóng, ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ không sanh, Ta dùng sức Đại Bi gia bị, nhân Tâm Đại Từ Bi giả gọi là thịt, các ông cũng nếm được vị ấy.

    “Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Phật tử! Các ông phải biết, những người ăn thịt đó, dầu có được tâm khai mở, giống như Tam Ma Đề, đều là đại La Sát, quả báo hết rồi phải chìm đắm trong bể khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau không dứt, làm sao ra được khỏi ba cõi?

    “Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, thứ đến, phải lìa dứt sự sát sanh, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ hai của Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.

    “Thế nên, Anan, nếu chẳng dứt sự Giết Hại mà tu thiền định thì cũng như có người tự bịt tai mình, cất tiếng kêu lớn mà mong người khác không nghe, bọn đó gọi là muốn ẩn thì càng lộ. Hàng Tỳ Khưu trong sạch, cho đến các vị Bồ Tát, đi trên đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống lấy tay nhổ. Làm sao trong Tâm Đại Bi mà lấy máu thịt của các chúng sanh làm đồ ăn?

    “Nếu các hàng Tỳ Khưu không mặc những đồ tơ lụa, lượt là phương Đông và không dùng những giày dép, áo lông hay các thứ sữa, phó-mát, đề hồ, các Tỳ Khưu đó đối với thế gian thật thoát khỏi sự báo đền nợ nghiệp, chẳng đi vào trong ba cõi. Vì sao thế? Dùng bộ phận thân thể chúng sanh là có duyên nợ với vậy, như con người ăn trăm thứ mễ cốc của đất thì chân không lìa khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm đối với bộ phận hay thân thể chúng sanh đều không mặc, không ăn, những người như thế, Ta mới gọi là thật Giải Thoát.

    “Như Ta nói đây, gọi là lời Phật; chẳng như đây nói, tức là lời Ba Tuần.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •