DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 2/59 ĐầuĐầu 12341252 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 588
  1. #11
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts
    QUYỂN I

    TỰA CHUNG

    Kinh:

    - Như thế, tôi được nghe, một thời Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng với chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc Vô Lậu Đại A La Hán.

    Thông rằng: Tất cả các kinh đều mở đầu bằng: "Như thị ngã văn nhất thời". Đây là Đức A Nan tuân theo ý chỉ của Đức Phật, kết tập các kinh, trước xướng sáu chữ này, giải tan mọi nghi ngờ. Như Thị, Như Thị ấy là chỉ có thể tự tin lấy, không cần ngôn thuyết. Nếu hiểu được cái Pháp Như Thị, là chỗ phó chúc bí mật của Phật Tổ, tức là những lời lòng vòng sau này, đều là lời cước chú chua thêm vậy.

    Có vị tăng vào tham lễ quốc sư Huệ Trung, sư hỏi:

    - Làm sự nghiệp gì?

    Tăng đáp:

    - Giảng kinh Kim Cang.

    Sư hỏi:

    - Hai chữ đầu hết là cái gì?

    Đáp:

    - Như thị .

    Sư hỏi:

    - Đó là cái gì?

    Tăng không đáp được.

    Sư bảo:

    - Than ôi! Vậy thì lấy gì mà giảng kinh?

    Lại còn thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn hỏi một vị tòa chủ:

    - Hai chữ Như Thị là tất cả khoa văn, vậy thì bản văn là làm sao?

    Vị tòa chủ không đáp được.

    Đức Ngũ Vân đáp thay rằng:

    - Lại chia làm ba đoạn rồi.

    Hãy nói chỗ Đức Ngũ Vân mở lời, là khoa văn hay là bản văn?

    Chữ Tỳ Kheo có ba nghĩa: Khất Sĩ; là Phá Ác; là Bố Ma (làm cho ma sợ).

    Chữ A La Hán cũng có ba nghĩa là Ứng Cúng, là Sát tặc (giết giặc), là Vô Sanh.

    Đại là để phân với Tiểu.

    Lậu cũng có ba loại: Vô Minh Lậu, Dục Lậu và Hữu Lậu.

    Kinh nói:

    - Ông thường nghe trong Luật của Ta có ba nghĩa quyết định tu hành, đó là Nhiếp Tâm làm Giới, do Giới sanh Định, nhờ Định phát Huệ. Đó là ba môn Vô Lậu Học. Cấm Răn (Giới) tức là không lọt ra cái Ham Muốn Dâm Dục (Dục Lậu), Yên Tĩnh (Định) ắt không có Phiền Não (Hữu Lậu), sáng tâm (Huệ) ắt không có Vô Minh Phiền Não. Ba món Vô Lậu này gọi là nghĩa quyết định. Tựa hồ lấy Huệ làm chỗ cực tắc.

    Nên Đức Động Sơn nói với Ngài Tào Sơn rằng:

    - Ở thời mạt pháp, người ta phần nhiều là Huệ Khô Khan (Càn Huệ). Để phân biệt thiệt hay giả, thì có ba loại rỉ chảy (sấm lậu): Một là, Kiến( )sấm lậu: chưa lìa phàm phu, sa vào trong biển độc. Hai là, Tình sấm lậu: vướng mắc vào thuận nghịch, chỗ thấy không được quân bình. Ba là, Ngữ sấm lậu: cứu xét chỗ huyền diệu mà mất đi Tông chỉ, sau trước Cơ Trí đều mê muội tối tăm, trí dơ lưu chuyển. Đối với ba loại này, thầy phải nên biết.

    Trong cái Càn Huệ, lại chia làm ba thứ này, nếu không có con Mắt Pháp phân biệt thì không thể chiếu phá. Do đó, bậc A La Hán hồi hướng về Đại Thừa, hẳn phải tư duy quán xét lời dạy của Ngài Động Sơn, thì mới đầy đủ cái nghĩa Vô Lậu vậy.

    Kinh:

    - Các vị Phật Tử trụ trì, khéo vượt lên các Hữu. Ở các quốc độ, thành tựu uy nghi. Theo Phật chuyển pháp luân, kham lãnh xứng đáng di chúc của Phật. Nghiêm tịnh Giới Luật để mở rộng khuôn phép cho ba cõi. Hiện thân vô số, cứu thoát chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các Trần ràng buộc.

    Thông rằng:

    -Trụ Trì: là cái Giác Tánh Thường Trụ, (hằng còn), hay nắm giữ (trì) vạn Pháp. Đoạn kinh này chỉ mười mấy chữ, thật bao quát hết ý chỉ của cả bộ kinh.

    Nói rằng:

    - Khéo Vượt Lên Các Hữu, tức là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới, cho đến bảy Đại đều chẳng có thể làm chướng ngại, thì nghĩa Phá Vọng đã đầy đủ hết.

    Nói rằng:

    - Thành Tựu Uy Nghi, tức là dựng lập Đạo Tràng, ba món tiệm thứ. Năm mươi lăm địa vị, tức là con đường Bồ Đề, thì nghĩa Hiển Chơn đã đầy đủ.

    Nói rằng:

    - Diệu Kham Di Chúc, thì hai mươi lăm pháp môn viên thông đều chứng Tự Tánh, đồng kham thọ ký thành Phật, mà cái tông chỉ Kiến Tánh tự còn.

    Nói rằng:

    - Mở Rộng Khuôn Phép Trong Ba Cõi, thì bộ kinh này phù trì Giới Luật, dặn dò cẩn thận bốn Cấm Giới, Thập Thiện và chín loại Định để nêu rõ quy tắc cho ba cõi. Ngài A Nan thị hiện dâm sự để mở đầu bộ kinh là cũng vì vậy.

    Nói rằng:

    - Ứng Thân Vô Lượng, là dạy các vị Bồ Tát và A La Hán hiện thân trong đời mạt pháp, hóa làm đủ thứ hình dạng, cứu vớt các chúng sanh luân hồi vậy. Vì phòng ngừa cho chúng sanh đời mạt pháp khỏi các ma sự, Siêu Khỏi Các Trần Ràng Buộc, chứng đến chỗ viên thông. Thật là lời dặn dò khuôn mẫu sau chót của Như Lai vậy.

    Ngài Phong Huyệt Chiểu thiền sư có lời dạy rằng:

    - Nếu lập một mảy trần, dẫu nước nhà đang hưng thịnh, lão quê này cũng buồn rầu. Không lập một mảy trần, dẫu nước nhà sụp đổ, lão quê này cũng vui ca.

    Ngài Tuyết Đậu dựng cây trụ trượng lên mà nói:

    - Lại còn có vị tăng cùng sống cùng chết nào không? Ý chỗ lập trần là ở đó.

    Tụng rằng:

    - Lão tăng dạy dỗ chẳng nhướng mày.
    Mong cho nhà nước vững nền ngay.
    Mưu thần dũng tướng giờ đâu tá.
    Vạn dặm gió trong, chỉ tự hay.


    Ngài Tuyết Đậu ở trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một Pháp. Ngài Thiên Đồng ở nơi Thực Tướng chẳng thọ một mảy trần. Hai Pháp song hành bình đẳng, cùng một chỗ xuất ra.

    Tụng rằng:

    Sông Vị trắng trong thả nhợ câu,
    Nào giống Di Tề chết đói đâu.
    Chỉ tại mảy trần sanh lắm vẻ,
    Nghiệp tốt, danh cao, khó bỏ thay.


    Lại còn Tổ Trường Khánh nói rằng:

    Mọi chuyện giống như ngày nay là bởi Lão Hồ có chỗ cho người ta ngưỡng vọng.

    Tổ Bảo Phước nói:

    - Mọi sự giống như ngày nay là vì Lão Hồ tuyệt hết mọi chỗ cho người ta ngưỡng vọng. Ngài Thiên Đồng dạy thêm:

    - Giàu, ngàn miệng ăn vẫn cho là ít. Nghèo, một thân này vẫn hận là nhiều. Xét chỗ khai thị của các vị tôn túc, tất cả đều vì người, nào có khác với tâm cứu độ chúng sanh đời sau của Phật, Tổ. Nên sao chép lại để làm cái pháp Trụ Trì.

  2. #12
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    - Các vị là Đại Trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm Thượng Thủ. Lại có vô số các vị Bích Chi Vô Học và Sơ Tâm đồng đến chỗ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị tỳ khưu mãn hạ Tự Tứ, các vị Bồ Tát từ mười phương đến, xin Phật giải quyết nghi hoặc, kính vâng Đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu Nghĩa Thâm Mật.

    Đức Như Lai trải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả Pháp Hội mà tỏ bày cái mật nhiệm sâu xa. Chúng hội trong sạch, được việc chưa từng có.


    Thông rằng: Đây là nói về chỗ bắt đầu của kinh. Nói là các vị Bồ Tát thỉnh cầu Mật Nghĩa, mà chẳng có nói: Cái Gì Là Mật. Nói đức Phật tỏ bày cái thâm áo, mà chẳng nói: Cái Gì Là Thâm Áo, thì làm sao chúng hội thanh tịnh lại được chỗ chưa từng có?

    Xưa, Đức Thế Tôn một hôm lên tòa pháp. Đức Văn Thù bạch chùy rằng:

    - Hãy xem rõ Pháp Vương Pháp. Pháp Vương Pháp như thế. Đức Thế Tôn bèn xuống pháp tòa. Tổ Thiên Đồng tụng:

    Một đoạn của nhà có thấy không,
    Miên man trời đất chạy thoi nhanh.
    Gấm cổ dệt thành, bao Xuân sắc,
    Ngại gì tiết lộ bởi Đông Quân.


    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

    Thánh chúng đương nhiên ắt hiểu ngay,
    Pháp Vương, Pháp Lệnh chẳng như đây.
    Hội này mà có Thiền gia khách,
    Văn Thù nào phải hạ một chùy.


    Nếu đối với chỗ Đức Thế Tôn lên tòa yên ngồi mà đã rõ thông tin tức, mới thật diệu khế cái Áo Mật, mà chẳng cần nhờ đến lời lẽ phiền phức vậy.

    Hàng Bích Chi, còn có hạng Sơ Phát Tâm là học trò của hàng Bích Chi.

    Hưu Hạ Tự Tứ là trong Luật có dạy ba ngày ra Hạ là Mười Bốn, Mười Lăm và Mười Sáu tháng Bảy.

    Kinh:

    - Tiếng của Phật hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, vang khắp mười phương. Hằng sa Bồ Tát đến chốn đạo tràng, có Ngài Văn Thù Sư Lợi làm Thượng Thủ.

    Thông rằng: Chim Ca Lăng Tần Già khi còn trong trứng đã đủ tiếng hay, các loài chim khác không so sánh kịp. Thí dụ cho Đốn Giáo vào ngay dòng giống Phật, không cần mượn tu tập, Tam Thừa không bì kịp. Phật dùng âm thanh này để dạy cho hàng căn cơ Đốn Ngộ.

    Thuở xưa, có lần Ngài Mục Kiền Liên muốn cùng tột âm thanh của Phật, dùng hết thần lực, đi qua hằng sa cõi, đến một cõi Phật có Báo Thân rất lớn. Ngài chống trượng đi trên miệng bát cơm của chư vị cõi đó. Các đệ tử ở đấy đều thưa với đức Phật cõi đó:

    - Tại sao lại có loại trùng giống hệt con người?

    Đức Phật kia đáp:

    - Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử của phật Thích Ca ở cõi Ta Bà. Chớ thấy hình vóc nhỏ nhoi mà xem thường! Rồi đức Phật hỏi Ngài Mục Kiền Liên đến đây làm gì.

    - Ngài trả lời là muốn cùng tột âm thanh của Phật.

    Đức Phật dạy:

    - Âm thanh của Phật vô tận, ông không thể cùng tột được đâu. Ngài Mục Kiền Liên bèn trở về.

    Nên nói:

    - Khắp Hết Mười Phương, là đúng vậy.

    Hằng sa Bồ Tát mỗi mỗi đều có chỗ ở, như những cõi kể trong kinh Hoa Nghiêm, vũ trụ vô cùng, chỗ nào mà chẳng phải là Trụ Xứ của Bồ Tát? Nay nghe âm thanh Phật, các Bồ Tát đi đến với Phật.

    Văn Thù tức là Diệu Đức, để bày tỏ cái Thiệt Trí. Mở bày Đốn Giáo thì đúng là Cơ của Ngài, nên Ngài làm Thượng Thủ. Xưa, Ngài Vô Trước Văn Hỷ thiền sư đến động Kim Cương ở núi Ngũ Đài chiêm bái Đức Văn Thù. Ngài gặp một ông già đang dắt trâu đi và mời Ngài vào chùa.

    Ông già gọi:

    - Sa di!

    Thì có một đồng tử ứng tiếng dạ, chạy ra tiếp. Ông già thả trâu đi, dắt thiền sư lên nhà khách. Nhà cửa đều chói lọi ánh vàng. Ông già ngồi lên giường, chỉ một cái đôn gấm mời Ngài ngồi.

    Ông nói:

    - Ông từ đâu tới? Sư Văn Hỷ đáp:

    - Phương Nam. Ông hỏi:

    - Phật Pháp ở phương Nam trụ trì thế nào? Sư đáp:

    - Đời mạt Pháp các Tỳ Kheo ít phụng trì Giới Luật. Ông hỏi:

    - Chúng nhiều ít? Sư đáp:

    - Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm. Sư Văn Hỹ trở lại hỏi:

    - Phật Pháp ở đây trụ trì thế nào? Ông già trả lời:

    - Rồng rắn lẫn lộn, phàm Thánh ở chung. Sư hỏi:

    - Chúng nhiều ít? Ông đáp:

    - Trước ba ba, sau ba ba. Ông kêu đồng tử đem trà và váng sữa lại. Sư dùng xong, tâm ý thông suốt. Ông già cầm chén pha lê lên hỏi:

    - Phương Nam có thứ này không? Sư đáp:

    - Không có. Ông hỏi:

    - Bình thường lấy gì uống trà? Sư không đáp được. (Tiếc thay! Đang khi ấy chỉ nên đập nát nghiến cái chén pha lê! ) Văn Hỷ thấy trời đã tối, bèn hỏi ông ở lại một đêm được chăng. Ông già nói:

    - Ông còn cái tâm chấp không thể ở lại. Sư nói:

    - Tôi đâu có tâm câu chấp. Ông già hỏi:

    - Ông đã thọ Giới chưa? Sư đáp:

    - Thọ Giới đã lâu. Ông già nói:

    - Nếu không có cái tâm chấp, thì thọ Giới để làm gì? Sư cáo từ. Ông già bảo đồng tử tiễn Ngài về. Ngài hỏi đồng tử:

    - Trước ba ba, sau ba ba là nhiều ít? Đồng tử gọi lớn:

    - Đại Đức! Sư ứng tiếng dạ. Đồng tử nói:

    - Đó là nhiều ít? Sư Hỷ lại hỏi:

    - Đây là chỗ nào?

    Đáp rằng:

    - Đây là động Kim Cương, chùa Bát Nhã. Sư Văn Hỷ mới tỉnh ngộ ra rằng ông già tức là Văn Thù vậy. Không thể ra mắt trở lại được nữa, bèn cúi đầu trước đồng tử, xin một lời nói để từ biệt.

    Đồng tử đọc bài kệ:

    Trên mặt không sân _ đồ cúng dường,
    Trong miệng không sân _ xuất Diệu Hương.
    Trong tâm không sân _ là châu báu,
    Không dơ, không nhiễm _ tức Chân Thường.


    Nói xong, cả người lẫn chùa đều ẩn mất.

    Thầy Hỷ sau tham học với Tổ Ngưỡng Sơn, chóng ngộ tâm khế, giữ chức Điển Tòa. Khi nấu ăn, Đức Văn Thù thường hiện hình trên nồi cháo. Sư Văn Hỷ lấy cái đũa tre quậy cháo đánh mà nói rằng:

    - Văn Thù tự mặc Văn Thù. Văn Hỷ tự mặc Văn Hỷ.

    Đức Văn Thù bèn nói bài kệ:

    Bầu đắng rễ cũng đắng,
    Dưa ngọt tận cuống ngọt.
    Tu hành ba đại kiếp,
    Lại bị lão tăng từ (chối).


    Thấu đến Trong Ấy lại còn nói có tâm câu chấp nữa ư?

    Tổ Tuyết Đậu tụng rằng:

    Ngàn đỉnh nhấp nhô một màu lam,
    Ai là Văn Thù để đối đàm.
    Nực cười Thanh Lương nhiều ít chúng,
    Trước ba ba sau cũng ba ba.


    Chỗ này mà thấu thoát được mới cho gặp mặt Đức Văn Thù.


  3. #13
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    DUYÊN KHỞI CỦA KINH



    Kinh:

    - Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày kỵ (giỗ) phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai. Tự Ngài đứng nơi cung dịch nghinh rước Đức Như Lai, dọn bày các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ Tát. Trong thành lại có các trưởng giả, cư sĩ cùng dự lễ Trai Tăng chờ Phật đến chứng minh. Phật khiến Ngài Văn Thù phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đi đến nhà các trai chủ.

    Duy có Ông A Nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Ông về một mình, không có Thượng tọa hay A xà lê cùng đi, và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, ông mang bình bát vào trong một thành, trên đường đi tuần tự khất thực. Ban đầu, trong lòng cầu được một người bố thí tối hậu để làm trai chủ, không kể sang hèn, đều hành tâm Từ bình đẳng. Phát tâm viên thành cho tất cả chúng sanh được vô lượng công đức.

    Ông A Nan đã biết đức Phật quở ông Tu Bồ Đề và Ông Đại Ca Diếp làm bậc A La Hán, mà tâm chẳng bình đẳng. Ông kính vâng lời khai thị của Phật, lìa thoát mọi nghi báng. Đi đến bên thành, thong thả vào cửa, nghiêm chỉnh oai nghi, kính giữ phép hóa trai.


    Thông rằng: Vua Ba Tư Nặc cùng các vị trưởng giả, cư sĩ đồng thời cùng dự lễ Trai Tăng, sao ân cần như vậy? Vì công đức Trai Tăng rất lợi ích. Phật có thuyết cho Ông Cấp Cô Độc về quả báo của bố thí: hoặc là bố thí nhiều mà quả báo ít, hoặc là bố thí ít mà quả báo nhiều. Cúng dường cho ngàn vị Phật, không bằng cúng dường cho một vị Tịnh Hạnh. Cho đến cúng dường trăm ngàn vị Phật không bằng cúng dường cho một một vị Không Niệm, Không Trụ, Không Tu, Không Chứng.

    Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói rằng:

    - Phật dạy: Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người giữ Ngũ Giới ăn. Cho một vạn người giữ Ngũ Giới ăn không bằng cúng dường một vị Tu Đà Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu Đà Hoàn không bằng cúng dường một vị Tư Đà Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư Đà Hàm không bằng cúng dường một vị A Na Hàm. Cúng dường một ức vị A Na Hàm không bằng cúng dường một vị A La Hán. Cúng dường mười ức vị A La Hán không bằng cúng dường một vị Bích Chi Phật. Cúng dường một trăm ức vị Bích Chi Phật không bằng cúng dường ba đời Chư Phật. Cúng dường ngàn ức ba đời Chư Phật không bằng cúng dường cho một vị Không Niệm, Không Trụ, Không Tu, Không Chứng.


  4. #14
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Đại lược hai đoạn trên tương đồng với nhau.

    Có vị sư hỏi Tổ Lạc Phổ:

    - Cúng dường trăm ngàn vị Phật chẳng bằng cúng dường một vị đạo nhân không tâm (Vô Tâm). Trăm ngàn chư Phật có lỗi gì? Người đạo nhân Vô Tâm có đức gì? Tổ đáp:

    - Một mảnh mây trắng qua trước hang. Biết bao chim chóc lạc ổ về. Ngài Đơn Hà tụng rằng:

    Thập Đắc bơ thờ không tỏ hiểu,
    Hàn Sơn uể oải chẳng biết về.
    Trước tiếng (thanh tiền) một câu viên âm đẹp,
    Ngoài vật ba núi mảnh trăng soi.

    Dịch:

    Thập Đắc số dung phi giác hiểu,
    Hàn Sơn lại đọa bất tư quy.
    Thanh tiền nhất cú viên âm mỹ,
    Vật ngoại tam sơn phiến nguyệt quy.

    Câu ba: Viên Âm là tiếng vọng trải khắp mầu nhiệm, thuộc ẩn. Câu bốn là hiển.

    Đây là riêng tụng về đạo nhân Vô Tâm đó vậy.

    Ông Cam Chi hành giả một ngày kia vào chỗ Ngài Nam Tuyền bày Trai cúng, gặp Tổ Huỳnh Bá làm Thủ Tòa. Ông xin được bố thí tiền của.

    Tổ Bá nói:

    - Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

    Ông Cam Chi nói:

    - Nói thế nào để tiêu được cái của cúng của tôi? Bèn ra về.

    Một lát, lại trở vào, nói:

    - Xin được thí tài. Tổ Bá nói:

    - Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

    Ông Cam Chi bèn dâng cúng. Lại một ngày nọ, ông vào chùa dọn cháo, xin Tổ Nam Tuyền tụng niệm cho. Tổ Tuyền mới bạch chùy, nói:

    - Xin đại chúng vì chồn, trâu già mà niệm: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ông Cam Chi bèn phất tay áo đi ra. Dùng cháo xong, Tổ Tuyền hỏi thầy Điển Tòa:

    - Hành giả đâu rồi?

    Đáp:

    - Liền khi nãy đi rồi.

    Tổ Tuyền bèn đập nát cái nồi.

    Ngài Sớ Sơn tụng rằng:

    Một mình bày cháo khoe anh tuấn,
    Nào hay vương lão lại phong lưu.
    Đập tan nồi cháo bày vụng xấu,
    Chồn với trâu già một lượt thâu.

    Như Ông Cam Chi mới đáng gọi là có thể cúng dường đạo nhân Vô Tâm vậy.


  5. #15
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Hành khất có năm nghĩa: Một là, trong chứng bình đẳng, ngoài không thấy tướng giàu nghèo. Hai là, rời cái tâm tham lam kiêu mạn ngã theo điều lợi. Ba là, có sức Đại Định, chẳng có sợ các độc dữ của nhà gái dâm. Bốn là, lìa bỏ sự nghi ghét của phàm phu. Năm là, phá chỗ phân biệt của Nhị Thừa.

    Đức Duy Ma Cật nói rằng:

    - Nơi ăn mà bình đẳng, thì nơi pháp cũng bình đẳng. Chẳng luận sang hèn, dơ sạch đều chứng Bồ Đề. Đó là viên thành vô lượng công đức của tất cả chúng sanh. Ông Tu Bồ Đề thì bỏ nghèo theo giàu. Ông Đại Ca Diếp thì bỏ giàu theo nghèo. Thế tức là lòng Từ chẳng quân bình, chẳng gọi là lòng Từ bình đẳng. Nhưng khi Ông A Nan trong tâm vừa khởi niệm như thế, là đã rơi vào ý thức phân biệt, bèn thuộc về cái kế sanh nhai của nhà quỷ, nên ma mới có cơ hội.

    Làm sao sánh được với sự hành khất như thế này: Thuở trước, có vị Hòa Thượng, thường dùng gậy quảy một cái bao bố với cái nệm rách. Bao nhiêu đồ dùng đều bỏ hết ráo trong cái bao ấy. Vào chợ búa xóm làng, thấy vật gì thì xin. Hoặc thịt chua cá mặn, vừa lấy thì bỏ vào miệng, còn lại thì bỏ trong bao. Đời ấy người ta gọi là Trường Đinh Tử. Một hôm, có vị tăng đi trước mặt, Sư bèn vỗ vào lưng, vị tăng quay đầu lại. Sư nói:

    - Cho ta một đồng tiền.

    Tăng nói:

    - Nói được thì cho ông một đồng tiền.

    Sư bỏ cái bao bố xuống, khoanh tay mà đứng sững. Lại một ngày nọ, Ngài đứng ở chợ. Có vị tăng hỏi:

    - Hòa Thượng tại Trong Ấy làm cái gì? Ngài đáp:

    - Đồng với: Con Người.

    Tăng rằng:

    - Đến rồi vậy, đến rồi vậy.

    Ngài nói:

    - Ông chẳng phải là con người ấy đâu. Tăng hỏi:

    - Thế nào là con người đó?

    Ngài đáp:

    - Cho ta một đồng tiền!

    Ngài có bài kệ:

    Một bát cơm ngàn nhà,
    Cô thân muôn dặm xa.
    Mắt xanh, người ít thấy,
    Mây trắng hỏi đường qua.


    Bản gốc:

    Nhất bát thiên gia phạn,
    Cô thân vạn lý du.
    Thanh mục đỗ nhân thiển,
    Vấn lộ bạch vân đầu.


    Nếu khế hợp được chỗ ấy, có thể nói là được Nghi Thức của Chư Phật vậy.


  6. #16
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Một hôm, đức Phật bảo A Nan:

    - Đã đến giờ, ông nên vào thành đi trì bát.

    A Nan vâng lời. Thế Tôn nói:

    - Ông đã ôm giữ bát thì phải y theo Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ.

    Ông A Nan mới hỏi:

    - Như thế nào là Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ? Thế Tôn gọi lớn:

    - A Nan!

    Ông A Nan ứng dạ.

    Thế Tôn rằng:

    - Ôm bát đi! (Ôi, nếu Ông A Nan sớm hiểu chỗ này, thì đâu có việc Ma Đăng Già!)

    Kinh:

    - Khi đi khất thực, Ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyền thuật của cô ta, là tà chú Ta Tì Ca La của ngoại đạo, bắt vào giường riêng dựa kề vuốt ve làm cho ông gần phá giới thể.

    Đức Như Lai biết Ông A Nan mắc phải dâm thuật, dùng trai xong liền trở về. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong được nghe Pháp yếu.

    Khi ấy, trên đỉnh Thế Tôn phóng ra ánh sáng rực rỡ Vô Úy, trong hào quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, trên có Hóa Thân của Phật ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú khiến Ngài Văn Thù Sư Lợi đem chú này đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú rồi đưa Ông A Nan và nàng Ma Đăng Già về chỗ của Phật.



    Thông rằng: Bộ Hiệp Luận nói Đức Phật thương xót chúng sanh bị trôi lăn trong Tam Giới đều do mắc vào Dục. Trong các thứ Dục, chỉ có cái Dâm Dục là nặng hơn hết, nên bộ kinh này mở đầu bằng việc cô Ma Đăng Già. Để nhấn mạnh là nếu bị chìm đắm vào đó là một hoạn nạn lớn, mà diệt trừ được lại là một lợi ích lớn. Ví như chăn dê thì đánh ở sau, nên hễ có cơ hội là răn nhủ cẩn thận.

    Có vị tỳ kheo ni tên là Bảo Hương, thọ Bồ Tát giới mà lại lén làm chuyện dâm, lại nói xằng rằng Dâm Dục chẳng phải giết hại hay trộm cắp nên chẳng có sự trả Nghiệp. Liền từ nữ căn sanh ra ngọn lửa lớn rồi dần dần thiêu luôn cả cơ thể, đọa vào Vô Gián địa ngục.

    Còn Ngài Ô Sắc Ma thì nghe Phật dạy rằng người đa dâm như đống lửa lớn, nên tu mà hóa Tánh Dâm thành Hỏa Quang Tam Muội, chứng quả A La Hán. Ngài nói rằng:

    - Các phiền não đã tiêu, sanh ra ngọn lửa quý báu, lên bậc Vô Thượng Giác. Ôi! Vô Thượng Giác là địa vị Phật mà nhờ quán sát Dâm Tánh thì có thể lên được! Địa ngục Vô Gián là đường dữ mà vì theo chuyện dâm nên đang còn sống mà đã bị đọa vào. Luận về mười loại Tập Nhân thì Dâm Tập đứng đầu. Nói là Dâm Tập đứng đầu vì đó là sự giao tiếp, phát sinh từ sự cọ xát, nên có ngọn lửa rất mạnh phát ra ở bên trong. Cớ nên Phật bảo sự Hành Dâm gọi là Lửa Dục. Sau mới đến những tội Tham Lam, Kiêu Mạn. Trong Bộ Luật, nói về ba Nghĩa Quyết Định Tu Hành, đó là nhiếp tâm làm Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ, gọi là ba Vô Lậu Học. Sự đoạn trừ Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì kinh này nói Đoạn Dâm trước hết.



  7. #17
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ Tát tự kể về ba mươi hai Ứng Thân thuyết pháp của Ngài, nói rằng:

    - Phạm Thiên Vương nhờ Dục tâm được Minh Ngộ mà cùng với Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đồng gọi là Giải Thoát, còn hai mươi tám hạng kia chỉ có tên thành tựu mà thôi. Lại năm thứ Mùi Cay là thứ làm phát Dâm, tăng Oán Giận nên dạy lập ba món Tiệm Thứ để đoạn trừ, gọi là Tăng Tiến Đệ Nhất. Lại dạy rằng phải quán sát Dâm Dục hơn cả rắn độc, nếu thành tựu được Cấm Giới thì với con mắt thịt của cha mẹ sinh ra có thể thấy suốt cả mười phương.

    Đó là gặp cơ hội thì dặn dò kỹ lưỡng vậy. Bộ Luận này quả đã uốn nắn cho ngay ngắn toàn thể mạch lạc của kinh, dặn dò kỹ lưỡng, tỏ liễu sâu xa chỗ mở dạy của bộ kinh mà lấy việc dứt lìa cái Dâm Dục làm đầu, khiến cho người ta sợ hãi đến dựng tóc gáy, lạnh xương sống. Tuy nhiên, người chứng Thật Trí, thì thấy tất cả Thanh, Sắc đều như huyễn như mộng, việc dữ kia chẳng có bóng dáng nào cả ở trong ấy.

    Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói:

    - Người nhiều Ái Dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất phải bị cháy tay.

    Thiên Thần dâng Ngọc Nữ để thử Phật, muốn xem đạo ý Ngài ra sao.

    Phật nói:

    - Cái bao da chứa đồ dơ kia đến đây làm gì. Hãy đi đi! Ta chẳng dùng đến. Vị Thiên Thần rất kính trọng, thưa hỏi ý đạo. Phật dạy cho, liền đắc quả Tu Đà Hoàn.

    Lại còn Kinh Duy Ma Cật có đoạn ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ:

    - Sao cô chẳng chuyển thân nữ?

    Thiên nữ đáp:

    - Từ mười hai năm nay, tôi tìm cầu hình tướng người nữ mà chẳng thể được. Vậy thì phải chuyển cái gì? Ví như một nhà huyễn thuật, tạo ra một người nữ huyễn.

    Như có người hỏi cô ấy:

    - Sao cô không chuyển thân nữ đi? Người ấy hỏi có đúng không?

    Xá Lợi Phất trả lời:

    - Không đúng! Huyễn không có tướng nhất định, thì có gì mà chuyển.

    Thiên Nữ nói:

    - Tất cả Chư Phật cũng lại như thế. Hết thảy đều không có định tướng, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ?

    Liền đó, Thiên Nữ dùng thần thông biến Ông Xá Lợi Phất thành Thiên Nữ và Thiên Nữ thì hóa thân thành như Xá Lợi Phất; rồi hỏi rằng:

    - Sao ông chẳng chuyển thân nữ?

    Ông Xá Lợi Phất trong hình tướng thân nữ đáp rằng:

    - Không hiểu sao tôi lại biến thành thân nữ? Thiên Nữ nói:

    - Nếu Ông Xá Lợi Phất có thể chuyển thân nữ này, thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Như Xá Lợi Phất chẳng phải là người nữ mà lại hiện thân nữ, tất cả người nữ lại cũng như thế, tuy hiện thân nữ mà chẳng phải là người nữ.


    Thế nên, đức Phật nói rằng:

    - Tất cả các pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ.

    Thiên Nữ liền thu lại thần lực, Ông Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên Nữ bảo:

    - Này, Ông Xá Lợi Phất, sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu? Xá Lợi Phất nói:

    - Sắc tướng thân nữ không có ở đâu mà không đâu chẳng có. Thiên Nữ nói:

    - Tất cả các pháp lại cũng như thế, không có ở đâu mà không đâu chẳng có.


    Ôi! Thần lực của Thiên Nữ có thể chuyển Ông Xá Lợi Phất, còn chú Tiên Phạm Thiên có thể hủy phá Giới Thể của Ông A Nan. Nghĩa hai đoạn kinh có thể so sánh cho rõ ràng vậy.


  8. #18
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    - A Nan thấy Phật, cúi lạy buồn khóc, căm hận mình từ vô thủy đến nay một bề nghe rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực. Tha thiết xin Phật dạy cho những Pháp Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma (Quán), Thiền Na (Thiền, Chỉ Quán Viên Tu) vi diệu, là những phương tiện tu hành đầu tiên nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Bồ Đề.

    Lúc ấy, lại có hằng sa Bồ Tát, Đại A La Hán và Bích Chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe lời Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ Thánh chỉ.


    Thông rằng: Ông A Nan phát ra lời hỏi đây, là cái xương sống của toàn bộ kinh. Từ đầu đến cuối, Thế Tôn trả lời không bỏ sót chỗ nào. Xa Ma Tha gọi là Chí Tĩnh, là Không Quán. Tam Ma Bát Đề gọi là Lực Dụng Biến Hóa (Như Huyễn), là Giả Quán. Thiền Na là Tịch Diệt, nghĩa là chẳng giữ cái huyễn hóa cũng chẳng trụ tướng Tịnh, tức là Trung Quán.

    Kinh Viên Giác nói:

    - Tịch tỉnh Xa Ma Tha, như kính soi muôn tượng. Như Huyễn Tam Ma Đề, như mầm giống dần dần tăng trưởng. Thiền Na là Tịch Diệt, như tiếng vang trong chuông. Ba loại diệu Pháp Môn gọi là Giác Tùy Thuận, nhờ chúng mà mười phương Như Lai cùng chư Đại Bồ Tát được thành đạo. Viên chứng được cả ba thứ là rốt ráo Niết Bàn.

    Ông A Nan một bề nghe nhiều học rộng, chứ nếu vẫn tu tập ba Pháp Môn này thì đâu còn phải hỏi. Nay ông bị huyễn thuật ắt là trước đây các công phu Quán Hạnh, Thiền Định đều chẳng được gì, nên mới nghĩ mười phương Như Lai hẳn phải có điều vi diệu về các thứ này.

    Xét một chữ Diệu, tợ hồ phảng phất thoáng thấy: nào phải mượn đến sự tu hành khó nhọc lao khổ! Chỉ vì chẳng biết cái phương tiện ban đầu hết là do Ngộ Nhập đó vậy.

    Kinh Viên Giác cũng có nói:

    - Chỉ trừ bậc Đốn Giác, thì không theo Pháp Môn. Vốn có một Pháp Môn Đốn Ngộ, chỉ lấy việc Thấy Tánh (Kiến Tánh) làm Tông. Cho nên, nếu thấy được Tánh, thì Vô Tâm đối với Chỉ, Quán mà Chỉ Quán tự có sẵn. Không thấy Tánh, tuy hằng ngày có tu Chỉ Quán cũng khó địch với cảnh ma.

    Chỉ có Thấy Tánh mới được Diệu.

    Đoạn kinh sau có nói đến: Diệu Minh Chân Tâm, Biển Diệu Trang Nghiêm, Diệu Minh Minh Diệu... đều để trả lời cho ý nghĩa của chữ Diệu, mà chấm dứt bằng bài kệ:

    Gọi đó Diệu Liên Hoa,
    Kim Cương Vương, Bảo Giác.
    Như huyễn Tam Ma Đề,
    Khẩy tay, vượt Vô Học.
    Pháp này là Vô Thượng,
    Một đường trực nhập Niết Bàn,
    Của mười phương chư Phật.


    Pháp Đốn Ngộ này, chẳng phải các loại Chỉ Quán, Thiền Định tầm thường có thể so sánh.


  9. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    honglien (07-03-2015)

  10. #19
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thuở xưa, Ngài Tuyết Phong ba lần tham yết Tổ Đầu Tử, chín lần thưa hỏi Tổ Động Sơn, cũng đã là bậc đa văn. Kế thế Tổ Đức Sơn rồi, cùng Tổ Nham Đầu đến núi Ngao Sơn ở Lễ Châu. Gặp lúc tuyết rơi, Tổ Đầu mỗi ngày chỉ lo ngủ, còn Ngài Tuyết Phong cứ một mạch tọa thiền.

    Một hôm, Ngài kêu lớn rằng:

    - Sư huynh, Sư huynh! Dậy đi chớ!

    Tổ Nham Đầu rằng:

    - Làm cái gì? Ngài đáp:

    - Đời này chẳng lo xong thì gặp cái lão Văn Thúy ấy sẽ bị lão trói đấy. Ngày nay đã đến đây, vậy mà chỉ lo ngủ.

    Tổ Nham Đầu hét to:

    - Cây cột phướn, ngủ đi! Hằng ngày cứ ngồi như ông Thổ Địa trong làng rồi sau nầy đi làm nam nữ ma mị nhà người!

    Ngài tự chỉ vào ngực mà nói:

    - Tôi đây trong cái ấy chưa yên, chẳng dám tự dối mình.

    Tổ Nham Đầu nói:

    - Tôi sắp nói rằng ngày sau ông sẽ hướng lên đỉnh núi trơ trụi trên tảng đá kết thảo am, xiển dương đại giáo, sao ông lại nói như thế?

    Ngài nói:

    - Tôi ở trong ấy quả thật không yên. Tổ Nham Đầu nói:

    - Nếu ông thật như thế, thì cứ theo chỗ thấy của ông, mỗi mỗi nói ra hết đi. Đúng, tôi sẽ chứng minh cho. Không đúng, tôi sửa sang đẽo gọt cho.

    Ngài nói:

    - Mới đầu, tôi đến tham yết Ngài Giám Quan, nghe buổi giảng nêu lên cái nghĩa Sắc Không, bèn có chỗ vào.

    Tổ Nham Đầu nói:

    -Chuyện ấy đã ba mươi năm rồi, rất kỵ nêu lại!

    Ngài nói:

    - Lại thấy bài kệ của Tổ Động Sơn:

    Thiết kỵ tùng tha mích,
    Điều điều dữ ngã sơ.
    Cừ kim chính thị ngã,
    Ngã kim bất thị cừ.


    Dịch:

    Rất kỵ tìm nơi khác,
    Mỗi mỗi càng cách xa.
    Y nay chính là ta,
    Ta giờ chẳng phải y.




    Tổ Nham Đầu nói:

    - Nếu cho là như thế thì tự cứu cũng chẳng xong.

    Ngài lại nói:

    - Sau đến hỏi Ngài Đức Sơn: Việc xưa nay trong Tông Thừa người tu học có được phần nào chăng?

    Tổ Đức Sơn đánh cho một gậy, mà rằng:

    - Nói gì vậy? Khi ấy, tôi như thùng vỡ đáy.

    Tổ Nham Đầu hét to:

    - Ông há chẳng nghe nói: Từ cửa mà vào ắt chẳng phải là của báu nhà mình, sao?

    Ngài hỏi:

    - Ngày sau như thế nào mới phải?

    Tổ Nham Đầu đáp:

    - Ngày sau mà muốn hoằng dương đại giáo, mỗi mỗi đều từ trong ngực mình tuôn ra. Ngày sau hãy cùng ta mà trùm trời trùm đất đi.

    Ngài Tuyết Phong nghe xong đại ngộ, bèn làm lễ, mừng rỡ la lên rằng:

    - Sư huynh ơi, hôm nay mới đúng là Ngao Sơn thành đạo.

    Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay. Đâu phải cứ một bề ngồi thiền mà có được thứ thoại đầu này!


  11. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (07-04-2015)

  12. #20
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts

    QUYỂN I

    PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

    CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

    MỤC MỘT: GẠN HỎI CÁI TÂM

    I - NGUYÊN DO CỦA THƯỜNG TRỤ VÀ LƯU CHUYỂN


    Kinh:

    Phật bảo Ông A Nan:

    - Ông với Ta đồng phái, tình như anh em ruột. Khi ông mới phát tâm, thì ở trong Phật Pháp, thấy tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng của thế gian?

    Ông A Nan bạch Phật:

    - Tôi thấy ba mươi hai tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly. Thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do Dục Ái sanh ra. Vì sao? Thứ dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sanh được thân vàng chói trong sạch sáng ngời như vậy, nên tôi khao khát ngưỡng mộ xuống tóc mà theo Phật.


    Thông rằng: Ông A Nan nhờ có cái suy nghĩ này làm gốc rễ cho tâm đạo ban đầu, nên khi gặp huyễn thuật, chẳng có quá đỗi hoa mắt mê loạn, dù đã vào nhà dâm mà chưa phá hủy Giới Thể. Nhưng chỉ lấy ba mươi hai tướng tốt mà thấy Như Lai, không khỏi dùng Sắc mà thấy, lấy Tiếng mà cầu, nên còn trong tà giải, đối với Chân Pháp Thân của Phật còn xa xôi lắm.

    Thiền sư Tùy Châu Pháp Vi thượng đường rằng:

    - Cái Pháp Thân không có hình tướng, chẳng thể dùng âm thanh tìm cầu. Diệu đạo tuyệt hết lời nói, đâu phải lấy văn tự mà hiểu. Cho dù siêu Phật, vượt Tổ vẫn còn rơi vào thềm bực. Dù cho có nói diệu, bàn huyền rốt cuộc cũng treo môi răng. Cần phải: chỗ công đức chẳng hưởng chút công lao, hình ảnh vết tích chẳng còn lưu lại; cây khô hang lạnh rốt thảy vô tri; người huyễn ngựa gỗ, tình thức đều không. Chừng ấy mới thỏng tay vào chợ, chuyển thân loài khác. Không thấy đạo, thì: Nơi đất vô lậu nào ở được. Đành về cát lạnh khói sương nằm.

    Đối với chỗ này tỏ hiểu thì nào phải đợi thấy cái thân vàng chói trong sạch mới gọi là Như Lai ư?

    Kinh:

    Phật dạy:

    - Lành thay, A Nan! Các ông phải biết tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống chết nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Thể Tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà lại dùng các Vọng Tưởng. Các tưởng này chẳng chân thật, nên mới có sự chuyển động trôi lăn.


    Thông rằng: Ông A Nan ân cần, tha thiết thưa hỏi Pháp Môn Vi Diệu Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na là những phương tiện ban đầu nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Chánh Giác. Chính là muốn biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể trong sạch sáng suốt, là cái Bản Thể Bất Diệt không bị xoay chuyển luân hồi. Ông đã nói: Tướng ấy chẳng phải do Ái Dục sanh ra, là đã hiểu rõ rằng Dục Ái nhơ nhớp, Vọng Tưởng tạp loạn chính là cái gốc rễ Sanh Tử từ vô thủy đến giờ. Cho nên Phật mới khen rằng:

    - Lành thay! Cái Chân Tâm Thường Trụ, vốn không sanh ra và diệt mất. Vừa khởi Vọng Tưởng liền nhập luân hồi. Không phải chỉ có Dục Ái nặng nề, nghiệp dữ đa mang đều chẳng phải chơn, mà bậc Thanh Văn, Duyên Giác chưa hết lòng chấp trước thì cũng đều là Vọng. Vọng tưởng hết sạch thì Tánh Thể sáng suốt, vốn tự Vô Sanh, làm sao mà có luân chuyển. Toàn cả bộ kinh đều phát minh ý chỉ này. Cho nên, biết cái Chân Tâm Thường Trụ, tức là Thấy Tánh, Thấy Tánh thì Vô Sự vậy.

    Ngài Linh Vân thượng đường dạy:

    - Hỡi các nhân giả, hễ có dài có ngắn là chẳng có Thường. Hãy xem bốn mùa hoa cỏ, hoa nở lá rơi. Xưa nay trời người bảy nẻo, Đất Nước Gió Lửa, thành hoại chuyển vần, nhân quả nối nhau, ba đường ác khổ, mảy lông cọng tóc chưa từng thêm bớt, chỉ có cái gốc thần thức là thường còn. Hạng Thượng Căn gặp bạn lành soi sáng, ngay đây là Giải Thoát, trước mắt là đạo tràng. Bực Trung, bực Hạ si mê ám độn, chẳng soi suốt được, mê chìm trong ba cõi, luân chuyển tử sinh. Đức Thích Tôn vì họ, tất cả Trời người, mà dạy dỗ chứng minh, tỏ bày con đường Vô Thượng. Các ông lại am hiểu chăng?

    Có vị tăng hỏi:

    - Làm sao để ra khỏi Sanh Lão Bệnh Tử?

    Ngài đáp:

    Thanh sơn nguyên bất động,
    Phù vân nhậm khứ lai.


    Dịch:

    Núi xanh nguyên chẳng động,
    Mặc tình mây lại qua.


    Câu này đủ để chú thích đoạn kinh trên. Không thể thêm bớt một chữ.


Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •