Bài 69.


4. THIỀN SƯ HIỂU LIỄU 曉了 NÚI BIỂN THIỀM.


Truyện ký không ghi, chỉ có môn nhân Bắc Tông là Hốt Lôi Trừng viết văn bia ở tháp Sư, được truyền thạnh hành ngoài đời.

Tóm lược:

Sư trụ núi Biển Thiềm, pháp hiệu Hiểu Liễu, là đích tự (pháp tự chánh truyền) của Lục Tổ.

Sư được cái tâm vô tâm,
Thấy rõ cái không tướng nơi các tướng;
Không tướng đó là tất cả sum la vạn tượng này,
Vô tâm là phân biệt rõ ràng,
mà không hề một lời vang vọng.
Cái vang không thể truyền, cái để lại cho hậu thế là gương sống (thân giáo) của sư.
Không thể dùng lời ca tụng hết về sư, nếu nói cạn được là chẳng đúng rồi !
Sư tự được Không, Không là không tất cả;
Ta nay đang Có, Có là có tất cả.
Thiệt chẳng có mà Có, nên dầu Sư đến, thế gian chẳng tăng.
Thiệt chẳng không mà Không, nên dầu Sư có nhập Niết bàn, thế gian này chẳng giảm.

Sư đắc vô tâm chi tâm,
Liễu vô tướng chi tướng,
Vô tướng giả sâm la huyễn mục,
Vô tâm giả phân biệt sí nhiên,
Tuyệt nhất ngôn nhất hưởng.
Hưởng mạc khả truyền, truyền chi hành hĩ,
Ngôn mạc khả cùng, cùng chi phi hĩ .
Sư tự đắc vô, vô chi vô bất vô ư vô dã .
Ngô kim dĩ hữu hữu chi hữu bất hữu ư hữu dã
Bất hữu chi hữu khứ lai phi tăng.
Bất vô chi vô Niết bàn phi giảm .

師得無心之心,
了無相之相,
無相者森羅眩目,
無心者分別熾 然.
絕一言一響
響莫可傳傳之行矣,
言莫可窮窮之非矣.
師自得無無之無不無於無也
吾今以有有之有不有於有也
不有之有去 來非增
不無之無涅槃非減.

Than ôi!
Sư trụ thế chừ Tào Khê tỏ,
Sư tịch diệt chừ thuyền pháp nghiêng.
Sư nói hay nín chừ hoàn vũ đầy,
Sư dạy chúng mê chừ thừa liễu nghĩa.
Màu núi Biển Thiềm phô sắc thắm,
Hang không còn mãi Hiểu Liễu danh.

嗚呼 !
師住世兮曹谿明,
師寂滅兮法舟傾.
師譚無說兮寰宇盈,
師示迷徒兮了義乘.
匾擔山色垂茲色,
空谷猶留曉了名.


Ô hô !
Sư trụ thế hề Tào Khê minh,
Sư tịch diệt hề pháp chu khuynh.
Sư đàm vô thuyết hề hoàn vũ doanh,
Sư kì mê đồ hề liễu nghĩa thừa.
Biển đam sơn sắc thùy tư sắc,
Không cốc do lưu Hiểu Liễu danh.