Bài 69.
4. THIỀN SƯ HIỂU LIỄU 曉了 NÚI BIỂN THIỀM.
Truyện ký không ghi, chỉ có môn nhân Bắc Tông là Hốt Lôi Trừng viết văn bia ở tháp Sư, được truyền thạnh hành ngoài đời.
Tóm lược:
Sư trụ núi Biển Thiềm, pháp hiệu Hiểu Liễu, là đích tự (pháp tự chánh truyền) của Lục Tổ.
Sư được cái tâm vô tâm,
Thấy rõ cái không tướng nơi các tướng;
Không tướng đó là tất cả sum la vạn tượng này,
Vô tâm là phân biệt rõ ràng,
mà không hề một lời vang vọng.
Cái vang không thể truyền, cái để lại cho hậu thế là gương sống (thân giáo) của sư.
Không thể dùng lời ca tụng hết về sư, nếu nói cạn được là chẳng đúng rồi !
Sư tự được Không, Không là không tất cả;
Ta nay đang Có, Có là có tất cả.
Thiệt chẳng có mà Có, nên dầu Sư đến, thế gian chẳng tăng.
Thiệt chẳng không mà Không, nên dầu Sư có nhập Niết bàn, thế gian này chẳng giảm.
Sư đắc vô tâm chi tâm,
Liễu vô tướng chi tướng,
Vô tướng giả sâm la huyễn mục,
Vô tâm giả phân biệt sí nhiên,
Tuyệt nhất ngôn nhất hưởng.
Hưởng mạc khả truyền, truyền chi hành hĩ,
Ngôn mạc khả cùng, cùng chi phi hĩ .
Sư tự đắc vô, vô chi vô bất vô ư vô dã .
Ngô kim dĩ hữu hữu chi hữu bất hữu ư hữu dã
Bất hữu chi hữu khứ lai phi tăng.
Bất vô chi vô Niết bàn phi giảm .
師得無心之心,
了無相之相,
無相者森羅眩目,
無心者分別熾 然.
絕一言一響
響莫可傳傳之行矣,
言莫可窮窮之非矣.
師自得無無之無不無於無也
吾今以有有之有不有於有也
不有之有去 來非增
不無之無涅槃非減.
Than ôi!
Sư trụ thế chừ Tào Khê tỏ,
Sư tịch diệt chừ thuyền pháp nghiêng.
Sư nói hay nín chừ hoàn vũ đầy,
Sư dạy chúng mê chừ thừa liễu nghĩa.
Màu núi Biển Thiềm phô sắc thắm,
Hang không còn mãi Hiểu Liễu danh.
嗚呼 !
師住世兮曹谿明,
師寂滅兮法舟傾.
師譚無說兮寰宇盈,
師示迷徒兮了義乘.
匾擔山色垂茲色,
空谷猶留曉了名.
Ô hô !
Sư trụ thế hề Tào Khê minh,
Sư tịch diệt hề pháp chu khuynh.
Sư đàm vô thuyết hề hoàn vũ doanh,
Sư kì mê đồ hề liễu nghĩa thừa.
Biển đam sơn sắc thùy tư sắc,
Không cốc do lưu Hiểu Liễu danh.
NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Bài 70.
5. THIỀN SƯ TRÍ HOÀNG 智隍 Ở HÀ BẮC.
Ban đầu tham học nơi pháp tịch Ngũ Tổ, tuy thường thưa hỏi nhờ quyết nghi nhưng lại thuận theo đường tiệm. Về sau đến Hà Bắc kết am chuyên tọa thiền, trên hai mươi năm không hề biếng nhác.
Khi gặp môn nhân Lục Tổ là Thiền sư Huyền Sách du phương đến đó, khích lệ Sư phải đi cầu pháp yếu. Sư bèn bỏ am đi tham vấn Lục Tổ.
Tổ thương ông từ phương xa đến mà rủ lòng khai mở. Qua lời Tổ dạy Sư hốt nhiên khế ngộ, tâm sở đắc 20 năm trước không còn ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc, đàn việt sĩ thứ bỗng nghe có tiếng nói trong không trung: “Thiền sư Hoàng hôm nay đắc đạo”.
Sau Sư về Hà Bắc khai hóa tứ chúng.
NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Bài 71.
6. THIỀN SƯ PHÁP ĐẠT 法達 Ở HỒNG CHÂU.
Người ở Phong Thành, Hồng Châu. Bảy tuổi xuất gia tụng kinh Pháp Hoa. Sau khi thọ giới cụ túc, đến lễ Tổ Sư mà đầu không chấm đất, Tổ quở:
- Lễ mà đầu không sát đất chi bằng đừng lễ. Trong tâm ông ắt có một vật tích chứa đã lâu, việc gì vậy?
Sư đáp:
- Tôi tụng Kinh Pháp Hoa đã tới 3.000 bộ.
Tổ nói:
- Ông nếu tụng đến muôn bộ, liễu đạt ý kinh mà không cho là hơn, thì cùng ta đồng hành. Nay ông mang sự nghiệp đó, "u u minh minh" không biết lỗi. Hãy nghe ta nói kệ:
Lễ bổn chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa ?
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phước vô tỉ.
禮本折慢幢,
頭奚不至地.
有我罪即生,
亡功福無比
Bày ra Lễ để đốn gẫy cờ mạn (lòng kiêu mạn)
Cớ sao đầu không chấm đất?
Chấp Ta tội liền sanh,
Làm mà không thấy mình có công, phước vô cùng.
Tổ lại hỏi:
- Ông tên gì?
Đáp:
- Dạ ! Con tên Pháp Đạt.
Tổ nói:
- Ông tên Pháp Đạt, đâu từng đạt pháp?
Tổ lại nói kệ:
Nhữ kim danh Pháp Đạt,
Cần tụng vị hưu hiết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết.
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tòng khẩu phát.
汝今名法達
勤誦未休歇
空誦但循聲
明心號菩薩
汝今有緣故
吾今為汝說
但信佛無言
蓮華從口發
Ông nay tên Pháp Đạt,
Siêng tụng chưa bỏ sót.
Nhưng chỉ tụng suông theo tiếng mà thôi,
Nếu do đây mà nhận ra ý Phật nói thì gọi là Bồ tát.
Ông nay có duyên đó,
Cho nên ta sẽ vì ông mà nói :
Hãy tin rằng : xưa nay Phật không nói một lời,
thì mỗi lời ta nói ra, sẽ là một hoa sen.
Sư nghe kệ hối lỗi, thưa:
- Dạ ! Từ nay về sau con sẽ khiêm cung tất cả. Chỉ mong Hòa thượng đại từ lược nói nghĩa lý trong kinh.
Tổ hỏi:
- Ông tụng kinh này lấy gì làm tông?
Sư đáp:
- Học nhân ngu độn, từ nào đến giờ chỉ y theo văn tụng niệm, đâu biết tông thú.
Tổ nói:
- Ông thử tụng một biến cho ta nghe, ta sẽ giải thuyết cho ông.
Sư liền cất tiếng tụng kinh đến phẩm Phương Tiện. Tổ bảo dừng:
- Kinh này hóa ra lấy nhân duyên xuất thế làm tông, dù cho có nói nhiều thứ thí dụ cũng không ngoài ý này: Cái gì là nhân duyên? – Chỉ có một đại sự thôi, một đại sự đó tức là tri kiến Phật.
Ông thận trọng chớ hiểu sai ý kinh. Thấy kinh nói khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, thì hiểu tất nhiên là tri kiến của Phật, chúng ta lại vô phần. Nếu hiểu như thế lại là báng kinh hủy Phật, kia đã là Phật đã đầy đủ tri kiến, cần gì khai nữa? Ông nay phải tin tri kiến Phật chỉ là tự tâm ông, không còn cái thể nào khác nữa.
Bởi vì tất cả chúng sanh tự che đậy quang minh, tham ái trần cảnh duyên bên ngoài, rối loạn bên trong, đành chịu rong ruổi. Làm nhọc đến Phật kia, phải rời tam muội, mỏi miệng lắm mà đinh ninh khuyên bảo “Hãy thôi nghỉ đi, đừng hướng ngoại tìm cầu nữa thì cùng Phật không hai”. Thế nên nói khai tri kiến Phật. Ông chỉ khư khư chấp tụng, gọi đó là công khóa, có khác gì con trâu ly mến cái đuôi của nó?
祖曰止 : 此經元 來以因緣出世為宗, 縱說多種譬喻. 亦無越於此, 何者因緣, 唯一大事, 一大事即佛知見也. 汝慎勿錯解經意, 見他道。開示悟入自是佛之知見. 我輩無分, 若作此解乃是謗經毀佛也. 彼既是佛已具知見. 何用更開, 汝今當信. 佛知見者, 只汝自心更無別體, 蓋為一切眾生自蔽光明. 貪愛塵境外緣內擾甘受驅馳, 便勞他從三昧起, 種種苦口勸令寢息, 莫向外求與佛無二. 故云開佛知見, 汝但勞勞執念謂為功課者, 何異犛牛愛尾也.
Sư thưa:
- Như vậy chỉ cần hiểu được nghĩa, khỏi phiền tụng kinh ư ?
Tổ nói:
- Kinh có lỗi gì, đâu không cho ông tụng? Chỉ là mê ngộ bởi người, lợi hại do ông. Hãy nghe ta nói kệ:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng cửu bất minh kỷ,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà.
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
心迷法華轉
心悟轉法華
誦久不明己
與義作讎家
無念念即正
有念念成邪
有無俱不計
長御白牛車
Tâm mê bị Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng lâu không rõ mình,
Với nghĩa thành oan gia.
Vô niệm thì nghĩ gì cũng được,
Có Niệm thì dầu không nghĩ gì cũng sai.
Có Không đều chẳng kể,
Ngồi mãi xe trâu trắng.
Sư nghe kệ xong, lại thưa:
- Kinh nói: “Chư đại thanh văn cho đến bồ tát đều cùng nhau hết sức nghĩ lường, còn không thể lường nổi trí Phật”. Nay muốn cho phàm phu chỉ cần ngộ tự tâm thì gọi là tri kiến Phật, tự họ chẳng phải hạng thượng căn ắt khó tránh nghi báng. Hơn nữa kinh nói ba xe: xe dê, nai, trâu với xe trâu trắng khác nhau như thế nào? Xin Hòa thượng rủ lòng tuyên thuyết lại.
Tổ nói:
- Ý kinh rõ ràng, tự ông mê thành trái. Các người tam thừa không thể đo lường trí Phật, lỗi họ tại đo lường, dù cho họ hết sức cùng nhau nghĩ suy thì trái lại họ càng cách xa. Phật vốn thuyết cho phàm phu nghe, chẳng thuyết cho Phật, vì không tin nhận lý này nên họ thối tịch theo kia mà mơ mơ hồ hồ không biết mình đã ngồi xe trâu trắng rồi, còn tìm ba xe ở ngoài cửa. Huống nữa kinh văn nói rõ ràng với ông rằng không có hai cũng không có ba, sao ông không xét rõ ?
Ba xe là giả lập vì việc trước, nhất thừa là thật vì việc bây giờ, chỉ cần dạy ông bỏ giả về thật, sau khi về thật rồi thì thật cũng không tên. Nên biết tài sản quý báu sở hữu đều thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi nghĩ đến cha, cũng không khởi nghĩ đến con, tất cả không cần nghĩ.
Như thế gọi là trì kinh Pháp Hoa từ kiếp này đến kiếp kế, tay không rời quyển kinh, suốt ngày lẫn đêm không lúc nào không tụng.
經意分明, 汝自迷背. 諸三乘人不能測佛智者, 患在度量也, 饒伊盡思共推轉加懸遠. 佛本為凡夫說不為佛說, 此理若不肯信者從他退席, 殊不知坐却白牛車, 更於門外覓三車, 況經文明向汝道, 無二亦無三, 汝何不省. 三車是假為昔時故, 一乘是實為今時故, 只教汝去假歸實, 歸實之後實亦無名. 應知所有珍財盡屬於汝由汝受用, 更不作父想, 亦不作子想, 亦無用想. 是名持法華經, 從劫至劫手不釋卷, 從晝至夜無不念時也
Sư đã nhờ khai mở, lòng hớn hở vui mừng, làm kệ tán thán:
Kinh tụng tam thiên bộ,
Tào Khê nhất cú vong.
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh hiết lũy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương.
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương !
經誦三千部
曹谿一句亡
未明出世旨
寧歇累生狂
羊鹿牛權設
初中後善揚
誰知火宅內
元是法中王
Kinh tụng ba ngàn bộ,
Đến Tào Khê, nghe một câu là xong tất cả.
Nếu chưa rõ lối xuất thế,
Đâu hết cuồng nhiều đời.
Dê nai trâu chỉ là phương tiện quyền lập,
Trước giữa sau khéo bày.
Ai hay trong nhà lửa,
Vốn là đấng Pháp Vương !
Tổ nói:
- Từ nay về sau ông mới đáng được gọi là “Tăng tụng kinh”.
Từ lúc Sư lãnh hội huyền chỉ rồi, cũng chẳng bỏ việc tụng kinh.
NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Bài 72.
7. THIỀN SƯ TRÍ THÔNG 智通 Ở THỌ CHÂU.
Người An Phong, Thọ Châu. Lúc đầu xem kinh Lăng Già đến hơn ngàn lần mà không hiểu Tam thân, Tứ trí. Đến lễ Đại sư (Lục Tổ Huệ Năng) cầu giải nghĩa này. [/COLOR]
Tổ nói:
- Tam thân là: Thanh tịnh Pháp thân, là tánh của ông; Viên mãn Báo thân, là trí tuệ của ông; Thiên bá ức Hóa thân, là hạnh của ông.
Nếu lìa bổn tánh, riêng nói Ba thân thì gọi là có thân mà không có trí. Nếu ngộ Ba thân không có tự tánh thì gọi là Tứ trí Bồ đề. Hãy nghe ta nói kệ:
Tự tánh cụ Tam thân,
Phát minh thành Tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ đề.
自性具三身
發明成四智
不離見聞緣
超然登佛地
吾今為汝說
諦信永無迷
莫學馳求者
終日說菩提
Tự tánh đủ Ba thân,
Phát minh thành Tứ trí,
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên Phật địa.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê,
Chớ học kẻ tìm cầu,
Suốt ngày nói Bồ Đề.
Sư hỏi:
- Nghĩa về Tứ trí có thể nghe được chăng?
Tổ nói: Đã hiểu Ba thân thì rõ Tứ trí, sao còn hỏi nữa? Nếu lìa Tam thân mà riêng bàn Tứ trí, đó gọi là có trí mà không thân, theo đó có trí lại thành không trí.
既會三身便明四智,何更問邪.若離三身 別譚四智, 此名有智無身也, 即此有智還成無智.
Kí hội tam thân tiện minh tứ trí, hà canh vấn tà. Nhược li tam thân biệt đàm tứ trí, thử danh hữu trí vô thân dã, tức thử hữu trí hoàn thành vô trí.
Tổ lại nói kệ:
Đại viên cảnh trí, tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí, tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí, kiến phi công,
Thành sở tác trí, đồng viên cảnh,
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển.
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh,
Nếu ngay chỗ chuyển chẳng lưu tình,
Chỗ luôn ồn náo Na già định.
Đại viên kính trí tính thanh tịnh
Bình đẳng tính trí tâm vô bệnh
Diệu quan sát trí kiến phi công
Thành sở tác trí đồng viên kính
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển
Đãn dụng danh giả vô thật tính
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình
Phồn hưng vĩnh xứ Na già định
大圓鏡智性清淨
平等性智心無病
妙觀察智見非功
成所作智同圓鏡
五八六七果因轉
但用名者無實性
若於轉處不留情
繁興永處那伽定
Sư lễ tạ, dùng kệ tán thán:
Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí bổn tâm minh.
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhậm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chơn tinh.
Diệu ngôn nhân sư hiểu,
Chung vong ô nhiễm danh.
Ba thân vốn thân ta,
Bốn trí vốn tâm sáng.
Thân trí thông vô ngại,
Ứng vật mặc tùy hình.
Nghĩ tu đều vọng động,
Giữ trụ trái chơn tinh.
Lời diệu nhờ Tổ rõ,
Quên hết danh nhiễm ô.
NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Bài 73.
8. THIỀN SƯ CHÍ TRIỆT 志徹 Ở GIANG TÂY 江西
Người ở Giang Tây, họ Trương, tên Hành Xương. Lúc nhỏ Xương làm hiệp khách, từ khi thiền tông phân hóa thành Nam Bắc, chủ hai tông tuy không có bỉ ngã nhưng đồ lữ tranh nhau sanh ưa ghét, khi đó môn nhân Bắc Tông tự lập sư Tú làm Tổ thứ sáu, mà đố kỵ việc truyền y cho Huệ Năng Đại sư được thiên hạ đều biết. Nhưng Tổ là Bồ tát dự biết chuyện đó, để trước mười lượng vàng ở phương trượng. Bấy giờ Hành Xương nhận lời với môn nhân Bắc Tông, nửa đêm giấu đao vào thất Tổ sắp muốn ra tay, Tổ đưa cổ mà nhận, Hành Xương vung đao chém ba lần đều không gây tổn hại.
Tổ nói:
- Gươm chánh chẳng làm việc tà, gươm tà chẳng làm việc chánh. Ta chỉ nợ ông vàng không nợ ông mạng.
Hành Xương sợ hãi ngã xuống đất, hồi lâu mới tỉnh lại, xót xa hối lỗi bèn xin xuất gia. Tổ đưa vàng cho, nói:
- Ông hãy đi đi. Sợ đồ chúng biết được lại hại ông, ngày khác nên đổi hình dạng mà đến, ta sẽ thu nhận ông.
Hành Xương tuân lời bỏ trốn trong đêm. Sau xuất gia đầu tăng, thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành. Một hôm nhớ lời Tổ dặn, từ xa đến lễ ra mắt, Tổ nói:
- Ta trông ông lâu rồi, sao ông đến muộn vậy?
Đáp:
- Xưa nhờ ân Hòa thượng tha tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh trọn khó báo đáp thâm ân. May ra chỉ được truyền pháp độ sanh mà thôi!
Đệ tử thường xem kinh Niết bàn chưa hiểu nghĩa thường, vô thường, xin Hòa thượng từ bi tóm lược nói rõ nghĩa cho.
Tổ nói:
- Vô thường tức là Phật tánh; hữu thường tức là tâm phân biệt, tất cả các pháp thiện ác.
Đáp:
- Lời Hòa thượng nói đó rất trái kinh văn.
Tổ nói:
- Ta truyền tâm ấn Phật, sao dám trái với Kinh Phật?
Đáp:
- Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói vô thường. Các pháp thiện ác cho đến tâm bồ đề đều là vô thường, Hòa thượng lại nói là thường. Thế thì trái ngược nhau, khiến học nhân càng sanh thêm nghi hoặc.
Tổ nói:
- Kinh Niết bàn trước đây ta đã nghe ni Vô Tận Tạng đọc tụng một lần rồi vì ni giảng thuyết. Không có một chữ một nghĩa nào chẳng hợp với kinh văn, cho đến nay vì ông trọn không có hai lời.
Đáp:
- Học nhân trình độ trí thức mê mờ nông cạn, mong Hòa thượng uyển chuyển khai thị.
Tổ nói :
- Ông biết chăng? Phật tánh nếu thường thì còn nói gì các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một người nào phát tâm bồ đề. Thế nên ta nói Phật tánh vô thường, chính là Phật thuyết đạo chơn thường vậy.
Lại nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì vật vật đều có tự tánh (ngã) ắt phải chịu đựng sanh tử và tánh chơn thường ắt phải có chỗ chẳng biến khắp. Thế nên ta nói tất cả các pháp là thường, chính là Phật thuyết nghĩa chơn vô thường vậy.
Đức Phật lúc đầu vì phàm phu ngoại đạo chấp với tà thường, những người nhị thừa với thường cho là vô thường cộng thành tám cái điên đảo. Thế nên trong kinh Niết bàn liễu nghĩa, Phật dạy nhằm phá cái thiên kiến của họ mà chỉ rõ cái chơn thường, chơn ngã, chơn tịnh. Ông nay theo lời trái nghĩa, cho vô thường là đoạn diệt và hiểu thường như trơ trơ chết cứng, mà hiểu sai đi vi ngôn tối hậu viên diệu của Phật. Giá có xem kinh đến ngàn lần phỏng có ích lợi gì?
Nhữ tri phủ, Phật tính nhược thường, canh thuyết thập ma thiện ác chư pháp, nãi chí cùng kiếp vô hữu nhất nhân phát bồ đề tâm giả. Cố ngô thuyết vô thường, chính thị Phật thuyết chân thường chi đạo dã, hựu nhất thiết chư pháp nhược vô thường giả, tức vật vật giai hữu tự tính dong thụ sinh tử, nhi chân thường tính hữu bất biến chi xứ. Cố ngô thuyết thường giả, chính thị Phật thuyết chân vô thường nghĩa dã, phật tỉ vi phàm phu ngoại đạo chấp ư tà thường, chư nhị thừa nhân ư thường kế vô thường cộng thành bát đảo cố. Ư Niết bàn liễu nghĩa giáo trung, phá bỉ thiên kiến, nhi hiển thuyết chân thường chân ngã chân tịnh. Nhữ kim y ngôn bội nghĩa, dĩ đoán diệt vô thường cập xác định tử thường, nhi thác giải Phật chi viên diệu tối hậu vi ngôn túng lãm thiên biến hữu hà sở ích.
汝知否, 佛 性若常, 更說什麼善惡諸法, 乃至窮劫 無有一 人發菩提心者. 故吾說無常, 正是佛說真常之 道也. 又一 切諸法若無常者, 即物物皆有自性容受生死, 而真常性有不遍之 處. 故吾說常者, 正是佛說真無常義也. 佛比為凡夫外道執於邪常, 諸二 乘人於常計無常共成八 倒故, 於涅槃了 義教中, 破彼偏 見, 而顯說真常真我真淨. 汝今依言背義, 以 斷滅無常及確定死常, 而錯解佛之 圓妙最後微言. 縱覽千遍有何 所益.
Hành Xương chợt như người tỉnh cơn say, mới nói kệ:
Nhân thủ vô thường tâm,
Phật diễn hữu thường tánh.
Bất tri phương tiện giả,
Do xuân trì chấp lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền.
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
因守無常心
佛演有常性
不知方便 者
猶春池執礫
我今不施功
佛性而見前
非師相授與
我亦無所得
Do vì chúng sanh chấp vô thường,
Phật nói tánh hữu thường.
Người chẳng hiểu phương tiện,
Như ao xuân mò gạch.
Tôi nay chẳng dụng công,
Mà Phật tánh hiện tiền.
Không phải thầy truyền cho,
Tôi cũng không sở đắc.
Tổ nói:
- Ông nay triệt ngộ, nên gọi tên là Chí Triệt.
Sư lễ tạ rồi rút lui.
NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)