Bài 48
3. THIỀN SƯ SÙNG HUỆ 崇慧禪師 Ở NÚI THIÊN TRỤ, THƯ CHÂU.
Người Bành Châu, họ Trần. Đầu niên hiệu Càn Nguyên (758 – Đường Túc Tông), Sư đến lập chùa ở núi Thiên Trụ, Thư Châu. Năm Vĩnh Thái nguyên niên (765 – Đường Đại Tông) sắc ban hiệu chùa là Thiên Trụ.
Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là cảnh Thiên Trụ ?
Sư đáp:
Chủ bạc sơn cao nan kiến nhật
Ngọc kính phong tiền dị hiểu nhân.
主薄山高難見日
玉鏡峯前易曉人。
(Chủ nhạt núi cao khó thấy trời,
Gương báu trên soi dễ biết người).
Hỏi:
- Khi Đạt-ma chưa đến xứ này, ở đây có Phật pháp không?
Sư đáp:
- Khi chưa đến hãy tạm gác qua, việc ngay bây giờ ra sao?
- Con chẳng hội xin Sư chỉ dạy.
Sư nói:
- Không gian muôn thuở, gió trăng nhất thời.
萬 古長空一時風月
(Vạn cỗ trường không, nhất thời phong nguyệt)
Hồi lâu Sư lại hỏi:
- Xà lê hội chăng? Trên phận sự chính mình ra sao? Đạt ma kia đến hay chưa đến có can hệ gì? Nhà kia đến giống hệt gã đi bói toán kiếm ăn, thấy ông chẳng hội mới dùng văn tự cho ông hiểu quẻ. Cát hung vừa sanh, hãy tự xem tất cả ở trên phần của ông.
Tăng hỏi:
- Thế nào là người biết bói?
Sư đáp:
- Lúc ông vừa ra cửa liền chẳng trúng.
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Thiên Trụ?
Sư đáp:
- Thời hữu bạch vân lai bế hộ,
Cánh vô phong nguyệt tứ sơn lưu.
時有白雲來閉戶。
更無 風月四山流
(Có lúc mây trắng giăng màn cửa,
Đâu còn trăng gió cuốn tứ sơn*).
* Tứ sơn : sanh, lão, bệnh, tử.
Hỏi:
- Tăng chết thiên hóa đi về đâu ?
Sư đáp:
Tiềm nhạc phong cao trường tích thúy,
Thư giang minh nguyệt sắc quang huy.
灊嶽峯高長積翠
舒江明月色光暉.
(Núi Tiềm cao ngọn mãi xanh tươi.
Sông Thư trăng sáng sắc quang huy).
Hỏi:
- Thế nào là Phật Đại Thông Trí Thắng?
如 何是大通智勝佛 ?
Như hà thị Đại Thông Trí Thắng Phật
Sư đáp:
- Trống không từ đại kiếp đến nay chưa từng che đậy, chẳng phải Phật Đại Thông Trí Thắng thì là gì ?
曠大劫來未曾擁滯。 不是大通智勝佛是什麼
Khoáng đại kiếp lai vị tằng ủng trệ, bất thị Đại Thông Trí Thắng Phật thị thập ma.
Hỏi:
- Tại sao Phật pháp không hiện tiền?
Vi thập ma Phật pháp bất hiện tiền ?
為什麼佛法不 現前
Sư đáp:
- Chỉ vì ông không hội cho nên không hiện tiền. Nếu ông hội rồi cũng không có Phật đạo nào để thành.
Chỉ vi nhữ bất hội, sở dĩ thành bất hiện tiền, nhữ nhược hội khứ, diệc vô Phật đạo khả thành.
只為汝不會。所以成不現前。汝若 會去。亦無佛道可成.
Hỏi:
- Thế nào là đạo? (như hà thị đạo) 如何是道
Sư đáp:
- Mây trắng che núi xanh,
Ong chim lượn sân hoa.
白雲覆青嶂
蜂鳥步庭華。
(Bạch vân phú thanh chướng,
Phong điểu bộ đình hoa).
Hỏi:
- Chư Thánh từ trước có nói lời nào chăng ?
Tùng thượng chư Thánh hữu hà ngôn thuyết ?
從上諸聖有何言說 ?
Sư hỏi lại:
- Ông nay thấy ta có lời nói nào chăng ?!
Nhữ kim kiến ngô hữu hà ngôn thuyết ?!
汝今見吾有何言說
Hỏi:
- Mời Sư cử xướng trong tông môn.
Sư đáp:
- Thạch ngưu trường hống chơn không ngoại,
Mộc mã tê thời nguyệt ẩn sơn.
石牛長吼真空外,
木馬嘶時月隱山。
(Trâu đá rống to ngoài chân không,
Ngựa gỗ hí vang, trăng khuất núi.)
Hỏi:
- Thế nào là chỗ Hòa thượng làm lợi người?
Sư đáp:
- Một trận mưa nhuần khắp, ngàn núi sắc xinh tươi.
Nhất vũ phổ tư, thiên sơn tú sắc.
一雨普滋千山秀色
Hỏi:
- Thế nào là người ở trong núi Thiên Trụ?
Sư đáp:
- Độc bộ thiên phong đỉnh,
Ưu du cửu khúc tuyền.
獨步千峯頂
優游九曲泉。
(Một mình thả bước qua ngàn đỉnh,
Thong dong chín chỗ suối cong queo).
Hỏi:
- Thế nào là ý Tây lai?
Sư đáp:
- Bạch viên bão tử lai thanh chướng,
Phong điệp hàm hoa lục nhị gian.
白猿 抱子來青嶂
蜂蝶銜華綠蘂間。
(Vượn trắng bồng con nơi hẻm núi,
Ong bướm dập dìu hút mật hoa).
Sư ở núi diễn nói đạo khoảng 22 năm. Năm Đại Lịch thứ 14 (779 – Đường Đại Tông), ngày 22 tháng 7 Sư quy tịch. Tháp xây ở phía bắc chùa, chơn thân hiện còn (thời điểm 1004).