Bài 39.
Hoằng-Nhẫn Đại sư 弘忍大師 (602 - 675 T.L.)
Ngài là vị Tổ thứ 32 và cũng là Tổ thứ 5 của Thiền Tông Trung Hoa.
Một hôm, Tổ Đạo-Tín đi viếng núi Long-Phong gặp một vị sư già trồng tòng, thời nhơn gọi là Tài-Tòng đạo giả.
Vị sư ấy hỏi Tổ rằng: -Đạo Pháp của Như-Lai có thể cho tôi nghe được chăng ?
Tổ đáp: -Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng hóa kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.
Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh-Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi: -Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng ?
Cô đáp: -Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.
Ông bảo: - Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết ?
Cô đáp: -Riêng tôi bằng lòng.
Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch.
Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong, quyết định đuổi cô đi. Cô mang bầu, lại sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.
Đến ngày, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn, nhưng vì sự kỳ thị không chồng mà có con, nên cô đành kết bè đem thả trôi sông, hy vọng sẽ có ai đó đem về nuôi.
Sáng ngày, cô thấy đứa bé vẫn ở chỗ cũ (nước chảy mà bè không trôi), khí sắc vẫn tươi tỉnh lạ thường. Cô lấy làm lạ nên đổi ý bồng về nuôi dưỡng tiếp, mặc cho tiếng đời dị nghị. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo-Tín đối đáp trôi chảy, ý tứ sâu xa, được Tổ xin cho xuất gia, đặt tên là Hoằng-Nhẫn.
Hoằng-Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa Tổ Đạo-Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn truyền pháp. Theo truyện nầy, Tổ Hoằng-Nhẫn là thân sau của Tài-Tòng đạo giả.
Thuở nhỏ, Sư thông minh, xinh đẹp. Có ông thầy xem tướng khen rằng: "Đứa bé nầy có đầy đủ tướng tốt, chỉ thua Phật bảy tướng thôi".
Năm bảy tuổi, Sư gặp Tổ Đạo-Tín độ cho xuất gia. Từ đây về sau, Sư theo hầu Tổ đến khi được truyền tâm ấn. Khi Tổ tịch, Sư kế thừa trụ trì tại núi Phá-Đầu, giáo hóa nơi đây rất thạnh hành. Khi ấy, dân chúng kính mộ tông phong dù ở xa nghìn dặm cũng tìm đến tham học. Tại đạo tràng nầy, tăng chúng thường trực không dưới năm trăm người.
Khoảng niên hiệu Hàm-Hanh (670-674 T.L.) nhà Đường, có người cư sĩ tên Huệ-Năng từ phương Nam đến yết kiến Sư.
Sư hỏi: -Ngươi từ đâu đến ?
Huệ-Năng thưa: -Đệ tử từ Lĩnh-Nam đến.
_ Ngươi đến đây muốn cầu việc gì ?
_ Đệ tử chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu việc gì khác.
_ Người Lĩnh-Nam là kẻ man di làm sao làm Phật được ?
_ Người thì có Nam Bắc, Phật tánh há có Nam Bắc sao ?
Sư biết là bậc lợi căn, giả vờ nạt bảo: -Lại nhà sau đi !
Huệ-Năng đảnh lễ, đi xuống nhà sau lãnh phần đạp chày giã gạo.
Một hôm, Sư dự biết thời kỳ truyền pháp đã đến, liền gọi đồ chúng đến bảo: -Chánh pháp khó hiểu không nên nhớ ghi lời nói suông của ta, giữ làm nhiệm vụ của mình. Các ngươi, tùy ý mỗi người làm một bài kệ, nếu thấy được ta sẽ truyền pháp và y bát cho.
Lúc đó, hội chúng hơn bảy trăm người, ai cũng tôn sùng thượng tọa Thần-Tú, cho rằng chỉ có TT Thần Tú là người có khả năng, nên không trình kệ. Thần Tú cũng không dám trình thẳng mà lén chép kệ lên vách hành lang. Ngủ Tổ thấy kệ còn vướng mắc, nên thầm kêu Thần Tú vào phòng riêng bảo làm lại.
Huệ Năng nghe chúng tụng bài kệ của Thần Tú, bảo rằng "Tôi cũng có kệ, phiền ai đó chép lên dùm". Tổ Hoằng Nhẫn đọc được bài kệ ấy liền lấy dép bôi ngang dọc bài kệ và bảo :
_ Ai làm bài kệ nầy cũng chưa thấy Tánh.
Một hôm Sư làm bộ đi dạo xuống nhà bếp, hỏi tác giả bài kệ :
_ Cầu đạo cực như vậy sao ? Gạo đã trắng chưa ?
_ Dạ, gạo trắng đã lâu, chỉ chưa sàng mà thôi !
Tổ dùng gậy gõ vào 3 cái vào cối giả gạo, rồi chắp tay sau lưng mà quay đi. Huệ-Năng nửa đêm (canh ba) đi ngỏ sau vào thất. Sư lấy y che ánh sáng, rồi giảng kinh Kim-Cang cho Huệ-Năng nghe. Đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" Huệ-Năng bừng ngộ, Sư dạy:
-Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, bởi chúng sanh căn cơ có lớn nhỏ, tùy đó hướng dẫn, mới có nói ra ba thừa, mười địa đốn tiệm, gọi đó là giáo môn. Như-Lai riêng đem chánh pháp nhãn tạng vô thượng chơn thật vi diệu trao cho Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp, lần lượt truyền đến đời thứ 28 là Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. Tổ Đạt-Ma sang Trung-Quốc truyền nối đến đời ta là 5 đời, nay ta đem Phật pháp và y bát đã thọ trao lại cho ngươi. Ngươi phải gắng gìn giữ truyền trao đừng cho bặt dứt, hãy nghe ta nói kệ:
Hữu tình lai hạ chủng,
Nhơn địa quả hoàn sanh,
Vô tình ký vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.(*)
(Gặp Hữu tình thì gieo giống xuống,
Nhơn đất quả liền sanh,
Đối với Vô tình thì không gieo giống,
Bởi không tánh cũng không sanh).
Huệ-Năng thọ pháp và y bát xong, lễ bái thưa: -Pháp đã nghe dạy, còn y bát có nên truyền cho người sau chăng ? Sư bảo:
-Xưa Tổ Đạt-Ma là người nước khác, truyền pháp cho Tổ Huệ-Khả, vẫn ngại người đời không tin sự truyền thừa của thầy trò, nên lấy y bát truyền để làm tín vật. Nay tông môn của ta thiên hạ đều biết rõ, nên y bát không cần thiết phải truyền nữa, song chánh pháp thì nên gắng truyền bá ngày càng rộng. Ngươi nên đi liền, khéo tránh, thời gian sau sẽ ra hoằng hóa.
Huệ-Năng lại hỏi: -Nay con phải đi về đâu ?
Sư bảo: -Đến Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.
Huệ-Năng lãnh dạy, lễ tạ rồi ra đi ngay đêm ấy. Sau khi truyền pháp, liên tiếp ba hôm, Sư không thượng đường thuyết pháp. Toàn chúng đều nghi ngờ, đồng đến thưa thỉnh.
Sư bảo: -Pháp của ta đã đi về phương Nam rồi. Giờ lại nói gì ?
Chúng thưa: -Người nào được ?
Sư bảo: -Năng ấy được đó.
Chúng biết là cư sĩ Huệ-Năng. Họ đồng đuổi theo, song ngoài Huệ Minh ra thì không ai tìm gặp được.
Bốn năm sau, một hôm chợt Sư gọi đại chúng bảo: -Việc ta đã xong, đến lúc nên đi.
Sư vào trong thất ngồi an nhiên thị tịch, nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai (675 T.L.) nhà Đường, thọ 74 tuổi. Chúng xây tháp ở Đông-Sơn huyện Huỳnh-Mai tôn thờ. Vua Đường-Đại-Tông truy phong là Đại-Mãn Thiền Sư, tháp hiệu Pháp-Võ.
Sư có trước tác tập "Tối thượng thừa luận", hiện giờ còn lưu hành.
-----------------
Phụ chú :
(*)
有情來下種
因地果還生
無情既無種
無性亦無生