DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 123
  1. #1
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    86. Củ cải của Saraha





    Tu sĩ Saraha (51) Ấn Độ sống ở thế kỷ thứ III, vừa được tôn thờ như một anh hùng, đồng thời có người cho ông là phù thủy. Saraha là tác giả của một tập các bài ca nổi tiếng, có tên “Các bài ca vương giả của Saraha”, ngày nay còn được truyền tụng. Sau này người ta mới thấy các bài ca này là tác phẩm tuyệt diệu của một tâm hồn đắc đạo.

    Như các tu sĩ Tantra trước và sau mình, Saraha thu nhận một thiếu nữ của giai cấp thấp nhất vào nhà mình, vì ông chẳng quan tâm gì đến các quy định của Ấn Độ thời đó. Ngược lại ông chỉ mong có dịp để phá các định kiến trên dưới, và vì thế nàng thiếu nữ 15 tuổi này không được ông thuê làm nữ tì, mà được ông chỉ dạy cho thực hành phép tu Tantra, trong trường hợp này là phép giao phối, và được ông biến thành vợ.

    Ta có thể tưởng tượng làng xóm, cũng như giai cấp bà-la-môn hồi đó xôn xao thế nào khi ông và nàng vợ trẻ biến mất vào rừng không còn cho ai gặp mặt. Còn nàng thiếu nữ đó cũng say mê ông ngay từ lúc mới gặp, vì nhờ ông mà nàng thoát khỏi giai cấp bần cùng nô lệ. Nàng khuyên chồng cứ thực hành các phép tu thần bí, không cần quan tâm đến sự hiện diện của nàng, và nàng không có gì mong ước khác hơn là được phục vụ một người giác ngộ, và được học hỏi nơi chồng.Cả hai sống viễn ly như thế trong rừng già Ấn Độ, như các vị tu sĩ Tantra khác, với người phối ngẫu của họ. Họ thiền quán, thực hành phép yoga của sự giao phối xuất thần, và đối xử với nhau bằng lòng kính trọng cao cả. Saraha cũng chịu khó làm các công việc mà vợ mình không làm được, nhưng nói chung nàng phục vụ chồng như một học trò phục vụ vị đạo sư.

    Ngày nọ, người thiếu phụ mang cho chồng một món ăn và câu chuyện sau đây xảy ra, đi vào lịch sử của Saraha. Thường thì ông hay ăn tất cả những gì dọn lên, không quan tâm đến món ăn. Nhưng lần đó ông kêu lên “Dọn cho ta món cà-ri củ cải.” Người vợ phải đi mua củ cải về nấu cà-ri, thêm sữa chua và dọn lên trong lá chuối. Sau đó nàng dâng lên nhưng Saraha ngồi yên, tréo hai chân lại, không phản ứng gì cả. Thì ra ông chồng đã nhập định rất sâu và không nghe thấy gì nữa từ thế giới bên ngoài. Nàng để chồng yên và lo việc khác.

    Thế mà 12 năm trôi qua, Saraha không hề nhúc nhích khỏi chỗ ngồi. Có lẽ ông xuất thần đi đâu rất xa, tuy thế vẫn không hoàn toàn rời thân. Sau 12 năm và ba tháng, Saraha mở bừng mắt ra và kêu “Cà-ri củ cải đâu rồi?”

    Người vợ không biết nên cười hay khóc, và nói “Ông thật điên! Ông là một đạo sư kỳ dị. Cà-ri đã theo số phận của thế gian từ những năm trước, còn ông thì ngồi đây như một củ cải cắm xuống đất. Mười hai năm trôi qua rồi mà ông vẫn còn bám vào tư tưởng cũ rích sao?”

    Saraha không trả lời. Ông còn phải định thần lại. Nhưng người vợ, đã trở thành một nữ tu đầy tiến bộ trong thời gian qua, nàng nói tiếp, hai tay chống nạnh: “Mười hai năm qua, ông làm gì thế, có lẽ không phải là một phép thiền quán đích thực đâu. Kẻ du hành tư tưởng như ông, chưa chắc là đã thiền định đúng cách. Kẻ rút về sống độc cư, chưa chắc ở một mình. Độc cư đích thực chính là rủ bỏ mọi suy luận giải thích, từ bỏ mọi cân nhắc nhị nguyên, và nếu chúng có dấy lên thì đừng có bám víu chúng. Còn ông, mười hai năm ông cứ chờ vài củ cải trong ảo tưởng. Thế mà ông gọi mình là đại toàn năng (52) sao?”

    Lời nói của vị thần phẫn nộ mang dạng người đó đánh trúng Saraha tận xương tủy. Cũng đúng lúc đó, ông thấy mình tỉnh giác hơn, hơn hẳn trước kia. Trong những năm sau, cả hai đạt một cấp mới về giác ngộ, không còn rơi trở lại trạng thái tầm thường của con người, và nhận ra mình chính là ánh sáng phát chiếu từ tự tính bất diệt.

    Đến lúc phải rời cõi thế, cặp vợ chồng này biến mình thành ánh sáng thanh tịnh và thể nhập vào tự tính, không để lại dấu vết nào của thân.




    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  2. #2
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    87. Tu sĩ biết bay






    Một ngày đẹp trời trong vắt nọ tại Tây Tạng vào thế kỷ trước, tu sĩ Schabkar Rinpoche cùng với hai học trò đi du hành. Ba người dẫn theo một con ngựa chở các thứ họ cần. Họ dắt con người đi từ đỉnh núi này qua đỉnh núi khác, thưởng thức cảnh đẹp địa phương và tìm nguồn cảm hứng cho các bài ca. Cả ba vừa đi vừa ca, vừa qua một đường đèo cheo leo thì thấy một người đàn bà nằm trên đường, mặt úp xuống đất. Schabkar vội nhảy tới, kéo bà dậy, nhưng hầu như bà không nhúc nhích nổi. Bà run run xin chút thức ăn và nước uống.

    Schabkar mở túi, nấu chút trà và đổ vào miệng bà. Sau đó ông lấy bột mì, trà và bơ để vào một cái túi, đưa cho bà thấy, để bà già tin những tuần tới đây sẽ không bị đói. Bà già đã không một lời cảm ơn, mà còn cất giọng đã hồi sức, đòi hỏi thêm áo quần. Schabkar vui lòng mở bọc lấy thêm áo quần cho bà và để bên cạnh. Bà già trông thật xấu xí, cả ba chưa bao giờ thấy người nào xấu như vậy. Nhưng Schabkar Rinpoche không hề quan tâm đến điều đó và nhìn bà với lòng cảm mến như ông đã từng đối với mọi người khác.Bà già nhìn con ngựa rồi nói: “Khốn khổ cho ta không đi được nữa, còn các ngươi trai tráng… nếu các ngươi cho ta con ngựa thì hay biết mấy!”

    Các học trò của Schabkar đã hết kiên nhẫn. Nhưng vị tu sĩ biết hát nọ đã sẵn sàng cất túi treo trên ngựa. “Nào mời bà,” ông nói và đỡ bà đứng dậy. “Bà đừng lo gì cho tương lai. Chúng tôi sẽ giúp bà đầy đủ.”

    Ông cẩn thận đỡ bà già lên ngựa trong lúc hai đệ tử nhìn nhau không hiểu. Lên lưng ngựa xong, bà nhìn họ một cách khinh mạn, nở nụ cười chê trách khi thấy vẻ mặt của hai người học trò. Trong phút đó bà già biến thành một người hoàn toàn khác. Một hơi ấm đầy sức sống toát ra từ gương mặt bà và cái lưng còng đã biến thành thẳng. “Schabkar,” bà lão gọi với giọng tươi vui, “ta nghe người là kẻ có trí. Nhưng ta muốn tự mình xem ngươi có lòng từ bi và óc hóm hỉnh đên đâu. Ta chẳng cần ngựa lẫn tất cả các thứ của ngươi, ta không thiếu gì cả, từ vô thủy tất cả đều ở trong ta, ta chứa cả thế giới. Nào, hãy nói đi, hỡi vị hộ pháp, ngươi vẫn chưa biết ta là ai chăng?”

    Schabkar đứng như trời trồng, nhìn sững dạng hình không nói nên lời. “Nếu ngươi không biết thì nghe đây” nói xong bà lão biến thành dạng ánh sáng của nữ thần Vajra Varahi. Trên ngựa là một khối ánh sáng đỏ rực, phát lửa khắp mọi hướng và biến thành một vị phẫn nộ hai đầu. Đó là một vị thần có cái đầu khổng lồ, nhe răng dữ tợn, phía trên có cái đầu heo, đen như mực, gầm gừ. Như người khác hẳn sẽ bỏ chạy ngay, nhưng Schabkar Rinpoche đứng yên và lắng nghe những lời bà lão. “Hãy nhìn và nhận ra ta. Đây là hình dạng của Vajra Varahi, nữ thần vô úy. Ta sẽ đưa ngươi về thiên giới và sẽ lo lắng cho ngươi. Đừng ngoảnh mặt.”

    Khối lửa bỗng lớn như một ngọn núi. Nữ thần trần truồng, cổ mang một chuỗi đầu lâu nhỏ máu, bắt đầu múa với nhiều biểu tượng sâu kín. Một tay cầm kiếm bén, tay kia cầm đầu lâu. Vajra Varahi kẹp một chĩa ba, trên có đầu lâu. Học trò Schabkar quay mặt không dám nhìn.Bỗng nhiên nữ thần biến thành một đám mây ngũ sắc, cười và ném cho Schabkar một bọc. Schabkar vừa chụp lấy thì nữ thần đã thăng thiên, nhìn người tu sĩ như mời gọi, trong khi ông còn đứng yên tại chỗ. Học trò Schabkar chỉ kịp thấy ông nhét bọc đó vào áo, hai tay vươn lên cao như muốn bay theo. Sau đó họ la lên khi thấy ông bay theo thiệt.





    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  3. #3
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    88. Rầu rĩ cũng phải cười




    Geshe Langri Thangpa sống cách đây khoảng tám trăm năm tại Tây Tạng và là một Lạt-ma thông thái của trường phái Kadampa (53), đây là trường phái được đạo sư Ấn Độ A-đề-sa thành lập trước đó không lâu. Nguyên tắc của trường phái này là hết lòng phục vụ mọi người với lòng từ bi vô hạn, nhờ đó mà sự phân biệt giả tạo giữa "ta" và "người" một ngày nào đó sẽ tự biến mất.Langri Thangpa cảm thấy trường phái này phù hợp với mình vì ông rất nhạy cảm và dễ dàng đặt mình vào tâm trạng của người khác, hầu như chính mình đang trong hoàn cảnh của người. Tuy nhiên cứ đặt mình vào cảnh khổ của người, ông càng buồn rầu theo. Lòng từ bi của ông lên cao đến nỗi ông rút vào núi để cầu nguyện, nhịn ăn và cảm nhận những gì chúng sinh đang đau khổ.Bạn đồng tu khuyên ông: "Tất cả chỉ là một giấc mơ, giấc mơ này xuất hiện vì con người tự đồng hóa với một cái thân có sống, có chết, tại sao bạn lại quan tâm quá sức như thế?"

    "Không đáng buồn sao khi tất cả các loài hữu tình hàng ngày phải chịu cơn ác mộng đó", vị Lạt-ma Langri Thangpa tự nói. "Đời sống trong vòng sinh tử này khi lên khi xuống, giữa cái hy vọng được thỏa nguyện và cái thất vọng cay đắng. Và tất cả nỗi khổ của cõi Ta-bà này là nỗi khổ của chính ta".

    Ông được mệnh danh là "Người rầu rĩ thánh thiện". Ngày đó, ông trùm khăn trên đầu, như có tang và đi trong hành lang tu viện.Nhiều tăng sĩ hỏi "Có ai chết chăng?" Ông lầu bầu trả lời "Nếu hỏi, có ai không chết chăng, xem ra thông minh hơn". Sau đó ông bỏ đi để tiếp tục thiền quán về cái khổ.

    Lần khác, Langri Thangpa ngồi trước một cái bàn gỗ thấp, trên bàn đang có nhiều cơm. Ngửi có mùi thức ăn, một con chuột bò ra. Vị Lạt-ma đang trộn cơm với đá quí để làm Man-đa-la, đó là các đồ hình với ý nghĩa sâu kín mà ông thường dùng để thiền định.Vị Lạt-ma ngồi yên lặng nên con chuột yên trí bò lên bàn. Con chuột ngửi nhằm một viên đá turquoise và tìm cách kéo viên đá đi. Nhưng con chuột quá nhỏ mà viên đá khá lớn, lại dính chắc vào cơm nên không sao kéo ra nổi.

    "Bạn thân mến", ông nói, "Cái viên xanh xanh đó không phải là pho mát đâu, nó là một viên đá không ăn được, bỏ nó đi". Thế nhưng con chuột đã kéo viên đá ra được một nửa, nhưng không mang theo được. Langri Thangpa nhìn con chuột với cách nhìn của hiền nhân từng trải: “Sự cố gắng vô vọng này làm ta nhớ đến cuộc tranh đấu của người đời với vật chất. Làm được gì đâu khi chuyển vật chất từ nơi này qua nơi khác. Tưởng rằng làm xong việc, nhưng cuối cùng lại đổ nát, hoàn toàn vô ích".

    Vị Lạt-ma nghĩ đến đó thì con chuột biến mất và không thấy ra nữa. Ông đang tiếp tục hoàn thành Man-đà-la thì bỗng nhiên con chuột lại xuất hiện, lần này có thêm một con nữa. Hai con xúm nhau kéo viên đá ra khỏi đống cơm, một con kéo, một con đẩy, và cuối cùng chúng biến mất với chiến lợi phẩm.

    Langri Thangpa cười to tiếng, từ nhiều năm nay ông mới cười. Tiếng cười của ông bất ngờ và đầy nhân hậu, mặt ông sáng lên như mặt trời vừa mọc.Ông thốt lên thành tiếng: "Mong sao chúng sinh trong vũ trụ muốn gì được nấy."






    SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH

    HẾT


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  4. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    chimvacgoidan (08-24-2017)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •