DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 12/13 ĐầuĐầu ... 210111213 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 111 tới 120 của 123
  1. #111
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts






    Ngày hôm sau bà mẹ gọi con từ trong hang động: “Aphu, Aphu tới đây mà xem”. Kangyur vào động và thấy một vị tu sĩ cao lớn mặc áo trắng đứng bên cạnh người mẹ. Vị tu sĩ mang một cuốn sách nhỏ xíu, kết trên một bên tóc, trong khi phần tóc kia để sổ trên vai.

    “Xin chào ngài”, Kangyur cúi đầu sát đất. “Xin cho biết ngài là ai, hỡi vị tu sĩ?”

    “Ta là đệ tử của Yeshe Tsogyal, được gọi là So Yeshe Wang-schuk”, người đó trả lời.

    “Thế ngài từ đâu đến?”, Kangyur Rinpoche hỏi.

    “Từ cõi Tịnh độ !”, người đó đưa tay chỉ triền núi tuyết phủ trước cửa động. “Trong kiếp vừa qua, ta có ba con trai, một con gái. Đứa con đầu đang phụng sự loài người tại Đông Tây Tạng, đứa út đang ở với đạo sư tại đất Phật. Đứa con trai giữa đang ở với ta và đứa con gái bị tái sinh vào cõi tối tăm”.

    “Tại sao ngài lại đến đây?”, Kangyur Rinpoche hỏi.

    “Ta là hộ pháp của mười bảy giáo pháp thất truyền của Maha Ati. Ta đã đọc bài kệ này trực tiếp từLiên Hoa Sinh và nữ đệ tử của ngài là Yeshe Tsogyal và đang tìm một ngưòi xứng đáng để truyền các giáo pháp bí mật này”.

    Kangyur Rinpoche nằm dài ba lần trên mặt đất và tha thiết xin được học mười ba giáo pháp đó. Sau đó So Yeshe Wang-schuk đứng dậy và đọc mười bẩy câu kệ, trong lúc đó Kangyur Rinpoche và bà mẹ sắp từ trần lắng nghe từng chữ. Sau khi đọc xong, So Yeshe Wang-schuk lại chỉ ngọn núi và nói: “Bí lục này của ta nằm tại đó. Bây giờ nó là của ngươi, Kangyur Rinpoche”. Nói xong, vị tu sĩ biến mất. Kangyur liền lên đướng tiến về hướng núi đó và trèo lên đỉnh. Sau một lúc tìm kiếm, ông thấy một hang núi mà ngày xưa có vẻ đã có người ở. Trên một loại giấy làm bằng bột gạo, Wang-schuk viết lại mười bẩy câu kệ thất truyền của phép Maha Ati, và bí lục đó ông đã cùng Yeshe Tsogyal cất giấu từ hàng trăm năm trước, chỉ dành cho người thích hợp.

    Kangyur Rinpoche ở với mẹ cho tới ngày bà từ giã cõi trần này, cõi đã chứng kiến nhiều lần giã từ. Thể nhập vào cõi Phật A-di-đà, bà ngồi trong động và chết với nụ cười trên môi. Câu chuyện còn thêm một đoạn nữa: Vừa rồi đây đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche (49) cũng vừa mới chết, ông là một trong những đạo sư vĩ đại nhất Tây Tạng. Lúc sinh tiền, có lần nghe một thứ giọng không lời, giọng đó đọc cho ông nghe mười bẩy câu kệ của Maha Ati. Khi ông hỏi, phải cảm tạ ai về những báu vật này thì giọng đó đáp: “Kangyur Rinpoche đã truyền cho ngươi, lựa ngươi là truyền nhân mới của dòng tu cổ xưa này”.

    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  2. #112
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts



    80. Yeshe Tsogyal mua người bạn đời


    Yeshe Tsogyal là một nữ đệ tử nổi danh của đại sư Liên Hoa Sinh và về sau trở thành truyền nhân trực tiếp của ngài. Trong lúc Liên Hoa Sinh ngồi yên trong một động đá ở Tây Tạng thì Yeshe Tsogyal lúc đó khoảng ba mươi tuổi đi hành hương ở Nepal, thăm viếng các thánh địa, kể cả đến Bonadath tại Talkessel của Katmandu.

    Nàng cúng dường một ít bột vàng nơi ngưỡng cửa đền và xin đại sư của mình hướng dẫn. “Khổ của chúng sinh trên thế gian thật vô cùng. Làm sao con đủ trí lực để giải thoát cho họ khỏi vô minh? Con làm sao để thực sự hữu dụng?” Nàng cầu xin cho đến lúc mái điện bằng vàng sáng rực lên và chói như mặt trời trước mắt nàng. Trong ánh sáng rực rỡ đó Liên Hoa Sinh hiện ra và nói: “Con gái thân mến, hôm nay con hãy ra chợ và mua một gã nô lệ, gã này là bạn đời của con, được định từ trước. Khi ấy con sẽ đạt tới tâm thức xuất thần và trí lực con sẽ phát triển gấp bội. Sau đấy hãy cùng ngưòi đó về Tây Tạng lại ngay. Sau đó ta sẽ hướng dẫn cho hai con vào các phép tu Mật tông bí ẩn nhất”.

    Yeshe Tsogyal vào thành và đi xem các hàng quán, luôn luôn lắng nghe tiếng nói của trực giác, vì trực giác chính là vị đạo sư thầm kín bên trong. Nàng nhìn mặt hàng trăm người và đi từ đầu chợ đến cuối chợ, lúc tới cổng phía Nam thì một người thanh niên gợi chuyện với nàng. Chàng thanh niên này chỉ quấn ngang người một tấm vải. Trên ngực của chàng có một nốt ruồi đỏ. Yeshe Tsogyal thấy mặt và tay của chàng có nhiều dấu hiệu bí ẩn. Chàng hỏi người phụ nữ Tây Tạng: “Nàng từ đâu đến? Tôi tên là Arya Salee. Lúc tôi còn nhỏ, người ta bắt tôi từ Ấn Độ qua Nepal và sống bảy năm nay như nô lệ của một thương gia giàu có.”

    Yeshe Tsogyal vui mừng, nói nhỏ: “Ôi đúng là người mà ta cần tìm rồi. Hãy đưa ta đến chủ ngươi ta sẽ mua lại ngươi, để ta đưa ngươi đến nơi chốn đích thực của ngươi”.Trong phút chốc Yeshe Tsogyal giải thích cho chàng thanh niên nghe để chàng tin và hiểu nàng. Thật ra cũng chỉ cần ít lời thôi, dù khó tin cũng phải nói rằng, hai người này chỉ nhìn nhau đã yêu nhau một cách sâu kín và trong sạch nhất.Cả hai liền đến nhà của vị thương gia nọ và Arya Salee phải tạm thời giã từ người bạn. Còn Yeshe Tsogyal ngồi trước cửa và bắt đầu đọc lời cầu nguyện và ca những bài ca chứng đạo.Không bao lâu sau, chủ nhà thân hành ra đến cửa và hỏi mục đích của người phụ nữ Tây Tạng lạ lùng này. Nàng thẳng thắn trả lời, nàng được Liên Hoa Sinh cử đến đây để mua gã nô lệ đó và đưa đi xa.Vị thương gia giật mình: “Tên nô lệ đó đã chiếm cảm tình của ta, ta coi nó như con ruột. Ngoài ra hồi xưa ta đã trả giá đắt để mua nó. Không, không thể được”.



    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  3. #113
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts



    Yeshe Tsogyal giơ hai tay lên trời và bắt đầu ca bài ca về giải phóng con người khỏi sự trói buộc và sự giải thoát cuối cùng. Vị thương gia thở dài và suy nghĩ cặn kẽ. Không, ông không thể xua đuổi người đàn bà mới nhìn như một kẻ ăn xin nhưng thật sự là một người tâm linh rất sâu kín này. Vì xung quanh nhiều người tụ lại để nghe giọng hát tuyệt vời của nàng, ông mời Yeshe Tsogyal vào nhà nói chuyện.Trong nhà, vợ của thương gia cũng tham gia câu chuyện. Sau khi nghe nàng kể mọi chuyện, bà nói: “Ta cảm phục lòng can đảm và niềm tin của ngươi. Nàng đi từ rất xa đến đây và xem ra là một người đặc biệt già dặn và nhân hậu. Hãy đưa cho chúng ta năm trăm đồng tiền vàng và đó là số tiền ngày xưa ta đã trả cho tên này. Mặc dù ngày nay nó đã khác hẳn và giá trị cao hơn nhiều, nhưng nó là của ngươi, nhân danh Liên Hoa Sinh. Nhưng xin hỏi ngươi muốn gì với nó? Ngươi muốn cưới nó hay để nó làm kẻ hầu cận cho ngươi?”

    “Tôi sẽ giải phóng chàng”, Yeshe Tsogyal nói. “Và vì tôi đã cúng dường hết vàng bạc, tôi xin tạm đi để kiếm tiền chuộc chàng”.Không biết phải làm thế nào, Yeshe Tsogyal cứ theo những dấu hiệu dẫn nàng kiếm được số vàng này. Tại một góc phố nàng nghe tiếng than khóc. Tới nghe chuyện thì nàng biết thêm một thương gia bán thực phẩm nọ vừa mất đứa con trai trong một trận đấu kiếm tại biên giới Nepal. Xác đứa con trai vừa được đưa về nhà và tang quyến đang chờ một vị Tăng tới cầu siêu.Yeshe Tsogyal cám ơn thầy đang hướng dẫn mình và nhờ chỉ đường đến nhà thương gia đó. Vừa thấy cha mẹ người chết đang gục đầu đau khổ, nàng cất tiếng ca một bài ca về lòng từ bi. Nàng hát về sự sống vươn lên từ cái chết, hát về mong ước được giải phóng Arya Salee và các chúng sinh khác. Tiếng hát của nàng đầy khí lực và chất thiện mỹ làm cha mẹ người chết quì xuống bên nàng khi nàng chấm dứt tiếng hát.

    “Nàng là một nữ tu sĩ hát hay”, họ vừa tuyệt vọng, vừa hy vọng. “Nàng đầy uy lực, chúng ta chỉ biết thế nhưng không thể đo lường. Nếu nàng đến đây để cứu sống con ta, ta sẽ cho nàng đủ tiền để cứu cả con vua Nepal. Nhưng ta không biết, phép lạ có xảy ra với người bé mọn như chúng ta được hưởng hay không?” Yeshe Tsogyal cúi đầu ba lần trước cha mẹ người chết và gật đầu. Tự đáy lòng nàng cảm tạ Liên Hoa Sinh và bắt đầu hát:

    “Cúi lạy đấng đã sinh trong hoa sen, Liên Hoa Sinh,

    Hiện thân của tự tính bất diệt.

    Tự tính của tất cả mọi sự.

    Là Phật tính vĩnh viễn thanh tịnh, bất sinh bất diệt.

    Đó là gốc sinh ra mọi hiện tượng.

    Giữ cái bất ly của tính Không và Năng lực,

    Thì hành động thiện ác,

    Chỉ sinh ra nghiệp lực không tránh khỏi.

    Nhưng ta là một đạo sư đã xa rời tính nhị nguyên.

    Nên cái chết hay sống không hề gây ngăn ngại.

    Năng lực này là của ta, năng lực hàn gắn mọi đổ vỡ:

    Hãy tuôn trào phép mầu nhiệm”.

    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  4. #114
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts





    Yeshe Tsogyal đưa tay trỏ rờ trái tim và cúi đầu nhả một giọt nước miếng vào miệng người chết. Nàng thì thầm một câu thần chú bên tai và hai tay vuốt lên vết thương trên ngực. Bỗng nhiên vết thương khép kín, mắt người chết mở to. Chàng thanh niên ngồi dậy và cười ngạc nhiên.Cả tang quyến vội đến cảm tạ Yeshe Tsogyal nhưng nàng từ chối:“Đừng cám ơn tôi, hãy cảm tạ năng lực, năng lực đã hàn gắn lại những gì chúng ta muốn hủy hoại. Hãy cảm tạ chư Phật và Liên Hoa Sinh đã truyền cho năng lực đó”.

    Vị thương gia bán thực phẩm lòng tràn hạnh phúc, trao cho Yeshe Tsogyal môt túi vàng và nữ tu sĩ cảm ơn nhận lãnh. Một đám đông người đi theo khi nàng đi mua lại Arya Salee. Nàng trả cho thương nhân nọ đến một ngàn đồng tiền vàng để mua người nô lệ, mà giờ đây đã trở thành người bạn đường của nàng.Cả hai lên đường đi bộ về Tây Tạng để được Liên Hoa Sinh trực tiếp dạy cho phép Mật tông. Trong một hang núi cao gần chỗ tuyết đóng quanh năm, cặp nam nữ này sống và thực hành phép tu Yoga xuất thần và phép thiền quán trong giao phối để đạt được giác ngộ viên mãn.

    Cuối cùng Yeshe Tsogyal sống đến 106 tuổi. Là truyền nhân của Liên Hoa Sinh, bà đã đưa vô số đệ tử đến giải thoát hoàn toàn. Theo lệnh của Liên Hoa Sinh, bà cất giấu nhiều bí lục trong nhiều hang động tại miền núi Tây Tạng và nhờ vậy mà giữ được các kinh sách này cho đời sau. Các bí lục này lần lượt được các đệ tử tái sinh của Liên Hoa Sinh khám phá trong các thế kỷ sau.

    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  5. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    Thanh Trúc (08-16-2017)

  6. #115
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    81. Hạt cải cho Phật




    Năm trăm năm trước công nguyên, Phật Cồ-đàm vị đạo sư thế gian của lịch sử đã sống trên trái đất này và du hành liên tục không biết mệt mỏi từ nơi này qua nơi khác, để rao giảng Chánh Pháp. Một lần nọ có một bà mẹ đến tìm gặp Ngài tại một ngôi đền, khóc lóc thảm thiết. Bà mang đứa con đã chết trên tay và khóc lóc làm cho mọi người động lòng thương xót; ai cũng biết mất con là nỗi đau lớn nhất trên đời. Bà mẹ van xin: “Hãy để tôi gặp Phật Cồ-đàm”, vừa nói vừa gần như ngất lịm vì đau đớn. “Hãy cho tôi gặp Ngài, Ngài sẽ có một phép lạ. Ai cũng nói Ngài có thể cứu con tôi. Hãy để tôi tới Ngài”.

    Phật Cồ-đàm cho bà vào gặp ngay. Với ánh mắt Phật, Ngài nhìn thi hài tí hon của đứa trẻ rồi nhìn khuôn mặt bà mẹ. Hơi ấm khó tả tỏa ra từ hào quang của Ngài bao trùm căn phòng, Ngài để cho người mẹ tuyệt vọng lấy lại được bình tĩnh, để cho bà sắp xếp được tư tưởng đang rối loạn. Bà đưa cho Phật xem thi hài đứa con rồi gọi: “Con của con đã chết. Con làm sao bây giờ ?. Bạch thế tôn, Ngài hãy giúp con. Hãy cứu nó sống dậy! Ngài là chúa tể của sự sống chết. Hãy cứu chúng con, nó là niềm vui của gia đình. Từ nhiều năm nay, chúng con không mong gì hơn là được đứa con. Bây giờ nó chết vì một thứ bệnh hiểm nghèo. Hãy mang ánh sáng lại trong mắt của nó. Hãy công bằng. Đứa con nhỏ tuổi này chết đi quá sớm".

    Bà van cầu đức Thế Tôn và Phật cứ để như thế cho đến lúc bà im lặng. Cuối cùng Ngài nói: "Hãy nghe ta, hỡi người đàn bà tốt dạ và trung thành, bà hãy đi từ nhà này qua nhà khác trong đô thị này và hãy xin một hạt cải của một nhà chưa có ai chết. Hãy mang hạt cải đó về đây và để xem ta có thể làm được gì không".

    Người đàn bà nghe xong mừng rỡ. Bà quì dưới chân Phật, cảm tạ bằng cách rờ chân của Ngài. Phật truyền năng lượng an lạc lên người bà, với phước lành đó, bà ôm đứa con ra đi. Bà đi suốt ngày trong thành phố, từ nhà này qua nhà khác, và xin hạt cải của tất cả gia đình mà trong đó chưa có người thân nào chết cả. Đi tới đâu, bà cũng kể chuyện thương tâm của mình, kể hoài, nhưng bà không tìm ra một gia đình nào mà chưa từng đối diện với cái chết. Không mệt mỏi, bà vẫn tiếp tục tìm kiếm, chỉ với hi vọng, xin được một vài hạt cải đem về cho Phật, để Ngài cứu sống con mình. Cuối ngày, bà vẫn không tìm ra được hạt nào cả, vì thực tế cái chết đến với tất cả mọi người. Nhiều người xót thương, đề nghị cho bà vài hạt cải, nhưng giấu chuyện trong nhà có người chết. Nhưng người đàn bà nọ không đồng ý, bà không thể lừa dối Phật. Bà chỉ cần tìm ra một gia đình mà trong đó chưa có ai chết cả. Mặt trời đã lặn. Trong ánh sáng cuối ngày, bà đứng đó với thi hài đứa con trên tay, và nghĩ về những câu chuyện hôm nay bà đã được nghe. Bà không có một hạt cải nào cả và bỗng nhận ra rằng, không ai thoát được cái khổ này cả, cái khổ mà trước đó bà nghĩ rằng chỉ mình phải chịu.

    "Ta không phải là một ngoại lệ, con ta cũng không phải là người duy nhất phải chết", lần đầu tiên bà nghĩ thế. "Cái gì có sinh, ắt cái đó có diệt. Đó là điều không thể thay đổi, vì thế ta phải kiếm cái không bao giờ sinh và cũng không bao giờ diệt, phải tìm chân lý trường cửu mà các bậc hiền nhân và đức Phật đang giảng thuyết. Ngài đã đưa ta vào đúng đường". Bà cảm tạ, cúi mình về hướng Phật.

    Đêm dần buông khi bà về lại nơi đức Phật, thi hài đứa con vẫn ở trong tay. Bà mẹ trẻ đó không tìm ra được một hạt cải nào, nhưng được một tri kiến mà bà mang trong lòng như một ngọn lửa bập bùng. Càng tới gần Phật, bà càng cúi đầu, sau đó bà để đứa con dưới chân Ngài và nói: "Bạch Thế tôn từ bi, con đã hiểu những gì Ngài muốn nói. Cái vô thường thì phải chết, không thể tránh khỏi. Nhờ Ngài, con đã thấy một chút của chân như, cái chân như đó không chết, trong con và trong mọi thứ. Cái chân như đó cũng chính là cái mà đứa con của con đã thấy, ít nhất là trong một chốc ngắn ngủi, trước khi nó tìm kiếm một đời sống khác. Và cái chân như đó, con đã thấy ngay lúc con còn sống. Ánh sáng của tự tính thường hằng là cái duy nhất vĩnh cửu. Và từ nay về sau, con xin dựa vào nó thôi".

    Đức Phật mỉm cười và gật đầu đồng ý, khi người mẹ xin Ngài tiếp dẫn cho thần thức đứa con được sinh vào cõi Phật, trong đó thức người chết được lưu trú trong một giai đoạn, không bị thời gian và không gian lung lạc, tâm của đứa trẻ được đưa về cõi của tự tính, từ đó mà mọi hiện tượng phát sinh".


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  7. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    Tuấn Kiệt (08-18-2017)

  8. #116
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    82. Tu sĩ và người tuyết




    Tương truyền rằng có một loại người tuyết (yeti) ở vùng Hy-mã-lạp sơn. Đến năm 1958, tại Nepal vẫn còn một đạo luật bảo vệ người tuyết, xem như bảo vệ thiên nhiên. Dưới chân đỉnh Everest, tại tu viện Tangboschee Bazaar, người ta còn trưng bày một bộ xương người tuyết. Ngoài ra còn có nhiều hình ảnh về dấu chân trong tuyết của một loại người cao lớn, thân đầy lông, trốn mình trong các núi tuyết. Gần đây, nhà leo núi người Đức nổi tiếng Reinhold Messner cho hay trong chuyến đi vượt Everest đã chứng kiến hiện tượng yeti.Người ta cũng từng thấy loại dã nhân giống người này ở các vùng hoang dã tại Canada hay vùng đầm lầy Everglades ở Mỹ, thậm chí chụp được hình hay quay phim. Nhiều người tranh cãi cho rằng hình ảnh đó chỉ là giả mạo, thế nhưng từ hàng trăm năm nay, các bộ lạc da đỏ Canada gọi yeti của họ là “sasquatsch” và tại vùng Everglades, tên hắn là “big foot”.



    Ngày xưa có hai vị tu sĩ Tây Tạng đi về miền Nam. Họ đi tìm một vùng đất hứa tên là Pema Ko, vùng này nghe nói nằm trong rừng rậm và chỉ chứa những con người có một trái tim thanh tịnh. Giữa biên giới Tây Tạng và Assam, thì cả hai tới một ngưỡng cửa vô hình, chỉ có vị tu sĩ già mới bước qua được ngưỡng cửa này, ông là người đã chín muồi qua bao năm tháng tu học, và được vào thánh địa Pema Ko.Tu sĩ còn lại vừa mừng cho bạn mình, cũng vừa buồn cho mình, phải tiếp tục cô đơn trên đường mà không còn ai để chia sẻ ước mơ và suy nghĩ thầm kín. Sau đó ông đến một vùng rừng núi với một vẻ đẹp hoàn toàn hoang dã. Vừa đến, bỗng một cơn phong thấp hoành hành, ông đau đớn, hầu như không nhúc nhích được. May thay vài con dê núi gần đó bỗng nhiên theo ông như thú vật trong nhà và thế là ông có sữa dê để uống.Người tu sĩ kiếm được một chỗ giữa các cành cây và sống độc cư với vài con dê núi. Xung quanh không hề có bóng người, nhưng thỉnh thoảng ông thấy có một bóng người khổng lồ đầy lông lá, mỗi ngày ra khỏi rừng, đi từng bước nặng nề xuống sông uống nước.

    Cứ thế nhiều tuần trôi qua, tất cả đều chìm trong sự an tĩnh của rừng núi. Ngày nọ người tu sĩ chợt nhớ đã vài ngày người khổng lồ đó không ra sông uống nước. Mặc dù trong lòng có chút lo ngại, ông vẫn nghĩ hãy tìm người đó xem sao, coi họ có cần mình giúp gì không.Ông có cảm giác mình bớt bệnh và đi lại được trong rừng già. Vừa đi một đoạn, ông khám phá ra một cái lều xiêu vẹo, chắc của một vị sống độc cư nào đó từ nhiều năm trước. Ông cẩn thận đến lều và thấy hai ống chân đầy lông thò ra. Vị tu sĩ giật mình sợ hãi, vì đó rõ ràng là một “migou” (người Tây Tạng gọi người tuyết yeti như thế) hai mắt nhắm nghiền, miệng mở lòi hai răng cửa dài. Migou rõ rệt đang lên cơn sốt, thở nặng nề, không ngồi dậy nổi khi có người lạ người lạ đi vào.Người tu sĩ cẩn thận đi vào và nhận ra gót chân của người khổng lồ này đang sưng lên, đầy mủ. Một cái gai thò ra khỏi vết thương, đủ dài để một người có thể rút ra, nhưng liệu có ai đủ can đảm để làm chuyện đó không. Người tu sĩ ngẩm nghĩ “Tên migou này có thể nhỏm dậy bất cứ lúc nào và đập ta chết ngay, nhưng không thể để cho hắn nằm hoài như thế mà không giúp nó.”

    Trong lúc người tu sĩ cẩn thận kéo gai ra thì yeti nằm dài yên lặng như một con bệnh ngoan ngoãn, xem ra hắn biết có một người đang săn sóc mình. Người tu sĩ xé áo và lau khô vết thương, sau đó dùng nước miếng của chính mình rửa sạch vết thương, băng lại bằng chính áo của mình. Ông đi rón rén ra khỏi lều, xuống sông múc nước đem lên cho migou. Vài ngày sau, ông thấy hắn bắt đầu đi cà nhắc xuống sông và từ từ biến mất vào rừng. Sau một thời gian thì tình trạng người tuyết tốt hẳn lên và lạ lùng thay, bệnh phong thấp của người tu sĩ cũng giảm nhanh. Một ngày nọ ông khỏi bệnh hoàn toàn và cũng từ ngày đó, ông không thấy người tuyết xuống sông uống nước, và đoán rằng hắn đã rút vào một nơi hoang vu khác.

    Thời gian trôi qua, và người tu sĩ bị bất ngờ trong một lần đi hái dâu. Lần đó, người tuyết nó bỗng từ thân cây nhảy xuống bên cạnh tu sĩ, giơ cánh tay lông lá khổng lồ lên cao, mặt nhăn lại và nhảy một cái đã biến mất sau bụi rậm. Vài ngày sau, người tuyết lại xuất hiện, lần này hắn cõng một con hổ đã chết. Hắn ném con hổ vào chân tu sĩ rồi biến mất. Tu sĩ không ăn miếng thịt hổ nào, ông mang thịt vào lều lại, cho người bạn hoang dã đó. Nhưng ông lột và giữ da hổ cho đến ngày hết sống độc cư, trở về lại tu viện Schechen miền Bắc Tây Tạng.

    Trong tu viện Schechen, miếng da hổ được dâng lên như món cúng dường đặc biệt và dấu hiệu của lòng từ bi. Kể từ đó, miếng da này được sử dụng trong các buổi lễ mật tông. Miếng da vẫn còn đến ngày nay.

    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  9. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    Tuấn Kiệt (08-18-2017)

  10. #117
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    83. “Tôi không cần gì cả”



    Cho dù ngài đến bất cứ nơi nào, Patrul Rinpoche, vị đại sư của phái Đại Thành, luôn luôn nhận được nhiều phẩm vật cúng tặng. Một khi nhận được phẩm vật gì, ngài thường tặng ngay cho các thợ đẽo đá, thợ thủ công, để họ có thể khắc thần chú, xây chùa tháp với các vật đó. Ít ra là họ cũng làm điều gì có ý nghĩa.Patrul Rinpoche thường đọc câu:


    “Đối với kẻ nghèo nên rộng rãi,

    Đối với kẻ ác nên kiên nhẫn từ bi.

    Đối với người đau đớn, sợ hãi, nên sẵn sàng giúp đỡ,

    Đối với vô minh nên có lòng tha thứ.

    Đối với kẻ yếu kém nên có lòng cảm thông,

    Đối với những kẻ còn bám víu cuộc đời giả tạm này,

    Nên có lòng từ bi vô lượng.”




    Học trò của Patrul để ý thấy rằng những lúc bố thí cho ăn xin, xem ra vị đạo sư mình còn vui mừng hơn cả chính người ăn xin. Và họ cũng để ý Patrul thích nghe tiếng kêu van ăn xin hơn cả âm nhạc hay những lời tham vấn lễ độ.Lần nọ một người thợ đẽo đá thất nghiệp, tên Phukop đến gặp Patrul và xin tiền. Patrul bảo: “Khổ thân anh, bây giờ anh hãy nói ‘Tôi không cần tiền’, thì ta sẽ cho anh một số tiền lớn.”

    Người nọ nghĩ “Không biết lại trò gì đây!” nhưng không nói ra.Patrul phải nhắc ba lần điều kiện lạ lùng đó thì Phukop mới chịu nói “Tôi không cần tiền.” Sau đó Patrul rút tiền vàng trong túi ra và cho người thợ. Học trò của Patrul rất ngạc nhiên về hành động kỳ quái của thầy. Thường thường thầy mình rất rộng rãi, bố thí không chút điều kiện, không bỏ một người ăn xin nào. Họ hỏi Patrul hành động đó nhằm mục đích gì, thì vị đạo sư kể câu chuyện như sau:

    Có lần một người nọ rất nghèo, đến cúng Phật Cồ-đàm một ít bánh kẹo. Một vị bà-là-môn ham thức ngọt, nhìn bánh kẹo rồi hỏi xin Phật. Ông ta biết rằng Phật chẳng bao giờ từ chối. Phật trả lời: “Nếu ngươi nói ‘Cồ-đàm, tôi không cần thứ đồ ngọt này,’ thì ta cho ngươi hết.” Vị bà-là-môn nọ vâng lời và được các thứ.Lúc sau, A-nan hỏi Phật về mục đích câu chuyện, Phật nói: “Trong 500 kiếp vừa qua, vị bà-là-môn đó chưa hề có một lần thấy mình đầy đủ, chưa hề thấy mình không cần gì cả. Vừa rồi đó là lần đầu, có người chỉ cho ông nói câu đơn giản ‘Tôi không cần…’ để làm quen với cảm giác vô sở cầu. Nhờ thế mà lòng tham ái sẽ vơi đi và hạt giống xả bỏ đã được gieo.”

    Sau lần đó, nhiều ngày qua không có kẻ ăn xin hay nghệ nhân thiếu thốn nào đến với Patrul cả. Vật phẩm cúng dường chất cao thành đống trong trú xá của Patrul và thực phẩm để lâu ngày cũng không còn tươi ngon. Bỗng nhiên, mặt Patrul tươi lên và nói: “À, bây giờ cả đám sắp đến rồi!”

    Quả nhiên vài tiếng sau có bốn năm người thợ đẽo đá đến thăm, Patrul đã soạn sẵn tiền bạc, thực phẩm, và vật dụng nghệ thuật cho họ. “Đây, hãy lấy những gì mà các bạn cần!” Patrul nói trước khi các người đó mở miệng cầu xin.

    “Hãy đẽo thần chú lên đá và làm cho cảm hứng các bạn được thành hình” Patrul nói theo khi các người đó, túi đầy vật phẩm, bắt đầu xuống núi. Sau đó Patrul quay lại nói với học trò: “May quá cũng xong các của cúng dường. Các thứ này nằm ngổn ngang như những thây ma.”

    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  11. #118
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    84. Nhân quả (tái sinh)




    Trong các chuyến du hành, Patrul Rinpoche vốn là kẻ không nhà, thường lưu trú trong các tu viện có tiếng của Tây Tạng để truyền giáo pháp Đại Thành. Mục đích càng gặp được nhiều người căn cơ càng hay.Lần nọ, ngài ở lâu trong tu viện cổ nổi tiếng Katok, mỗi ngày ngài hội họp với các vị Lạt-ma và trả lời tham vấn. Sau buổi sáng nọ, vị đại Lạt-ma Katok Situ của viện mời ngài gặp riêng và dùng bữa trưa. Katok Situ lấy làm hân hạnh được gặp riêng vị đạo sư phiêu bồng này, để được chỉ cho ngài các bảo vật của tu viện. Như một đứa trẻ con, Patrul ngạc nhiên nhìn quanh và nói “Thật khó tin, ở đây thật là xa hoa! Katok Situ, tu viện của ngài có lẽ là viện giàu có sang trọng nhất mà tôi đã từng thấy. Trong mỗi phòng có da hổ da báo, thảm lụa vàng bạc, áo quần, đồ cổ, hộp đựng châu báu… Và đất đai của viện nhìn ngút mắt, và những đàn trâu bỏ không thể kể hết. Tôi có cảm giác như lạc vào cõi thần tiên. Trên đời này thật khó có. Thật đáng nể sợ…”

    Không nghe Katok Situ trả lời, Patrul Rinpoche nói tiếp “Còn tôi, tôi chỉ có một cái nồi nhỏ nấu trà trên đường phiêu bạt. Tôi nghe ngài sắp đi miền Đông. Hay là ngài cho gói cái nồi của tôi theo, và tôi đi cùng? Tôi thì thích đi tay không cho khoẻ.”

    Sau khi Patrul rời tu viện, Katok Situ họp các vị Lạt-ma và thông báo làm cả viện sửng sốt, là ông sẽ từ chức đại Lạt-ma để rút vào rừng núi sống độc cư, từ bỏ mọi của cải. Katok Situ đã hiểu những lời khuyên kín đáo của vị tu sĩ phiêu bồng giác ngộ đó. Sau đó Katok Situ một mình đi đến vùng băng giá Dokham, là một thánh địa của dân Tây Tạng. Đến đó, ông cũng giống như mọi kẻ ăn xin hay tầm đạo khác, phiêu bạt rách rưới, với một bình bát bằng gỗ. Ông vừa đi vừa trộn các thứ xin được trong bình.

    Một ngày nọ, Patrul Rinpoche nhận được một mảnh giấy của Katok: “Cám ơn ngài, tôi đã chân thành nghe lời ngài. Tôi đang thiền định.”

    Patrul nói: “Đây này, đây là người thật sự lắng nghe những gì ta nói.”


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  12. #119
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts





    Vài năm sau, vị độc cư Katok đó ở vùng băng giá Dokham được một người đến thăm. Người đó mang theo một đứa bé gái. Đứa bé nói: “Chúng con đã nghe danh ngài từ lâu, chúng con đến để xin ngài ban phước.”

    Katok Situ ban phép lành cho hai người, sau đó cô bé dâng tặng ông một bao bột gạo. Katok không còn cái gì đựng bột nên nói “Cứ đổ bột lên trên nền đá, và như thế là tốt rồi.”

    “Con xin ngài giữ nguyên bao bột, đó là dấu hiệu lòng cảm tạ của con” cô bé nói. Giọng nói và thái độ của cô bé có cái gì đó làm Katok chú ý. Ông lựa các phẩm vật của những kẻ hành hương khác dâng tặng để vương vãi trước cửa động, lấy một sợi chuyền vàng với hột đá quý đưa cho cô bé.Tất nhiên là cô bé không nhận châu báu này của một vị tu sĩ nghèo nàn, nhất là khi cô thấy hột đá quý là loại ngọc Achat có sọc, đó là thứ mà dân Tây Tạng rất quý.

    “Cứ lấy đi, con phải nhận quà tặng của ta và mang vào cổ” Katok yêu cầu. “Mỗi ngày con phải mang.”

    Cô bé vẫn lưỡng lự cho đến khi tu sĩ độc cư nói “Con không hề biết ý nghĩa của sự trao qua đổi lại này.” Lúc đó thì cô mới nhận, mang sợi chuyền với viên ngọc quý trên cổ, và nhận phép lành của Katok thêm một lần nữa.Cuối buổi hành hương, cô bé về lại nhà. Cô ở không xa một vị đạo sư giác ngộ khác, đó là Jamyang Khyentse Wangpo (19). Vì là cháu gái của ngài, nên cô hay đến thăm và học hỏi. Ít lâu sau người ta kể rằng vị sư độc cư ở Dokham đã từ trần. Cô bé nghe xong khóc ròng như khóc người thân nhất vừa qua đời. Chỉ khi rờ viên ngọc quý trên cổ, cô mới có niềm tin, có cảm giác như một sức mạnh vô hình nào an ủi.

    Thời gian trôi qua, và cô bé lấy chồng, người thiếu phụ đó sinh một con trai, và trong những năm sau, đứa con đó giải thích với mẹ một cách rõ ràng rằng, nó không ai khác hơn là sự tái sinh của vị hiền nhân Katok Situ.


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  13. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    Thanh Trúc (08-20-2017)

  14. #120
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    85. Tự hy sinh






    Dola Jigme Kelsang là một học trò của Dodrup Chen Rinpoche đệ nhất. Sau khi giác ngộ, ngài trở thành một vị đạo sư của phái Đại Thành. Ngài cùng đệ tử đi suốt các vùng Đông-Bắc Tây Tạng, thậm chí đến Mông Cổ để truyền bá giáo pháp.

    Ngày nọ, Dola cùng hai học trò đến một thị trấn miền Tây trung quốc, và vào nơi họp chợ, thấy một đám đông đang reo hò. Tới gần thì mới hay đang có một cuộc xử tử công khai. Người ta đang trói một tên trộm trên lưng một con ngựa sắt và đốt lửa trong bụng con ngựa để xử tử tên trộm. Tên đạo tặc la khóc thảm thiết và cầu xin cứu giúp. Đám đông reo hò chửi rủa và kể tội tên trộm đã làm bao người đau khổ. Vị Dola từ bi không biết làm sao khác hơn là đứng ra và tự nhận mình mới là kẻ trộm, xin tha cho tên kia.Nhiều người không tin, cãi nhau om sòm, nhưng Dola, với lòng từ bi vô lượng, đã thuyết phục được, cuối cùng đồ tể thả tên trộm và bắt cổ Dola, trói ngài lên ngựa sắt. Là những tên khát máu, họ đốt lửa, ngựa sắt cháy đỏ. Dola ngồi trên lưng ngựa, mắt nhìn vào cõi vô cùng. Không một lời than vãn, ngài rời bỏ thế giới này.

    Hai bạn đồng hành là hai chứng nhân của câu chuyện thật này và kể lại cho đời. Tây Tạng không hề quên chuyện ấy, và ngày nay, các vị thầy còn kể cho trò nghe. Người ta biết rằng có nhiều cách để chuyển hóa sự sợ hãi và đau đớn trước cái chết, ngay lúc còn sống cũng thế. Dola Jigme Kelsang là một trong những đạo sư đã chứng tỏ được điều này.




    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Nấm lim xanh Tiên Phước chữa bệnh tiểu đường
    Gửi bởi ngokinh18 trong mục Chia sẻ những bài thuốc hay
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-30-2016, 05:30 PM
  2. Tuyển tập nhạc thiền Phật Giáo tỉnh tâm an lạc
    Gửi bởi bachkim24h trong mục Âm nhạc Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-08-2016, 10:15 AM
  3. Niệm Phật kết hợp với nấm lim xanh chữa bệnh ung thư vú
    Gửi bởi chuvanduyhn91 trong mục Chia sẻ những bài thuốc hay
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-09-2016, 11:34 AM
  4. Tuyển tập các ca khúc mùa vu lan 2015
    Gửi bởi Đức Tâm trong mục Âm nhạc Phật giáo
    Trả lời: 7
    Bài cuối: 08-22-2015, 04:39 PM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •