Lại hỏi: "Chỉ một sự này Thật,
Còn hai chẳng phải Chân (1)
Thế thì, Chân là gì?".
Sư đáp: "Gió dễ lay đầu gậy
Mưa thành nẩy trên đường".
Lại hỏi: "Không nhắm Như Lai xin Diệu tạng
Không mong lửa tổ nối đèn chong
Ý chỉ rốt ráo thế nào?".
Sư đáp: "Trời thu lúa xào xạt
Cảnh tuyết mẫu đơn cười".
Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?"
Sư đáp: "Một người ngoảnh mặt khóc
Cả tiệc uống không vui" (2)
Lại hỏi: "Xưa nay việc lớn xin không hỏi
Điểm lạ Tây lai ý thế nào?" (3)
Sư đáp: "Kẻ khéo lời đẹp mặt (4)
Phường đập ngói hong rùa" (5)
Lại hỏi: "Tâm, pháp đều quên, thì tính tức chân (6)
Thế nào là chân?".
Sư đáp: "Đàn Bá Nha gió khua sân trúc (7)
Lệ Nữ Thần mưa rắc hoa non (8)
Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?".
Sư đáp: "Yếu hầu còn mắc nghẹn
Yên ở chẳng vui gì".
Lại hỏi: "Có tu có chứng, khơi bốn bệnh (9)
Ló đầu sao được thoát hồng trần".
Sư đáp: "Núi cao chất nhất dung muôn vật
Biển rộng bao la chứa vạn sông".
Lại hỏi: "Chỉ có Phật với Phật mới biết việc đó (10)
Thế thì việc đó là thế nào?".
Sư đáp: "Đường hẹp chi chít trúc
Gió thổi nhạc tự thành".
Lại hỏi: "Chẳng cần bình thường, chẳng cần thiên nhiên,
chẳng cần tác dụng, thì nay làm gì đây?".
Sư đáp: "Cỏ bồng én đậu thấp
Biển rộng ẩn cá lân".
Lại hỏi: "Tứ đại mang về từ nhiều kiếp
Xin thầy phương tiện thoát luân hồi".
Sư đáp: "Loài thú trên đời Tê là quý
Nó ăn gai góc mẹp bùn nhơ" (11)
Chú thích :
(1)
Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy nhất là sự thật, hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền biến.
(2)
Nguyên văn:
"Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan."
Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý của hai câu này, chúng ta phải đọc:
"Nhất nhân hướng ngung khấp
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu:
"Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Lý Thiện chú thích nó thế này: "Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ giống như một nhà. Nay cả nhà uống rượu, một người riêng bỗng nhiên ngoảnh mặt khóc thì người trong nhà đều không vui". (Thuyết uyển viết: Cổ nhân ư thiên hạ nhất chi đường thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu nhất nhân độc sách thiên hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai bất lạc).
(3)
Việc lớn hay đại sự tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con đường để đi vào tri kiến giác ngộ. Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Đề Đạt Ma.
(4)
Dẫn chữ từ thiên Học nhi của Luận ngữ: "Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ nhân". (Kẻ khéo nói, đẹp mặt, thường ít có lòng nhân).
(5)
Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ"Toản qui" xuất xứ của nó từ phần Quy sách trong Sử ký 128 tờ4a7-8. Theo đó thì "Bậc vương giả ra quân làm tướng tất phải toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt xấu". Lời chua của Dương Kinh trong thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ10a3 viết: "Toản qui tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa". Toản qui do thế có nghĩa là bói rùa. Còn Đả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích của quan làm việc Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di chủ trương không cho họ dự vào hàng thanh phẩm.
(6)
Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính trượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân.
(Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ còn như vết trên gương
Vết bụi chùi sạch gương mới sáng
Tâm pháp đều quên tính tức chân).
(7)
Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu nói: "Bá Nha đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh đờn, và ý nghĩ đến Thái sơn, Chung Tử Kỳnói: "Đánh đờn hay thay ! cao ngất như núi Thái sơn!". Một chặp, Nha lại nghĩ đến dòng nước chảy, Chung Tử Kỳnói: "Đánh đờn hay thay ! ồ ạt như dòng nước chảy !". Chung Tử Kỳchết, Bá Nha phá đờn, cắt dây. Suốt đời không còn đánh đờn lại nữa, cho rằng đời không còn ai còn đủ khả năng nghe mình đánh đờn nữa".
(8)
Vũ trích nham hoa, Thiền sư Minh Giác, có người hỏi « bản nguyên chư Phật ra sao ? », đáp: "Màu lạnh ngàn núi". Lại hỏi: "Nguyên ủy hướng thượng có có không?". Sư đáp: "Mưa rơi hoa non" (Vũ trích nham hoa).
(9)
Bốn bệnh: tức bệnh làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh), bệnh đình chỉ (chỉ bệnh) và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà người ta gặp phải trên con đường đi tìm sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên Giác, định nghĩa bốn bệnh như sau: Bệnh làm ra xảy ra khi người ta nghĩ rằng "tôi làm ra các hạnh để cầu Viên giác". Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng: "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với « Niết bàn sinh tử » không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên Giác" (*). Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng "tự tâm tôi, tôi đứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch diệt để cầu Viên giác". Bệnh huỷ diệt có được khi người ta nói rằng: "tôi diệt hết tất cả phiền não thân tâm hoàn toàn không, không có, huống hồ là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 920b.
(10)
Chữ lấy từ kinh Pháp hoa: "Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng" (chỉ người giác ngộ với người giác ngộ mới có thể rõ hết thật tướng thật của tất cả mọi vật).
(11)
Nội thiên trong Bảo phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: "Con Tê giác sở dĩ nó có thể chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên ăn mọi thứ có độc và những cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ cỏ cây mềm dẻo bao giờ".(Thông thiên tê sở dĩ năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên thực bách thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng thực nhu hào chi thảo mộc).
------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Câu này : "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với « Niết bàn sinh tử » không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên Giác", đề nghị sửa lại như sau :
"tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với "Niết bàn và Sinh tử" tôi không có ý niệm cần thoát ra, tôi phó mặc cho tất cả, tôi không cần phải tuỳ thuận pháp tính để làm gì !"
Lý do : Câu "Tùy thuận pháp tính để cầu Viên Giác" KHÔNG PHẢI LÀ BỆNH NHIỆM, mà là thái độ đúng đắn của Phật tử Đại Thừa.