53. THIỀN SƯ THUẦN CHÂN (? – 1105)
Chùa Hoa quang, làng Tây kết, Thượng nghi. Người Cửu ông, Tế giang, họ Ðào. Tuổi nhỏ đã lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp Pháp Bảo chùa Quang Tịnh (1) nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình để theo học với Bảo. Chẳng được bao năm, cửa tù đập vỡ(*), ánh điện lửa đá theo gõ phát ra(**), dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức (***).
Vào ngày 7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 5 (1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là Bổn Tịch vào thỉnh ích. Sư thuyết bài kệ:
"Chân tánh thường không tánh
Sao từng có diệt sinh
Thân là pháp sinh diệt
Pháp tánh diệt chửa từng".(****)
Rồi thì mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.
_____________
Chú thích :
(1)
Pháp Bảo chùa Quang Tịnh này có thể là Pháp Bảo chùa Phúc diên tư thánh có hiệu là Hải Chiếu đại sư, tác giả bài bia chùa Linh xứng viết năm 1126 nổi tiếng hiện đã phát hiện được, và cũng là tác giả một bài bia khác cho chùa Sùng nghiêm diên thánh viết năm 1118, mà Lê Quí Ðôn đã phát hiện và ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2a8, nhưng đã không chép lại toàn văn bản bia.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
"Cửa tù đập vỡ" ý nói đã NGỘ (Satori), đã thấy ánh sáng Phật pháp cho nên tự giải thoát khỏi mọi "gông xiềng" ràng buộc của lầm mê.
(**)
"lửa đá theo gõ phát ra" người xưa lấy lửa bằng cách gõ 2 viên đá lửa vào nhau bên cạnh "bùi nhùi" (vật dễ bắt lửa mà ngún khói lên) sau đó họ thổi cho nó bùng lên :
Đây là hình ảnh viên đá lửa mà người xưa thường mang theo bên mình (phải 2 viên như vầy).
Đây là bùi nhùi.
(***)
"hầu không còn sức" ý nói người theo học đạo rất đông.
(****)
真性常無性,
何曾有生滅。
身是生滅法,
法性未曾滅。
Chân tính thường vô tính,
Hà tằng hữu sinh diệt.
Thân thị sinh diệt pháp,
Pháp tính vị tằng diệt.
Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BA
(SÁU NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
54. TĂNG THỐNG HUỆ SINH (? – 1064)
Chùa Vạn tuế, kinh đô Thăng long, nguời Ðông phù liệt, họ Lâm, tên Khu (*), hậu duệ của Lâm phú ở Trà sơn, Vũ an. Khoáng(**) lấy con gái của Quách tăng lục, nhân dời nhà đến Phù liệt, sinh được 2 con.người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy.
Tướng mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho rảnh rỗi, Sư nghiên cứu thêm sách Phật, học bách luận và các kinh, không gì là không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ trọng yếu của Phật pháp, Sư thường than thở rơi lệ.
Năm 19 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc lâm thờ Ðịnh Huệ chùa Quang hưng làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Ðịnh Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà(1) trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Ðại sĩ nhục thân(2).
Lý Thái Tôn nghe tiếng, sai sứ đến mời, Sư gọi sứ bảo: "Ông không thấy con vật cúng sinh sao? Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị dắt vào Thái miếu, dù muốn xin làm con vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể được huống gì khác nữa ư?". Sư cố từ không được, nên đến lần thứ hai, Sư mới về kinh. Gặp mặt, vua rất mừng, phong làm Nội cung phụng tăng sắc trụ trì chùa Vạn tuế. Một hôm, nhân dịp trai tăng trong đại nội, vua gọi Sư nói: "Trẫm nghĩ, Phật tổ gốc ở tâm, người học chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mọi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của các vị ra sao". Sư lên tiếng đáp thành kệ rằng:
"Pháp vốn như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết như vậy
Chúng sinh cùng Phật đồng.(***)
----------
Trăng Lăng-già vằng vặc
Thuyền vượt biển lâng lâng
Hiểu không, không biết có
Tam muội mặc thong dong".(****)
Vua rất khen thưởng, rồi phái làm Ðô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết Thiên Vương, Thái Tử Vũ Uy, Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh, Thượng tướng Vương Cường, Thái sư Lương Nhậm Văn, Thái bảo Ðào Xử Trung và Tham chính Kiều Bồng đều tới lui hỏi đạo, lấy lễ thầy trò đãi Sư .
Ðến triều Thánh Tôn, Sư đổi đến chức Tả nhai Ðô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng tên(3).
Năm Giáp thìn Gia Khánh thứ 6 (1064)(4), lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng:
"Nước lửa ngày chan hòa
Do lai, chửa nói ra
Tin ông không xứ sở
Ba ba lại ba ba".(5)(*****)
Lại nói:
"Từ xưa đến theo học
Người người chỉ phía nam(6)
Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới trăng mùng ba"(******)
Rồi tắm rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia văn các chùa Thiên phúc, Thiên thánh, Khai quốc tại Tiên du và chùa Diệu nghiêm, Báo đức tại Vũ ninh. Lại có Pháp sự trai nghi(7) và Chư đạo tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.
______________
Chú thích :
(1)
Tức núi Nguyệt thường hay núi Bạch sắc ở huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Nguyệt thường, tại phía tây nam huyện Tiên du ba dặm, một tên là núi Bạch sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liễu, dưới núi có đền Cao sơn. Năm Tự Ðức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng".
Núi này hiện có đỉnh Bồ Ðề không, chưa thể biết được.
(2)
Ðại sĩ là một tên gọi khác các vị Bồ tát. Xem Ðại trí độ luận. Nó đôi khi cũng để gọi Phật, như trong Kim quang minh kinh Tứ nghi tập giải quyển thượng nói: "Ðại sĩ, đại là không phải nhỏ, sĩ là việc, vì vận dụng được lòng rộng lớn làm nên việc Phật nên gọi Ðạisĩ, cũng gọi Thượng sĩ". Du già sư địa luận xác định rõ hơn nội dung của từ Thượng sĩ thế này: "Người làm không lợi mình mà lợi người, ấy là hạ sĩ, làm lợi mình không lợi người, gọi là trung sĩ, làm lợi cả mình lẫn lợi người gọi là thượng sĩ". Nội dung của từ Ðại sĩ cũng thế.
Ðại sĩ nhục thân như vậy, có nghĩa vị Bồ Tát hay Phật bằng xương thịt.
(3)
Về sự liên hệ giữa Huệ Sinh và Lý Thánh Tôn, Báo Cực truyện do Việt điện u linh tập tờ 30-31 dẫn lại trong truyện Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân có viết rằng:
"Xưa Lý Thánh Tôn nam chinh Chiêm thành, đến cửa Hoàn bỗng bị gió lớn mưa to, sóng nước cuộn lên, thuyền vua tròng trành muốn lật, nguy cấp xảy ra không thể lường được. Vua rất lo sơ. Trong lúc bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái, tuổi ước trên dưới hai mươi, mặt tựa hoa đào, mày đượm dương liễu, mắt sáng như sao, cười như hoa nở, mình mặc áo trắng quần lục, nai nịt gọn gàng, đi thẳng đến trước Vua, nói rằng: "Thiếp là tinh của đại địa Nam quốc, sống nhờ ở làng Thủy vân đã lâu, xem thời mà ra, may gặp dịp tốt, hân hạnh được thấy long nhan, thì sở nguyện bình sinh của thiếp thật đã thỏa. Chỉ mong bệ hạ chuyến đi này thông suốt, hoàn toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy bồ liễu mong manh, cũng xin đem sức mọn, lặng lẽ phò tá. Ðến ngày khải hoàn, thiếp xin đợi ở đây để bái yết". Nói xong thì không thấy nữa.
Vua tỉnh dậy kinh hãi nhưng vui, cho mời tả hữu, kể hết những gì đã thấy trong mộng. Tăng thống Lâm Huệ Sinh nói : "Thần nói thác sinh vào một cây ở tại làng Thủy vân. Nay nên tìm thần cây đó, có thể có linh nghiệm". Vua đồng ý, sai tùy tùng đi tìm ở bãi và bờ sông thì được một cây gỗ, đầu rất giống hình người qua dạng người đã thấy trong mộng. Vua bèn đặt hiệu là Hậu Thổ phu nhân. Sai đặt hương án ở trong ngự thuyền. Giây lát, sóng gió lặng im, cây cối hết động. Tới khi qua đến Chiêm thành xáp trận thì giống như có sức thần giúp. Trận đó quả đại thắng.
Ðến ngày khải hoàn, thuyền vua đến đậu lại chỗ cũ, ra lệnh xây miếu, thì mưa gió lại nổi lên lại như xưa. Lâm Huệ (Sinh) tâu rằng: "Ðể xin một keo có phải muốn về kinh sư chăng". Thì quả được. Mưa gió lại im lặng. Ðến khi về tới kinh sư, vua chọn đất dựng miếu tại làng An lãng, rất nổi tiếng linh dị. Có kẻ bài báng chú trở thì liền bị tai họa…
Ðấy là chuyện Lâm Huệ Sinh tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn nguyên bản chép tay viết Huệ Lâm Sinh hay Huệ Lâm, nhưng đó rõ ràng là chép ngược và thiếu cái tên của Huệ Sinh họ Lâm. Suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi đánh Chiêm thành có một lần, ấy là vào năm 1069, nhưng như sẽ thấy, Huệ Sinh theo Thiền uyển tập anh thì mất vào năm 1063 hay 1064. Vậy làm sao lại có thể tùng chinh? Xem chú thích tiếp theo.
(4)
Nguyên văn: Gia Khánh ngũ niên Giáp thìn. Nhưng cứ Ðại Việt sử lược 2 và Toàn thư B3 thì Chương Thánh Gia Khánh ngũ niên phải là Quý mão, chứ không phải Giáp thìn. Nếu Giáp thìn thì phải là Chương Thánh Gia Khánh lục niên (1064). Chữ ngũ và chữ lục cũng rất dễ lẫn. Vậy Huệ Sinh mất năm 1064? Nhưng như thế làm sao Huệ Sinh có thể tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn trong cuộc chinh phạt xảy ra vào năm 1069. Phải chăng Huệ Sinh đã tùng chinh với Lý Thái Tôn trong cuộc chinh phạt năm 1044, mà Việt điện u linh tập viết lộn thành Lý Thánh Tôn? Chúng tôi nghĩ đấy là một có thể, nhất là khi vấn đề truyền bản của Việt điện u linh tập đưa nhiều điểm khá nghi ngờ, mà những cái tên Huệ Lâm Sinh và Huệ Lâm là những thí dụ. Tuy nhiên không nhất thiết loại bỏ những sai lầm niên đại có thể do sự truyền bản của Thiền uyển tập anh tạo ra, mà trường hợp Khánh Hỷ và Pháp Dung là những thí dụ.
(5)
Công án thiền. Thiền sư Vô Trước nói chuyện với Văn Thù trên Ngũ Ðài Sơn. Vô trước hỏi về sinh hoạt của các nhà sư ở đấy và con số của nó. Văn Thù trả lời: "Trước ba ba, sau ba ba" (Tiền tam tam, hậu tam tam). Xem Bích nham lục 4 tờ 173b29-174a7.
(6)
Ðiển tích Thiện Tài đi học đạo, được Văn Thù chỉ đi hướng nam tham học với 53 vị thiện tri thức, mà từ Phật học Trung Quốc thường gọi "Thiện Tài đồng tử ngũ thập tam tham", trong kinh Hoa nghiêm. Xem Ðại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 62.
(7) Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: "Pháp sự trai nghi một quyển, Sư Huệ Sinh soạn, người Ðông phù liệt, huyện Thanh trì". Còn Chư đạo tràng khánh tán văn không thấy sách nào ghi tới cả. Ta không hiểu Lê Quý Ðôn đã dựa vào tiêu chuẩn gì để ghi hay không ghi một cuốn sách.
----------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Lâm Khu (林摳)
(**)
Lâm Khoáng (林壙)
(***)
法本如無法,
非有亦非空。
若人知此法,
眾生與佛同。
Pháp bản như vô pháp,
Phi hữu diệc phi không.
Nhược nhân tri thử pháp,
Chúng sinh dữ Phật đồng.
(****)
寂寂棱伽月,
空空渡海舟。
知空空覺有,
三昧任通週。
Tịch tịch Lăng Già nguyệt,
Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu,
Tam muội nhậm thông chu.
(*****)
水火日相參,
由來未可談。
報君無處所,
三三又三三。
Thuỷ hoả nhật tương tham,
Do lai vị khả đàm.
Báo quân vô xứ sở,
Tam tam hựu tam tam.
(******)
字古來參學,
人人指為南。
若人問新事,
新事月初三。
Tự cổ lai tham học,
Nhân nhân chỉ vị Nam.
Nhược nhân vấn tân sự,
Tân sự nguyệt sơ tam.
Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.
55.THIỀN SƯ THIỀN NHAM (1093-1163)
Chùa Trí quả(1), làng Cổ châu, Long biên. Người Cổ châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi Tăng quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng(2) trong hay. Thường tập môn Tổng trì Đà la ni, xây lưng mà đọc, không sót một chữ.
Trong khoảng Hội Phong (1092 -1100), Sư ứng thí(3) kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện vua, đều trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành đạo(4) mà được ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.
Lúc đầu, Sư đến ở chùa Thiên phúc, núi Tiên du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn, ăn lá cây uống nước suối, trãi đến sáu sương. Sao đó, Sư trở về làng mình, trùng tu lại chùa Trí quả mà trụ trì. Trong khoảng Ðại Thuận (1128-1132), trời hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm. Vua phái làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước có cầu đảo, Sư đều làm chủ(5).
Tháng 2 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 1 (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Ðến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời bấy giờ gọi là Phật sống(6).
Sau này, mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.
_____________
Chú thích :
(1)
Chùa Trí quả hiện nay ở làng Phương quan trên hữu ngạn sông Dâu đối diện với làng Văn quan. Chùa đấy là nơi thờ Pháp Ðiện, một trong Tứ pháp. Nếu cứ vào địa điểm làng này, thì vị trí làng Cổ châu thời Lý không phải chỉ gồm có làng Khương tự và Ðại tự mà thôi. Trái lại, nó phải bao gồm phần lớn những làng xung quanh hai làng đấy, mà chính yếu là những làng Lũng khê, Thanh tương, Văn quan, Phương quan và Công hà.
Vì chùa Trí quả là chùa làng mình, nên Thiền Nham đúng ra là người Phương quan, tức người làng Dâu ngày nay. Ta không biết làng này hiện còn ai họ Khương không?
(2)
Phạn bối, tức một thứ ca hát tán tụng dùng một số nốt giới hạn nào đó của âm nhạc Ấn độ, sau này trở thành lễ nhạc của Phật giáo tại các xứ phương Ðông.
(3)
Trong khoảng Hội Phong (1092-1099) không thấy sử ghi một cuộc điện thí nào. Nhưng truyện Viên Thông tờ 68b9-10 ghi một cuộc thi Tam giáo xảy ra vào năm Hội Phong thứ 6 (1097), mà Viên Thông đỗ hạng đầu. Như thế, Thiền Nham và Viên Thông rất có thể là hai người đồng khoa.
(4)
Chùa Thành đạo nghi là chùa Thành đạo hiện ở tại làng Ðông cốc, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh ngày nay, nơi có thờ Pháp Vũ, một trong Tứ pháp, bởi vì chùa Trí quả, nơi trú trì của Thiền Nham là nơi thờ Pháp Ðiện, thì tất Nham phải có một liên hệ nào đó với các chùa có thờ Tứ Pháp khác. Tuy nhiên, tại làng Văn giáp, huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông cũng có chùa Thành đạo và chùa đấy cũng thờ Pháp Vũ. Dẫu thế, chúng tôi vẫn nghĩ, chùa Thành đạo của Pháp Y tức chùa Thành đạo tại làng Ðông cốc.
(5)
Trong khoảng Ðại Thuận, Ðại Việt sử lược 3 tờ 1b7-8 chỉ viết: "Ðại Thuận năm thứ 3 (1130) tháng 6 hạn, cầu thì mưa. Nhưng theo Toàn thư B3 thì trong khoảng Thiên Thuận từ năm 1128 đến 1132 không năm nào là không có hạn nên Việt sử tiêu án 1 tờ 110a6, khi nhận xét về biện pháp chống hạn của triều Lý Thần Tôn, đã phải nói: "Xét trong khoảng 10 năm (trị vì của Thần Tôn) thì không năm nào là không có hạn".
(6)
An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Thiền Nham là vị sư huyện Siêu loại, giới hạnh tinh nghiêm, ăn lá cây, uống nước suối, xác chết rồi vẫn còn tươi như khi sống. Người bấy giờ gọi là Phật sống".
Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.
56.QUỐC SƯ MINH KHÔNG (1066-1141)
Chùa Quốc thanh,Trường an(1), người làng Ðàm xá, Ðại hoàng(2),họ Nguyễn, tên Chí Thành.
Sư thường đi du học gặp Thiền Sư Từ Ðạo Hạnh chùa Thiên phúc. Hạnh mến sư, cho phép theo hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn sâu ấn hứa và cho tên Minh Không. Ðến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng: "Xưa Ðức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả báo hùm vàng, huống ở đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay còn phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối với ngươi có duyên, xin nhờ cứu với".
Hạnh mất rồi, Sư trở về làng cũ cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm, lương y trong thiên hạ ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không làm gì được(3). Bỗng nghe có trẻ con ca rằng:
"Muốn trị bệnh Thiên tử
Phải có Nguyễn Minh Không".(*)
Ben sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp đuợc Sư (4).
Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa, họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột điện, lên tiếng nói: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng". Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: "Ðấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?"
Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ để tưởng thưởng.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Ðại Ðịnh (5) thứ 2 (1141), Sư mất, thọ 76 tuổi (6).
____________
Chú thích :
(1)
Tức đất huyện Yên khánh, tỉnh Ninh bình ngày nay, chùa Quốc thanh hiện chưa truy cứu được.
(2)
Tức xã Ðàm xá, huyện Gia viễn, tỉnh Ninh bình ngày nay. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, viết: "Ðền Nguyễn Minh Không ở tại huyện Gia viễn, xưa hai xã Ðàm Xá và Ðiềm giang cùng thờ. Thần người Ðàm xá, họ Nguyễn, tự Chí Thành. Xét Sử ngoại truyện thì thầy đi du học và được tâm ấn từ Ðạo Hạnh, hiệu là Thiền sư Minh Không, ở chùa Quốc Thanh. Trong khoảng Hội Tường Ðại Khánh đời Lý Nhân Tôn, Ðạo Hạnh khi sắp tạ thế, dặn Minh Không rằng: "Ta sẽ ở ngôi nhân chủ, mắc bệnh khó tránh, ông nên cứu ta". Sau Thần Tôn bị bịnh hóa thành hình cọp. Trẻ nít ca nói: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải tìm Nguyễn Minh Không". Mời đến, Không nói tiền duyên cho vua nghe. Vua giác ngộ, Minh Không nấu dầu một trăm cân, lấy tay khuấy rửa cho vua. Bệnh lành, phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ. Ðến năm Ðại Ðịnh thứ 2 (1141) đời Anh Tôn, Sư mất, thọ 76 tuổi. Người trong ấp lập đền thờ. Trước đền có một cây đèn đá cao độ một thước, tương truyền là đèn tụng kinh của Sư. Ðền nổi tiếng là linh ứng. Nay các chùa ở Giao thủy và Phổ lại đều đắp tượng Sư mà thờ".
(3)
Những tình tiết diễn tiến cho tới lúc này, nghi là một phụ hội, bởi vì năm năm trứơc khi Minh Không đến chữa bệnh cho Thần tôn, tức năm Ðại Thuận thứ 4 (1131), Toàn thư 3 tờ 36a9 đã ghi việc vua "dựng nhà cho Ðại sư Minh Không". Như vậy, chắc chắn không có chuyện Minh Không "về quê cày cấy 20 năm hay chuyện trẻ nít phải hát và phải sai sứ đi khắp dân gian mới gặp Sư".
(4)
Toàn thư B3 tờ 39a7-9: "(Thiên Chương Bảo Tự) năm thứ 4 (1136) vua bệnh nặng, thuốc men không bớt, thấy Minh Không chữa lành, phong làm Quốc sư, cho thuế hộ vài trăm". Rồi chua tiếp: "Ðời truyền rằng thầy Từ Ðạo Hạnh khi sắp thi giải, trong lúc bị bệnh, đem thuốc và chú giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, nói rằng: "Hai mươi năm sau thấy Quốc Vương gặp bệnh lạ thì đến chữa". Bởi nó bắt nguồn từ việc này vậy".
(5)
Nguyên văn có Ðại Ðịnh nhị niên Tân sửu. Nhưng cứ Toàn thư 4 tờ 1b8 và 2b8-9 thì Ðại Ðịnh nhị niên phải là năm Tân dậu, và tháng 8 mùa thu năm đấy Minh Không mất.
(6)
Lĩnh nam trích quái tờ 31-33 chép một tiểu sử của Minh Không hoàn toàn đồng nhất với bản đây. Nhưng sau đó, nó lại ghi thêm một tiểu sử hoàn toàn khác và nói là lấy từ Minh Không biệt truyện. Truyện như sau: "Làng Giao thủy có chùa Không lộ, xưa có nhà sư tên…trong khoảng Trị Bình (1064-1067) xuất gia trụ trì chùa đó, nổi tiếng là đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi vào, nhà sư cùng phòng, tức Ðạo Hạnh núp trong cửa nhảy ra, giả tiếng cọp để nhát Minh Không. Minh Không cười nói: "Người tu hành mà muốn làm cọp sao? Ta sẽ cứu ngươi".
Sau nhiều năm, nhà Sư ấy bỗng chốc chết, hóa làm Quốc vương, chẳng bao lâu bỗng hoá ra mọc lông, vùng vẫy gào thét, mặt giống như cọp, khắp tìm thầy thuốc, thầy bói, nhà sư, đạo sĩ, nhưng đều bó tay. Nghe Minh Không có pháp thuật, sai người chèo thuyền đến mời. Minh Không lấy một chiếc om nhỏ, nấu cơm cho thủy thủ ăn. Vị sứ giả cười nói: "Sợ khó đủ hết". Minh Không trả lời: "Không phải, để cho họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta". Rồi thủy thủ bốn năm chục người, ăn mãi mà không hết. Mọi người đều làm lạ. Ðến chiều, họ sắp ra thuyền thì Sư lại bảo thủy thủ hãy ngủ ngon một đêm, đợi sáng mai rạng đông, bần tăng gọi dậy thì mới có thể bắt đầu ra thuyền. Nếu không thì ta sẽ không đi. Sứ giả nài nỉ không được, bèn nằm yên giả ngủ, thì chỉ nghe dưới thuyền tiếng gió thổi veo veo. Lúc lâu mặt trời mọc, Sư gọi dây thì thuyền đã cập bến ở kinh đô.
Minh Không bay lên trời mà vào cung, đun nước tắm cho vua, lập tức lông rụng, thân thể bình phục. Vua hỏi lý do. Sư đáp: "Người tu hành, nếu một niệm mê thì sám hối là xong, không khó khăn gì hết". Lại hỏi: "Sư làm sao có thần thông mà làm được như vậy?" Minh Không trả lời: "Ðấy chẳng phải phép thuật gì hết. Thần xưa có bệnh phong, phát ra thì không thấy, nên nhiều ít không biết thì cái gì cũng trống, mình cứ tin mà bước đi, chẳng phải thần thông gì thảy". Bèn lại đi bằng đường không mà trở về, cho thưởng gì cũng không nhận, vua bèn ban hiệu là Thần tăng để khen ngợi".
Tiểu truyện này của Minh Không, tuy Lĩnh nam trích quái bảo là rút từ Minh Không biệt truyện, nhưng chắc chắn là xuất phát từ truyện Minh Không thần Dị trong Nam ông mộng lục, và nhất là bởi vì nó hoàn toàn giống với truyện kể trong đó.
Việt sử tiêu án 1 tờ 108b7-109b9 cũng chép lại gần giống truyện trên và bảo là từ Ngoại truyện. Nó viết: "Thế truyền Ðạo Hạnh khi sắp thi giải, đem thuốc có làm phù chú, giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không nói rằng: "Sau 20 năm quốc vương có bệnh thì đem mà trị". Thuyết này xuất phát từ Lĩnh nam trích quái. Lại xét Ngoại truyện thì cha Ðạo Hạnh là Từ Vinh dùng pháp thuật nên bị sư Thái Ðiên giết. Ðạo Hạnh nghĩ cách báo thù cha, đến tu đạo tại tịnh xá Hương tích. Trên đường gặp Khổng Minh Không, bèn kết làm bạn cùng đi đến chùa Vân mộng. Vị thầy dạy cho thần thông quyết. Sau 3 năm, hai người giã từ trở về. Ðạo Hạnh muốn thử thuật mình chơi, nấp vào một nơi hiểm, giả làm con cọp để dọa Minh Không. Minh Không biết, trách Hạnh dùng tà hạnh lại gồm có chú ngữ. Ðạo Hạnh hổ thẹn và hối hận, đến tạ lỗi, vừa nói: "Nghiệp đời sau chưa trừ hết, xin phiền giải thoát cho". Ðạo Hạnh về am, Minh Không về Giao thủy. Sau đó nghe Ðạo Hạnh thi giải, MK cười, nói rằng: "ông Hoà thượng ấy còn mê phú quý trần gian sao?". Ðến lúc ấy, Thần Tôn bị bệnh kêu gầm, muốn biến thành cọp. Thuốc chữa không chịu. Trẻ con hát rằng: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải được Khổng Minh Không". Thái hậu nghe được cho mời đến. Khi đã đến, bèn giảng chuyện nhân quả đời trước cho vua. Vu abèn giác ngộ. Bệnh liền bớt. Minh Không có nói kệ:
Kỳ lân đồ hậu mạc
Nguyệt vọng đáo trung thiên.
Người bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ, quả hiệp với lời kệ. Minh Không người Ðàm xá, huyện Gia viễn. Nay chùa Phổ lại và Giao thủy có đắp tượng thờ. Năm Ðại Ðịnh thứ 2 (1141) Sư mất, thọ 76 tuổi".
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
"Tập tầm vông _ tay không, tay có _ tập tầm vó, tay có tay không _ Tay nào không, tay nào có ? tay nào có, tay nào không ? Ông Nguyễn Minh Không, cứu Hoàng Thái tử"
Trên đây là bài đồng dao mà trẻ con thời xưa hát kèm theo trò chơi "Tập tầm vông" :
_ Hai tay nắm lại, giấu sau lưng, một tay có vật _ đồng xu hoặc là viên đá cuội _, sau đó trưng 2 tay ra (vẫn tư thế nắm lại) đố trẻ kia. Hai tay xoay tròn, đồng thời miệng hát đố bài trên.
Hết câu hát đưa hai nắm tay ra cho trẻ đối diện đoán. Nếu đoán đúng thì người đoán đúng được thực hiện hình phạt (tùy theo hai bên thỏa thuận như ký đầu hay búng tai..hoặc giả người thua phải chạy quanh 3 vòng.). Nếu người đoán không đúng thì bị phạt ngược lại.
Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.
Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)