DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 2/7 ĐầuĐầu 1234 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 67
  1. #11
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts


    Ngoài việc học hỏi với lão sư, tôi còn tham cứu thêm các sách vở trong nhà, và tìm được một phương pháp để dẹp bỏ lòng tham dục qua việc tẩy uế thân tâm. Tôi thấy việc tĩnh tọa như lão sư chỉ dạy đòi hỏi một thời gian lâu dài nên tôi muốn tìm một lối tắt nhanh hơn. Sáng nào tôi cũng dậy thật sớm, tìm đến ngọn thác Kagami gần đó để tắm gội, tẩy uế bằng nước lạnh (Misogi). Tôi đứng dưới chân ngọn thác, mặc cho làn nước lạnh như băng xối lên người, tập trung tư tưởng và cầu nguyện các đấng thần linh phù hộ cho tôi. Tôi tin rằng nước có công dụng rửa sạch những ô uế trên thân thể tôi và nhờ sự thành tâm cầu nguyện, tâm hồn của tôi có thể mở rộng để đón nhận mặc khải của chư thần như tôi đã từng kinh nghiệm khi còn ở Hokkaido. Vì Thần Đạo không phân biệt tâm và thân, một thân thể trong sạch biểu lộ một tâm thức trong sáng nên việc tắm gội hành xác đối với tôi là một việc làm hết sức tự nhiên, Một hôm lão sư bắt gặp tôi làm việc đó, ông lắc đầu quát lớn:

    - Cô tưởng rằng mình có thể ngộ được điều gì đó qua hành động bên ngoài như vậy hay sao ?

    Tôi không hiểu lão sư muốn nói gì vì lúc đó tôi không có một ý thức gì về danh từ “ngộ” (satori) cả. Tôi tin rằng nhờ thành tâm thực hành các phương pháp cổ truyền như việc tẩy uế bằng nước lạnh (Misogi) mà tôi có thể đạt được một quyền năng phi thường, hay một trạng thái tâm thức có thể giao cảm được với chư vị thần linh. Tuy bị lão sư cảnh cáo nhưng tôi vẫn tiếp tục thực hành phương pháp đó một cách siêng năng, chuyên cần.

    Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Thoáng chốc tôi đã tu tập ở đây được đúng một năm. Hôm đó, sau buổi tĩnh tọa, lão sư hỏi:

    - Hình như ngày mai cô lên đường về nhà thì phải. Cô đã ở đây tròn một năm rồi. Liệu cô đã sẵn sàng chưa ?

    Tôi bàng hoàng không biết phải nói gì. Lúc đầu tôi tưởng lão sư có ý muốn đuổi tôi đi vì tôi đã thực hành những phương pháp mà ông không thích nhưng tôi nhớ lại thời hạn một năm mà tôi đã trình bày khi xin thụ giáo năm xưa. Thật ra lúc đến học đạo, tôi chỉ nói bừa ra thời gian một năm chứ không hề có ý định sẽ trở lại với Ryochan. Tôi nghĩ mình đã đoạn tuyệt với quá khứ, đã dứt bỏ tất cả mọi sự, tôi không còn mặt mũi nào trở về để gặp Ryochan nữa. Mặc dù thấy tôi có vẻ ngần ngại, lão sư vẫn thản nhiên:

    - Dù thế nào chăng nữa, đã đến lúc cô phải trở về nhà.

    Tôi trở lại Nagoya với một tâm trạng hoang mang chán nản. Chưa muốn về nhà ngay, tôi ghé qua hàng xóm để tâm sự. Bà hàng xóm lắng nghe tôi giải bầy những nỗi khó khăn thì lắc đầu than:

    - Nghiệp của cô nặng như thế thì làm sao mà tu cho được ! Phải chăng cô vẫn còn yêu Ryochan nên không dám nói thẳng cho hắn biết ý định muốn từ bỏ tất cả để đi học đạo ? Cô tưởng mình có thể đi theo ông thầy kia nhưng vì còn nặng nợ với Ryochan nên trước sau cô vẫn phải trở về. Theo tôi, cô không thể làm gì khác được đâu! Khi nào duyên nợ còn thì cô vẫn phải rán mà trả cho hết. Chúng ta mang kiếp người là mang cả một gánh nghiệp quả, nào là duyên với người này, nào là nợ với người kia. Có khi vừa là duyên vừa là nợ, chập chùng không biết đâu vào với đâu. Cô không thể chống lại cái nghiệp đó được; dù cố gắng lắm cô cũng chỉ có thể hành động theo ý mình một lúc thôi, việc phải đến vẫn xảy đến như thường. Thà cứ thuận theo nó còn hơn…

    Tôi gật đầu ra vẻ đồng ý nhưng trong thâm tâm rất khó chịu. Tôi rủa thầm mình đã dại đột đem chuyện riêng tư ra kể cho người khác nghe và quyết định từ đây sẽ phải tránh cái thói nhi nữ thường tình này.

    Khi tôi về nhà thì Ryochan đi làm chưa về. Tôi không biết sẽ phải nói sao với hắn. Liệu tôi có nên cho hắn biết ý định vẫn muốn tiếp tục trở về với lão sư hay không? Tôi cố gắng chuẩn bị một thái độ nhưng tâm trạng cứ rối bời, không biết phải làm gì. Trong lúc thất vọng cùng cực, tự nhiên tôi nhớ đến một câu kinh quen thuộc:” Nếu có chúng sinh nào chịu mọi khổ não, một lòng xưng niệm tên hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tức thì Bồ Tát Quán Thế Âm quán sát tiếng kêu cầu ấy, độ cho họ thoát khỏi khổ não”. Tôi vội vã cung kính chắp tay thành tâm niệm lớn:” Nam Mô Đại Từ Đại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Tôi không biết mình đã niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm bao nhiêu lần, nhưng tự nhiên trước mắt tôi bỗng có một luồng sáng hiện ra sáng chói, giữa luồng ánh sáng đó có một dòng chữ lớn: “Con hãy tập yêu thương”. Tôi cảm thấy toàn thân rung động mãnh liệt, như có một luồng điện ở đâu rót vào đầu óc u tối của tôi khiến nó bừng sáng. Tôi giật mình thảng thốt kêu lớn: “Phải rồi ! Đó mới là giải pháp cho tình trạng hiện tại”. Chỉ trong giây phút, tôi ý thức ngay rằng từ trước đến nay tôi đã nghĩ về mình quá nhiều; tôi chỉ quan tâm đến nỗi khó khăn của riêng mình mà chẳng bao giờ chú ý đến nỗi khổ tâm của người khác. Tôi chỉ muốn điều này hay điều nọ nhưng chẳng bao giờ tự hỏi hành động của tôi đã gây đau khổ cho người chung quanh như thế nào. Tôi đã làm cha mẹ tôi không hài lòng, đã làm cho chồng tôi bỏ đi, đã khiến cho hai đứa con của tôi phải chịu thân phận mồ côi chỉ vì tôi tham lam, ích kỷ quá. Tôi tưởng rằng tôi đã thay đổi nhưng thật ra tôi không hề đổi thay gì hết, vẫn chứng nào tật ấy. Tôi chưa bao giờ biết yêu thương, làm sao tôi có thể giúp đỡ ai khác khi không hề có tình thương? Tôi có cảm tưởng như gánh nặng trên vai đã được ai đó nhấc đi và đầu óc tôi trở nên thoải mái hơn bao giờ hết. Tôi ý thức rõ rệt những sai lầm mà tôi đã tạo, những phản ứng nhất thời mà tôi đã làm, tất cả chỉ vì muốn thay đổi mọi sự theo ý mình. Phải chăng đó là biểu hiệu của một lòng tham không đáy ? Giờ đây tôi đã hiểu, tôi sẵn sàng hy sinh tất cả để lo cho Ryochan, tôi sẽ chờ hắn về để xin lỗi hắn, để kể cho hắn nghe những khát khao thầm kín vẫn nung nấu thâm tâm tôi. Tôi sẽ nói về quan niệm “chí tâm, thành ý” mà tôi đã học hỏi được; với một tình yêu chân thành, tôi sẽ tâm sự với hắn về những kinh nghiệm lạ lùng đã xảy ra cho tôi, và hắn sẽ hiểu, sẽ thông cảm…

    Ryochan kiên nhẫn nghe tôi thổ lộ tâm sự rồi cười lớn:

    - Này Satomi, em nghĩ rằng người ta có thể giải quyết được những nỗi khổ đó qua đức tin tôn giáo hay sao ? Đó chỉ là một ảo tưởng ! Tôn giáo chỉ là một trò bịp bợm, một thứ thuốc độc, một loại nha phiến cho những tâm hồn yếu đuối. Thời đại này mà em còn giữ những tư tưởng cổ hủ đó ư ? Hãy mở mắt mà xem những tên tu sĩ lưu manh đang dọa nạt quần chúng bằng những danh từ như tội lỗi, hình phạt rồi kêu gọi đóng góp tiền bạc cho các cơ sở tôn giáo để chuộc tội này nọ. Đó chỉ là một hình thức ăn xin; những kẻ ăn xin đó thì cứu giúp được ai ? Con người không có ai xấu cả nếu họ có một đời sống vật chất đầy đủ. Họ xấu vì thiếu các điều kiện này nên mới phải làm chuyện sằng bậy. Để ta nói cho em nghe một trật tự mới trong xã hội, nhờ đó tất cả mọi người đều được sung sướng thực sự. Sở dĩ người ta thiếu thốn, đau khổ vì trong xã hội có kẻ giàu và người nghèo, có sự hơn kém thua thiệt. Nếu tất cả đều bình đẳng, đều giàu sang, đầy đủ như nhau thì đâu còn khổ đau nữa. Đó mới là giải pháp đúng đắn nhất và đó chính là chủ nghĩa xã hội. Những người theo chủ nghĩa này quyết tâm tranh đấu cho quyền lợi của quần chúng, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình cho quyền lợi chung, đó mới là những bậc thầy đáng kính trọng. Chủ nghĩa xã hội chính là một tôn giáo mới mà mọi người đang mong đợi; những người theo chủ nghĩa này chính là những tu sĩ mới của thời đại hiện nay.

    Tôi bàng hoàng trước những câu nói hùng hồn của Ryochan. Làm sao một kẻ thất học như hắn lại sử dụng được những danh từ mới mẻ, văn hoa như vậy? Hiển nhiên hắn đã học hỏi những trò này trong khi tôi vắng nhà. Ryochan đắc chí nhìn tôi nói tiếp:

    - Này Satomi, em biết ta tôn trọng tự do riêng của em, nhưng ta không thể làm ngơ khi thấy em trở nên nạn nhân của những tên tu sĩ chuyên “bán nha phiến” đó được ! Chúng và cái gọi là tôn giáo của chúng cần phải bị tiêu diệt càng sớm càng tốt… Từ nay ta cấm em không được bén mảng đến những nơi chốn đáng khinh bỉ đó. Nếu em không nghe lời ta thì đừng có trách…

    Càng nói Ryochan càng trở nên hung dữ, cặp mắt hắn quắc lên như muốn ăn tươi nuốt sống một đối thủ vô hình nào đó. Hắn tiếp tục nói về chủ thuyết xã hội mà hiện nay hắn đang cố gắng cổ xướng trong giới nhân công nhưng tôi không còn muốn nghe nữa. Tôi tủi thân ôm mặt khóc tấm tức. Trước mắt tôi, Ryochan không còn là một cậu bé hiền lành nhút nhát ở gánh hát năm nào nữa. Hắn cũng không còn là một thanh niêm chăm chỉ đi phân phối báo cho các đại lý, mà đã trở nên một con người khác hẳn. Hiển nhiên hắn đã thay đổi nhờ những liên hệ với một tổ chức chính trị nào đó. Ryochan cho tôi biết hắn đã bỏ việc phân phối báo và trở nên ký giả một tập san thuộc nhóm xã hội. Hắn còn đảm nhận việc tổ chức các buổi học tập cho những người mới gia nhập tổ chức này.

    Tôi im lặng nghe Ryochan hùng hồn diễn giảng, đáng lẽ ra tôi phải thất vọng lắm mới phải, nhưng không hiểu sao tôi lại thấy mình bình tĩnh một cách lạ thường. Tôi biết Ryochan đã thay đổi nhưng chính tôi cũng đã đổi thay, hiển nhiên đời sống của chúng tôi không còn như xưa nữa mà bước vào một ngã rẽ mới.


  2. #12
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts
    .


    Vì Ryochan đã bỏ việc phân phối báo cho các đại lý để dấn thân vào những hoạt động khác nên cuộc sống của chúng tôi trở nên túng thiếu hơn trước, phải dè xẻn lắm mới đủ ăn. Tuy nhiên tôi chỉ coi đó là một thử thách. Tôi biết mình không thể thay đổi được hoàn cảnh như ý muốn nhưng đồng thời cũng biết rằng mình có thể thay đổi được thái độ của mình đối với hoàn cảnh bên ngoài. Nếu giữa tôi và Ryochan có duyên nợ gì với nhaư thì dĩ nhiên tôi phải trả cho hết, nhưng điều này không có nghĩa rằng tôi phải từ bỏ việc học đạo của mình. Ryochan không muốn cho tôi lui tới những nơi chốn có tính cách tôn giáo nhưng không thể cấm tôi tu học tại nhà. Không thể trở lại với lão sư nhưng tôi vẫn có thể thực hành những phương pháp tôi đã được học hỏi. Tôi dọn dẹp lại căn nhà, thiết lập bàn thờ chư thần (Kami), và tiếp tục tu tập phương pháp tĩnh tọa Kannagara-no-michi. Tôi thường tĩnh tọa rất lâu, có khi từ sáng đến tối, và cuối cùng phát âm những chữ a, e, i, o, u thật rõ ràng với tất cả mọi năng lực trong người. Lúc đầu việc tu tập của tôi làm nhiều người trong xóm hiếu kỳ xúm lại xem, trẻ con cũng bắt chước tôi kêu “aa, uu, oo” om sòm nhưng dần dần người ta quen đi và không làm phiền gì tôi nữa.

    Ngoài việc tĩnh tọa, tôi còn nghiên cứu pho sách Kojiki của Thần Đạo, để tìm hiểu thêm những ẩn nghĩa trong đó. Tôi chú trọng vào việc phát triển định lực (Joriki) vì nó là một năng lực quan trọng, có thể giúp người ta thích ứng được với những hoàn cảnh thay đổi bên ngoài. Cuốn sách nói rõ rằng một người có định lực cao có thể hoàn toàn làm chủ được mình cũng như hoàn cảnh đời mình; bất cứ chuyện gì cũng không ảnh hưởng đến họ được. Tôi thực hành nhiều phương pháp khác nhau, từ việc nhịn ăn để kiềm chế thể xác, đến việc tẩy uế thân xác bằng nước lạnh. Vào mùa đông, dù tiết trời lạnh thế nào tôi cũng chỉ khoác trên mình một tấm áo mỏng. Khi thực hành nghi thức tẩy uế bằng nước lạnh (misogi), dù nước đã gần đóng thành băng tôi vẫn cố gắng chịu đựng, xối nước lên khắp người để tẩy uế những ô nhiễm đã bám vào thân thể tôi. Bất chấp mọi khó khăn cực nhọc, tôi kiên trì thực hành các nghi thức vì biết đường đạo là một hành trình rất gian nan, nếu không cố gắng, người ta không thể thành công.

    Trước cửa nhà tôi có một mảnh sân hẹp mà trẻ con lối xóm thường tụ tập chơi đùa. Hằng ngày mỗi khi thờ cúng, thực hành các nghi thức tẩy uế (O Harae) xong, tôi thường mang lễ vật như oản xôi chia cho lũ nhỏ trong xóm. Gia đình bên cạnh nhà tôi có nuôi một con chó nhỏ tên Koro. Con chó này cũng hay chầu chực trước nhà tôi để xin ăn. Ít lâu sau gia đình đó dọn đi nơi khác, bỏ con Koro lại. Con chó trung thành cứ chầu chực trước nhà chủ cũ, kêu lên những tiếng ảo não bi thương. Khi đói nó chạy qua bên nhà tôi để được cho ăn, nhưng ăn xong nó lại bỏ về trước cửa căn nhà cũ nằm rên rỉ. Một hôm không thấy nó đến như thường lệ, tôi kêu gọi mãi và hỏi lũ nhỏ trong xóm nhưng không ai biết con chó đã bỏ đi đâu. Vài hôm sau tôi đang tĩnh tọa thì nghe tiếng động và thấy con Koro ở đâu chạy vào ngoắc đuổi mừng rỡ. Tôi đưa tay bồng con chó vào lòng vuốt ve thì thấy trên cổ nó có một vết dao đâm rất sâu, chạy dài xuống bụng, dường như nó đã bị ai lột da, mổ thịt. Tôi thất thanh kêu lên: “Koro đã chết” và đột nhiên tỉnh lại. Thì ra trong lúc nhập định tôi đã nhìn thấy con Koro, có lẽ đã bị người ta bắt giết làm thịt. Vào lúc đó những con chó vô chủ, lang thang ngòai đường, bị bắt giết thịt không phải là một điều lạ. Hiển nhiên con Koro không ra ngoài số phận đó nhưng có lẽ nó nhớ đến ơn tôi nuôi nấng nên tìm đến báo tin. Tôi xúc động khóc lóc mất mấy ngày rồi mua hương hoa phẩm vật, tụng kinh siêu độ cho nó. Tôi tập trung định lực chân thành cầu nguyện và khi hoàn tất nghi thức cầu siêu, tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng con Koro đã thoát kiếp chó. Đây là một sự kiện lạ lùng, không hiểu sao tôi lại “cảm biết” được như thế. Dường như có một cái gì đã cho tôi biết mà tôi không thể giải thích nhưng tôi biết đó không phải là sự tưởng tượng hay tự kỷ ám thị, mà là một “cái biết” đến rất tự nhiên.

    Khoảng một tuần lễ sau, tôi đang tĩnh tọa thì thấy một người đàn ông lạ mặt ở đâu bước vào. Tôi biết cửa nhà đã khóa kỹ, người lạ không thể vào được trừ khi đó là kẻ gian. Lúc đó chúng tôi nghèo túng lắm, trong nhà chẳng có gì quí giá cả nên thay vì hốt hoảng, tôi tập trung định lực để đối phó. Có lẽ khả năng tập trung của tôi đã khá cao nên chỉ trong thoáng giây, tâm hồn tôi đã hết sức bình tỉnh. Tôi biết mình không ngủ mê hay gặp ảo giác mà thấy rõ đó là một người đàn ông trung niên, mặt mày sáng sủa, mặc kimono hiệu O-shima rất đắt tiền. Ông này đứng yên trước mặt tôi một lúc rồi lên tiếng:

    - Thưa bà, tôi là cha của Tamataro. Khi còn sống, tôi làm nghề cho vay nặng lãi. Cái nghiệp xấu này ám ảnh tâm thức tôi rất nhiều nên khi qua đời, tôi phải sống trong một cảnh giới tối tăm, nặng trọc. Lúc nào tôi cũng có cảm giác như đang ở trong một vũng bùn nhầy nhụa, muốn ngoi lên nhưng không sao ngoi lên được, càng cử động thì càng bị lún sâu xuống. Thưa bà, khi còn sống tôi chẳng làm điều gì quá xấu nhưng cũng chẳng làm điều gì tốt đẹp nên sau khi chết, thần thức cứ vật vờ trôi nổi trong cảnh giới bùn lầy nước đọng này mãi. May thay nhà tôi là người hiền lương, thường tụng kinh niệm Phật, hồi huớng công đức cho tôi. Hàng ngày tôi nghe được lời kinh của nhà tôi cầu nguyện nên bắt chước đọc theo, nhờ đó tôi hiểu được luật nhân quả và quyết tâm sám hối. Đến nay nghiệp xấu đã trả hết, tôi vừa thoát khỏi cái thế giới đen tối nhầy nhụa đó nên đến đây để nhờ bà chuyển lời cho nhà tôi rằng tôi sắp được siêu thoát lên cõi sáng. Chính nhờ công đức hồi hướng cao cả vô biên của nhà tôi mà tôi được thoát khổ. Tôi muốn nhắn nhà tôi rằng những món nợ người ta vay từ trước xin hãy bỏ qua, đừng tốn công đòi rồi gây phiền muộn cho người khác nữa. Tôi đã không công bình trong việc cho vay nặng lãi, tôi rất hối hận, xin hãy giúp cho tôi được yên tâm để siêu thoát.

    Tamataro là một trong những đứa nhỏ hay chơi đùa trước cửa nhà tôi. Cha nó đã qua đời từ nhiều năm nay, mẹ nó ở vậy nuôi con. Bà làm nghề may, chuyên lãnh hàng từ các tiệm buôn về nhà để may cắt. Mặc dù bận rộn như thế nhưng hàng ngày bà vẫn khuya sớm tụng kinh rất chân thành. Khi nghe tôi kể lại câu chuyện, bà gật đầu chùi nước mắt:

    - Quả đúng là chồng tôi rồi. Chồng tôi luôn luôn mặc áo kimono hiệu O-shima như vậy. Chồng tôi làm thương mại nên có tiền cho vay lấy lãi. Sau khi ông qua đời, tôi tìm được một rương chứa toàn giấy nợ chưa thanh toán. Xem xét kỹ, tôi thấy ông đã đòi một mức lời quá cao, thật không công bằng chút nào, do đó tuy còn giữ giấy nợ nhưng tôi vẫn ngần ngại không biết phải làm gì. Tôi là đàn bà chân yếu tay mềm, đâu biết đòi nợ ra sao. Chắc hẳn khi qua đời chồng tôi cũng lo lắng, bận tâm về việc này lắm nên mới không siêu thoát được như vậy, Nay nhờ bà cho biết thì tôi mang thùng giấy nợ đi đốt, để chồng tôi không còn phải bận tâm gì nữa.

    Tôi ngạc nhiên về kinh nghiệm lạ lùng nay nên viết thư báo cho lão sư. Trước khi nhận được giấy hồi âm thì một sự kiện lạ lùng nữa đã xảy ra. Một hôm tôi có linh tính rằng ngoài tôi và Ryochan, hình như trong nhà còn có sự hiện diện của một người thứ ba nào đó nữa. Vài hôm sau, đang tĩnh tọa, cái cảm giác đó lại nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tôi bèn tập trung định lực để quan sát thì thấy có một người đàn bà, vóc dáng gầy gò yếu ớt đang quanh quẩn trong nhà. Tuy tuổi không cao nhưng mặt bà đầy những vết nhăn, có lẽ vì quá ưu tư lo lắng. Bà nhìn tôi, miệng cứ mấp máy nửa như muốn nói, nửa lại sợ sệt không nói ra. Bà cứ quanh quẩn bên tôi nhưng mỗi khi tôi đến trước bàn thờ làm lễ thì bà lại biến mất. Dĩ nhiên tôi biết đó là một hồn ma nhưng tôi thấy nó không gây trở ngại gì cho nên tôi không quan tâm. Hôm sau trong lúc tĩnh tọa, tự nhiên tôi biết hồn ma đó không phải ai xa lạ mà chính là mẹ của Ryochan. Một lần nữa, cái cảm giác “biết” này làm tôi bối rối. Để kiểm chứng cái năng khiếu ấy, chiều hôm đó tôi hỏi Ryochan:

    - Này Ryochan, khi còn sống mẹ anh là người thế nào ? Sao không mấy khi anh nói gì về mẹ anh hết ?

    - Gia đình ta có bốn anh em, khi mẹ ta qua đời thì ta mới lên ba tuổi và đứa em nhỏ nhất mới được sáu tháng. Ta không biết gì nhiều về mẹ ta mà chỉ biết tên bà là Shigeko. Bà chết vì bị bệnh lao, năm đó bà mới ngoài hai mươi sáu tuổi...

    Tôi suýt kêu lên: “Quả đúng là mẹ của Ryochan rồi”. Một người mẹ qua đời khi con cái còn thơ dại như thế thì làm sao có thể siêu thoát được ! Chắc chắn bà đã lo lắng cho con cái nhiều lắm nên trông bà mới bơ phờ như vậy.


  3. #13
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts
    .

    Qua hôm sau, tôi nhận được thư hồi âm của lão sư. Trong thư ông viết vắn tắt:” Con hãy trở về đây ngay, ta chấp nhận cho con được phép tiếp tục học đạo với ta”. Thật khó có thể diễn tả được nỗi vui mừng của tôi. Những điều mong cầu ao ước đã trở thành sự thật. Khi trước lão sư không nhận tôi vì tôi không được phép của gia đình, nhưng hiện nay mọi việc đã đổi khác, ông sẵn sàng thâu nhận tôi vô điều kiện. Tôi sung sướng nhủ thầm: Lần này mọi việc sẽ tốt đẹp. Buổi chiều tôi ngồi tĩnh tọa rất lâu nhưng khi vừa xuất định tôi đã thấy người đàn bà đó đứng trước mặt tôi, vẻ mặt đầy căng thẳng, lo lắng. Có lẽ bà đã biết tôi quyết định rời bỏ Ryochan để lên đường học đạo. Tôi bèn lên tiếng an ủi: “Mẹ Shigeko, xin mẹ đừng quá lo lắng như vậy. Con đã quyết lên đường học đạo nhưng con hứa khi học xong sẽ trở lại săn sóc cho Ryochan. Mẹ cứ yên tâm, hiện nay Ryochan đã lớn khôn, đã trưởng thành, tự lo lấy mọi việc được rồi, mẹ không phải quá lo lắng cho anh ấy nữa. Bây giờ mẹ hãy quay về lo cho chính mình thì hơn”. Tôi nói một cách hết sức chân thành vì dĩ nhiên người ta không thể nói dối một hồn ma được, ở cõi bên kia người ta đọc rõ tư tưởng của nhau như mở một cuốn sách. Sau khi tôi nói xong, tự nhiên hồn ma biến mất, từ đó tôi không hề gặp lại bà nữa.

    Ít lâu sau, tôi lên đường trở lại Shikoku để học đạo với lão sư. Lần này tôi ra đi với một tâm trạng thoải mái, không vội vã hay luyến tiếc như lần trước. Trên xe lửa tôi có nghĩ đến Ryochan. Việc từ bỏ một đúa bé như Ryochan, lúc nào tôi cũng chỉ coi Ryochan như một đứa bé, khiến tôi tự hỏi về mối quan hệ giữa mình và hắn. Bất ngờ thay, trước mặt tôi bỗng hiện lên một hình ảnh rõ rệt như một cuốn phim được chiếu trên tường. Đó là một vùng đất hoang vu, cây cối mọc chằng chịt, trông như một khu rừng miền nhiệt đới. Tôi thấy một thanh niên, thân thể vạm vỡ, mặc quần áo may bằng da thú, đang khuân một cái chum lớn bằng đất nung vào một hang đá. Trong hang có một người đàn bà cũng mặc quần áo may bằng da thú, đang chăm chú nhìn người đàn ông đó. Người đàn bà đó chính là tôi, và người đàn ông kia chính là Ryochan. Thì ra chúng tôi đã là hai chị em trong tiền kiếp. Tự nhiên tôi “biết” được sự liên hệ giữa hai chúng tôi như thế nào. Hình ảnh này hiện ra thật rõ ràng, trong lúc tâm hồn tôi đang tĩnh lặng, bình yên. Tôi thản nhiên uống tiếp ly trà nóng trên tay, nghe tiếng gió rì rào ngoài cửa sổ và “biết” rằng sự ràng buộc giữa tôi và Ryochan đã chấm dứt. Quả thật tôi đã phát triển được một khả năng đặc biệt khác thường. Dĩ nhiên cái khả năng này chỉ là kết quả của nhiều năm tu tập về định lực (Joriki) nhưng lúc đó tôi không phân biệt được rằng cái khả năng thần thông này và sự giải thoát là hai việc hoàn toàn khác hẳn nhau.



    --------------


    Chương 4


    aaaaa
    Khi tôi trở lại Shikoku thì lão sư đã dọn vào một căn nhà to tát đẹp đẽ hơn căn nhà trước, sau nhà có vườn hoa, ao thả cá kiểng và một hòn non bộ khá lớn. Lão sư không quan tâm gì nhiều về việc thay đổi này, ông vẫn ung dung như thường lệ; nhưng vợ ông thì hãnh diện về căn nhà này lắm. Cũng phải nói thêm rằng vợ lão sư là một người đàn bà kiêu căng hợm hĩnh, hay khinh rẻ mọi người. Bà xuất thân trong một gia đình danh giá nhưng khi bà trưởng thành thì gia đình đã sa sút nhiều, chỉ còn dư âm tiếng tăm mà thôi. Tuy nhiên bà vẫn tự phụ về truyền thống thế gia vọng tộc này và luôn luôn coi thường những người xuất thân hèn kém hơn. Bà đối xử với lão sư một cách tệ bạc, thỉnh thoảng lại so sánh ông với những người khác địa vị cao hay giàu có hơn. Đối với học trò của lão sư, bà có thái độ lạnh nhạt thờ ơ, ít khi nói chuyện với ai. Một số học trò thường gọi lén bà là “bà Socrates” vì ngày xưa hiền triết Socrates cũng có một bà vợ rất hung dữ, nổi tiếng trong lịch sử Hy Lạp. Người ta nói rằng những bậc hiền triết thường không mấy khi gặp được những người vợ tương đắc, hễ ông thiên về tinh thần thì gặp bà vợ chỉ biết đến vật chất. Cũng có người cho rằng chính nhờ những bà vợ hung dữ như vậy mà người chồng mới thành công trong nghệ thuật hàm dưỡng, tự chủ và trở nên một bậc hiền triết. Khi xưa tôi nghĩ quan niệm đầu có lẽ đúng nhưng về sau, hiểu biết hơn, tôi thấy giả thuyết sau có lý hơn. Tôi xin kể vì lý do nào mà tôi lại thay đổi quan niệm như vậy.



    Lúc trước đến học đạo với lão sư, tôi chỉ là một trong mấy chục học trò chuyên tĩnh tọa và học các nghi thức của Thần Đạo. Vì bận rộn học hỏi nên ít khi chúng tôi có dịp tiếp xúc với bà vợ của lão sư. Thỉnh thoảng nếu có những va chạm nhỏ thì đám học trò chúng tôi cũng rán chịu đựng rồi xầm xì với nhau về sự khó tính của bà mà thôi. Tuy nhiên lần trở lại Shikoku này sự việc xảy ra khác hẳn. Khi gặp lại lão sư, tôi nghĩ ông sẽ phải hài lòng về công phu tu tập đầy tiến bộ của tôi trong mấy năm qua nhưng trái lại, ông tỏ ra thờ ơ, chẳng hỏi han gì đến chuyện đó hết. Ông chỉ vắn tắt cho biết hiện nay ông đang cần một người giúp việc trong nhà và muốn tôi làm việc đó.

    Ông nghiêm nghị:

    - Hiện nay ta rất bận, chưa thể dạy riêng cho con được, nhưng ta muốn con phụ giúp vợ ta lo việc trong nhà. Con phải tuyệt đối vâng lời vợ ta, như thế ta mới vui lòng.



    Thật không thể tưởng tượng được sự thất vọng của tôi lúc đó. Tôi lên đường trở lại Shikoku với hy vọng rằng mình sẽ được học riêng với lão sư. Tôi thầm ao ước rằng với công phu tu tập và quyền năng đặc biệt này, nếu tôi chẳng trở nên một trưởng môn đại đệ tử thì ít ra cũng được đãi ngộ xứng đáng. Chẳng bao giờ tôi lại nghĩ rằng mình biến thành một đứa ở lo quét dọn, cơm nước, hầu hạ mọi người trong nhà. Bà vợ lão sư sung sướng ra mặt khi tự nhiên có một đứa đầy tớ như tôi. Bà lập tức lên giọng sai bảo ngay để chứng tỏ quyền hành của bà:

    - Satomi, đi mua cho ta hai miếng đậu phụ chiên.

    - Thưa bà vâng.

    - Khoan đã, ta không thích đậu phụ chiên. Ngươi mua cho ta hai miếng đậu phụ tươi vậy.

    - Thưa vâng.

    - Khoan đã, lúc này trời lạnh ăn đậu phụ tươi không được ngon, ngươi mua cho ta hai miếng đậu phụ nấu với nấm đông cô.

    Khi trở về với bát đậu phụ nấu nấm thì bà lại đổi ý:

    - Bây giờ ta không thích ăn đậu phụ nấu như vậy nữa, mi chạy ra chợ đổi lấy hai miếng đậu phụ chiên.

  4. #14
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    Suốt ngày bà sai tôi làm những việc vớ vẩn như vậy. Đã thế bà luôn luôn đổi ý, lúc thế này khi thế khác. Hễ trái ý thì bà quát tháo om sòm:

    - Này Satomi, ngươi có điếc không đấy? Ta nói rõ như thế mà sao mi không hiểu?

    Hoặc có khi bà lên giọng kẻ cả:

    - Thật tội nghiệp, nghe nói mi xuất thân từ Hokkaido phải không? Thảo nào mi đần độn quá mất thôi. Những đứa quê mùa thất học như mi làm sao có thể khá được!

    Là người bướng bỉnh, ít khi tôi chịu nhường ai nhưng không hiểu sao lần này tôi lại chịu đựng được những cơn thịnh nộ tai ác của bà vợ lão sư. Tôi nghĩ nếu lão sư căn dặn tôi phải tuyệt đối vâng lệnh thì mình phải tuân lời, chắc hẳn ông phải có chủ ý gì, biết đâu ông chẳng thử thách công phu tu tập của tôi? Tôi nghĩ nếu như vậy thời gian thử thách này chỉ kéo dài khoảng vài tuần lễ hay một tháng là nhiều nhưng tôi đã lầm: nó tiếp tục từ tháng này qua tháng khác và từ năm này qua năm khác. Lúc đầu tôi nghĩ đó là thử thách nên cắn răng chịu đựng; về sau quen đi nên tôi có thể cười thầm trước những hành động vô lý của bà nhưng theo thời gian, tôi dần dần thấy mình trở nên một người thụ động, ngu si, đần độn không phản ứng trước những lời chửi mắng vô lý đó.

    - Này Satomi, con đần độn kia mau vào chùi cầu tiêu cho ta.

    - Thưa bà vâng.

    - Cái con ngu si kia, tại sao mi có thể để nhà bếp bẩn thỉu như vậy được. Mau lấy khăn chùi cho thật kỹ, ta không muốn thấy một hạt bụi nào dưới sàn nghe chưa?

    - Thưa bà vâng.

    Thời gian trôi nhanh, thoáng một cái, tôi đã trở thành đầy tớ cho gia đình lão sư được hơn bốn năm. Một hôm gia đình lão sư có khách đến thăm, tôi được lệnh luộc một nồi khoai mang lên. Trong lúc mọi người đang ăn uống ngon lành, tôi khoanh tay đứng hầu bên cạnh thì bà vợ lão sư, có lẽ vì thương hại tôi đói, lấy một miếng khoai luộc nhét luôn vào miệng cho tôi ăn. Tôi lung túng vì miếng khoai nóng, nửa muốn nhả ra nửa muốn nuốt vào nhưng không làm sao nuốt nổi. Tôi bối rối nhìn mọi người và có cảm tưởng mình là một con chó, được chủ thí cho miếng xương thừa. Tự nhiên cơn giận ở đâu bốc lên, tôi phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh, lủi thủi bỏ xuống nhà bếp. Chưa bao giờ tôi thấy chua xót, tủi nhục như lúc đó. Tôi cố gắng tập trung tư tưởng nhưng nước mắt cứ trào ra. Tôi tự nhủ: “Mày thật yếu đuối, mới có một chút như vậy mà đã không giữ được bình tĩnh, công phu tu tập của mày bỏ đi đâu? Bao năm khổ hạnh luyện tập định lực mà sao chỉ một đụng chạm nhỏ nhặt như vậy đã nổi cơn bất bình”. Làm sao tôi có thể sửa đổi được những tư tưởng oán giận này? Sau một lúc suy nghĩ, tôi lấy ra một tờ giấy trắng và bắt đầu đánh dấu vào đó mỗi khi tôi thấy mình không tự chủ được. Vài tháng sau, coi lại tờ giấy, tôi thấy nó dầy đặc những vết gạch ngang dọc, tôi biết tuy mình có thể thi hành mọi mệnh lệnh một cách nghiêm chỉnh nhưng bên trong tôi vẫn khó chịu, bất mãn. Tóm lại, tôi vẫn chưa thay đổi gì nhiều. Khả năng tự chủ của tôi chưa tiến bộ được bao nhiêu. Đau khổ cùng cực, tôi liền đổi phương pháp. Tôi tìm mua bức tranh Mona Lisa, vẽ một người đàn bà đang mỉm cười, treo trên đầu giường và tự nhủ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ta cũng nên mỉm cười, bất chấp tất cả. Mỗi khi bà vợ lão sư quát mắng, tôi định tâm, hít một hơi thật dài rồi mỉm cười. Phương pháp này giúp tôi lạc quan hơn, bình tĩnh hơn và tự chủ hơn. Từ đó bất kỳ chuyện gì xảy ra, tôi cũng cố gắng kiểm soát hơi thở rồi mỉm cười. Mỗi khi trong lòng tôi nổi lên một niệm khởi gì, tôi tập trung tư tưởng, nghĩ đến nụ cười bất diệt của nàng Mona Lisa.






    Mona Lisa

    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

  5. #15
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    aaaa
    Khi đặt bút viết những giòng này thì tôi đã là một lão ni ngoài sáu mươi tuổi. Hơn ba mươi năm đã trôi qua, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, bao tang thương biến đổi nhưng lúc nào tôi cũng cảm ơn bà vợ lão sư đã dạy cho tôi một bài học quí giá về sự tự chủ. Chính cái kỷ luật khắc nghiệt của bà đã hun đúc cho tôi một tinh thần điềm đạm khiến tôi trở nên một con người khác hẳn khi trước. Khi trở lại với lão sư, tôi đang tự hào về định lực của mình; tôi tưởng mình đã là một cái gì ghê gớm lắm. Nhờ sự đối xử khắc nghiệt của bà vợ lão sư mà khi rời Shikoku, tôi đã trở nên một người khiêm tốn hơn, hiểu biết hơn. Mỗi lần nghĩ đến bà, tôi tin rằng chính bà mới là người giúp lão sư trở nên một vị thầy giỏi. Biết đâu công phu tu tập để thản nhiên, điềm đạm của lão sư chẳng nhờ bà vợ một phần nào ? !

    Trước khi đi xa hơn, tôi xin nói qua về công phu tu tập của tôi. Kể từ khi tấm lòng chân thành của cha tôi cảm hóa được tôi thì tôi ý thức rất rõ về cái tính nết ích kỷ, xấu xa, kiêu ngạo của mình. Tôi cương quyết thay đổi, loại trừ những mầm mống tội lỗi này vì nó là những ô nhiễm đã ngăn cản tôi tìm hiểu chính mình. Qua sách vở thu thập được, tôi tin rằng người ta chỉ có thể tẩy uế những ô nhiễm này qua những phương pháp khổ hạnh, hành xác. Lúc bắt đầu thực hành, các tư tưởng xấu xa, ích kỷ không thể phát triển được vì tôi cố gắng kiểm soát thân và tâm kịch liệt. Tuy nhiên khi vừa ngưng tập luyện thì các thói xấu này trở lại ngay. Cuộc sống lúc đầu với Ryochan đã phản ảnh điều này một cách rõ rệt. Càng thực hành, tư tưởng ích kỷ, xấu xa càng bị dồn nén nên khi có dịp phát động, chúng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lúc đầu tôi nghĩ công phu tu tập của tôi chưa đủ nên tôi áp dụng thêm các phương pháp tẩy uế bằng nước lạnh (Misogi). Giữa mùa đông lạnh giá, tôi lấy nước mưa chứa trong các thùng lớn ngòai sân để tắm gội. Dĩ nhiên nước gần đóng thành băng rất lạnh nhưng tôi vẫn cương quyết xối lên khắp người. Tôi thầm mong nước lạnh làm cho đầu óc tôi trở nên tê cứng, khiến tôi rơi vào một trạng thái mê hoặc xuất thần (trance), các ý tưởng xấu xa ích kỷ kia cũng theo đó mà bị tiêu diệt. Tôi thực hành suốt mấy năm nhưng chẳng thấy mình rơi vào trạng thái mê hoặc xuất thần nào hết. Sau khi tắm rửa bằng nước lạnh, tôi xếp bằng trước sân nhà để tĩnh tọa, bất chấp thời tiết lạnh đến đâu. Việc áp dụng phương pháp này đã khiến cho tai, mũi, miệng của tôi bị trào máu. Hậu quả là tôi phải nằm liệt giường liệt chiếu mất mấy tháng. Tôi tưởng mình có thể chết và những ô nhiễm cũng tiêu theo nhưng rồi tôi lại hồi phục. Khi sức khỏe trở lại, tôi thấy lòng mình vẫn không thay đổi bao nhiêu. Qua năm sau, tôi lại tiếp tục thực tập như vậy một cách mãnh liệt hơn. Tôi tắm nước lạnh mỗi ngày hai lần và tĩnh tọa ngoài trời từ sáng đến tối. Hậu quả là tôi lại nằm liệt giường thêm mấy tháng nữa nhưng càng ngày khả năng tập trung định lực của tôi càng mạnh mẽ hơn trước.




    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

  6. #16
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    aaaa
    Chính nhờ tu tập chuyên về định lực (Joriki) này mà tôi vô tình phát triển được năng khiếu tiếp xúc với vong linh thuộc thế giới siêu hình. Để có thể thường xuyên giao thiệp với cõi này, người ta cần phải diệt bỏ cái ý thức về bản ngã; nghĩa là phải biết quên mình, không ý thức gì về mình nữa, thụ động hoàn toàn để cho một quyền năng nào đó sai khiến. Đó cũng là lý do tôi được yêu cầu trở nên một người đầy tớ, chịu mắng chửi suốt ngày để dẹp bỏ lòng tự ái, bản ngã cá nhân, chịu sự sai sử tuyệt đối của người khác. Đây là phương pháp huấn luyện những người có tính thụ cảm để trở nên một cô đồng (Miko) của Thần Đạo. Dĩ nhiên tôi không biết gì về việc này mà vẫn nghĩ mình trở lại Shikoku để tiếp tục học đạo với lão sư. Tôi tin rằng mình đang đi trên một con đường chân chính, tu tập để trở nên một người sống thật với lẽ đạo, sống một cách chính tâm thành ý, thành thật với mình và với mọi người. Tôi không ý thức gì về con đường mình đang theo đuổi. Tôi nghĩ mình đã tìm được một vị thầy rất giỏi, nếu triệt để tuân theo lời chỉ dẫn của thầy thì chắc chắn sẽ đến đích. Tôi chưa biết phân tích, suy gẫm, tìm hiểu xem điều mình đang thực hành có dẫn mình đến mục đích chân chính hay không. Tôi cũng không tìm hiểu gì thêm về lão sư xem ông muốn gì mà chỉ tuyệt đối làm theo sự yêu cầu của ông. Tôi tin rằng sự trung thành với một vị thầy là điều cần thiết mà không hề nghĩ rằng chính ông cũng đang lần mò đi tìm như tôi, và cũng không biết con đường đó sẽ đưa ông đến đâu.



    Cũng phải nói thêm rằng tuy theo Thần Đạo nhưng lão sư không phải là người chuyên đào tạo các cô đồng (Miko) mà chỉ là một học giả thích tìm tòi nghiên cứu mà thôi. Ông đã từng học thiền với Hòa thượng Nantembo tại Kyoto, học Thánh Kinh với các nhà truyền giáo Tây phương, tập võ nghệ với các võ sư người Trung Hoa. Ông rút tỉa các tinh hoa thâu tập được và tổng hợp thành một đường lối riêng của mình. Ông không ưa phương pháp tẩy uế ô nhiễm, thanh lọc bản thân của Thần đạo vì cho rằng nó quá bạo động và phũ phàng. Ông chủ trương chỉ cần tĩnh tọa, đặt trọng tâm vào hơi thở, người ta có thể tẩy sạch được các ô nhiễm. Ông nói:” Khi tĩnh tọa một cách chính tâm thành ý, người ta có thể giao cảm được với chư thần (Kami) và khi mình và chư thần không còn là hai thực thể cách biệt nữa, chỉ cần một hơi thở nhẹ cũng có thể quét sạch được mọi ô nhiễm rồi”. Việc hợp nhất với chư thần là mục đích tối hậu của Thần đạo, do đó việc giao cảm với chư thần qua một cô đồng (Miko) cũng là một cuộc thí nghiệm, để ông có dịp tìm hiểu thêm về con đường mà ông đang theo đuổi.



    Về phần tôi chi có một mục đích duy nhất là tìm ra con đường có thể giúp tôi thay đổi những thói hư tật xấu, những kiêu căng ngã mạn, vẫn tiềm ẩn trong tâm thức của tôi. Tôi tin rằng với quyền năng sẵn có, nếu được lão sư chỉ dạy thêm ít lâu, tôi có thể đạt được mục đích này. Điều bất ngờ là không những lão sư chẳng chỉ dậy gì riêng cho tôi mà lại chỉ định tôi thành một đầy tớ, phục vụ cho bà vợ của ông. Vào lúc đó lão sư vẫn tiếp tục thu nhận học trò, vẫn có những buổi thực tập hay tĩnh tọa hay giảng giải học thuyết Thần đạo nhưng tôi không được phép tham dự. Tại sao lão sư không dạy thêm cho tôi? Tại sao ông lại đối xử với tôi như vậy? Tại sao ông lại viết thư gọi tôi trở lại rồi không dạy dỗ gì hết? Lúc đầu tôi nghĩ rằng ông muốn thử thách tôi một thời gian nhưng càng ngày tôi càng thất vọng và nghĩ có lẽ ông đã quên tôi hoặc nhận thấy tôi không có khả năng đi xa hơn nên chỉ coi tôi như một người đầy tớ.


    .
    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

  7. #17
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    Lão sư thường cấp chứng chỉ cho học trò khi họ đạt được trình độ nào đó. Cho đến nay, tôi vẫn không biết những chứng chỉ đó dựa trên căn bản nào nhưng lúc đó, tôi tin lão sư đã có những công thức bí mật mà ông chỉ dạy riêng cho từng người. Dĩ nhiên những học trò được cấp chứng chỉ không bao giờ nói về những điều mà họ đã được truyền dạy. Hàng ngày nhìn những người đến tu học với ông một thời gian rồi được cấp phát chứng chỉ, tôi thèm khát vô cùng và thầm ao ước cũng có được một chứng chỉ như vậy. Morisan là một thiếu nữ trong số học trò của lão sư. Tuy mới theo học mấy năm mà cô đã được cấp chứng chỉ trình độ trung cấp. Cô thường dắt bạn bè đến đàm đạo với lão sư và luôn luôn được mời uống trà với ông ở vườn sau. Một hôm cô và một người bạn trẻ đến thăm lão sư gặp lúc ông đi vắng, tôi bèn mời họ ra vườn sau ngồi chờ. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để tôi tiếp xúc với những học trò đã được cấp chứng chỉ mà không có mặt lão sư tại đó, biết đâu họ chẳng thương tình tiết lộ cho tôi một vài điều gì chăng. Tôi dọn một mâm cơm thịnh soạn, khoanh tay đứng hầu, hy vọng có thể nghe lén được vài điều. Tôi chăm chú theo dõi từng cử chỉ của Morisan và thầm nghĩ:” Tại sao một người còn trẻ thế kia mà đã được vào trình độ trung cấp, chắc chắn cô ta phải sở hữu một kiến thức đặc biệt nào đó”. Sau cùng lòng khao khát mãnh liệt thúc đẩy tôi buột miệng:

    - Này chị Morisan, chân lý tối hậu là gì ?

    Người bạn của Morisan đang ăn bỗng quay qua nhìn tôi rồi nói:

    - Là khi ăn biết mình ăn, khi uống biết mình uống. Chỉ có thế thôi !

    Tuy nói thế nhưng anh ta vẫn nhồm nhoàm nhai thức ăn một cách thô bỉ, anh gắp lấy gắp để những thức ăn trên bàn như sợ ai giành mất. Ăn xong anh còn bưng cả bát canh húp một hơi dài khiến tôi thắc mắc không biết điều anh nói và việc anh làm có ăn nhập gì với nhau không. Morisan không trả lời, chỉ giữ thái độ im lặng trong suốt bữa ăn, Tôi khó chịu lắm vì nghĩ cô này không muốn chia sẻ gì với tôi, tự nhiên tôi nổi giận và nhủ thầm: “Nếu chúng mày không muốn chia sẻ với ta thì ta sẽ tìm cách khác”.



    Vài hôm sau tôi vào gặp lão sư :

    - Thưa thầy quả là một phép lạ. Thầy biết pho tượng Địa Tạng bằng gỗ đàn hương dựng ở cửa nghĩa địa không? Pho tượng này linh lắm, có lúc nó nhẹ như bông, có lúc nó lại nặng như tảng đá ngàn cân. Chính con đã đến đó xem, một chú tiểu nhỏ có thể khuân pho tượng đó lên để lau chùi một cách dễ dàng, nhưng một gã phu xe khỏe mạnh lại không sao nhấc nó lên nổi.

    Tôi nghĩ lão sư phải sốt sắng tìm hiểu về việc này, biết đâu ông lại chẳng buột miệng giải thích và nhờ đó, tôi tìm được cái chìa khóa bí mật mà ông vẫn cất giữ, chưa chịu truyền dạy. Tuy nhiên lão sư vẫn tỏ ra bình thản:

    - Thế ư? Kể cũng lạ đấy nhưng việc đó chẳng có gì quan trọng.

    Khi đó không hiểu sao tôi bạo miệng tự giải thích:

    - Phải chăng nặng hay nhẹ cũng chỉ là một quan niệm của tâm thức nhị nguyên trái với nguyên lý “Vạn vật đồng nhất thể” và “ Nhất bản tán vạn thù” ?

    Lão sư thản nhiên trả lời bằng một câu vô thưởng vô phạt:

    - Ừ.

    - Thế nhưng tại sao..?

    - Đừng thắc mắc nhiều. Cái đó chẳng có gì đáng quan tâm hết.

    Tôi thất vọng lắm nhưng không biết làm sao hơn nên đành tự an ủi rằng có lẽ thời cơ chưa đến, một ngày nào đó đủ duyên ông sẽ chỉ dạy cho tôi.

    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

  8. #18
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    Thời gian tiếp tục trôi nhưng tôi vẩn không được ông chỉ dạy thêm một điều gì hết. Tôi bèn đổi chiến thuật, ngày ngày cố ý đi ngang qua phòng lão sư, làm một cử chỉ gì đó khiến ông phải chú ý đến nhưng lão sư vẫn ung dung, điềm đạm, dường như ngọai cảnh không ảnh hưởng gì đến ông được. Tôi nghĩ thầm có lý nào mình hầu hạ gia đình ông suốt bao nhiêu năm, chịu đựng trăm điều khổ cực mà chẳng được đối xử tử tế chi hết. Sự thất vọng dần dần chuyển qua tuyệt vọng. Một hôm không thể chịu đựng được nữa, tôi đã vào quì trước mặt lão sư, cương quyết:

    - Thưa thầy, con là một đứa ngu độn không có một khả năng gì hết… Phải chăng một cục đất sét không bao giờ có thể trở nên vàng ròng được ?

    Lão sư thản nhiên trả lời:

    - Đúng vậy ! Làm sao một cục đất sét có thể trở thành vàng ròng được, nhưng nếu biết nhào nặn cẩn thận, một cục đất sét vẫn có thể trở nên một vật hữu dụng.

    Tôi đau khổ khóc òa lên:

    - Thưa thầy, một cục đất thì hữu dụng cái nỗi gì ?!

    - Không đâu, khi một vật vô dụng trở nên hữu dụng, nó sẽ là một bảo vật quí giá của thế gian.

    Lúc đó vì quá thất vọng nên tôi không hiểu được ý nghĩa lời khuyên của lão sư. Tôi lẩm bẩm:

    - “Phải rồi, đất là đất, vàng là vàng, ta chỉ là một cục đất tầm thường vô dụng, dù có cố gắng đến đâu ta cũng không thể trở nên vàng ròng được. Lão sư đã xác nhận như vậy thì cố gắng cách mấy ta cũng không thay đổi được gì. Phải chăng ta đã lầm khi có ý đi tìm một con đường lý tưởng ? Phải chăng chân lý chỉ là một ảo vọng, một trò chơi của những kẻ viển vông ?”



    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

  9. #19
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    Sau buổi tiếp xúc đó, sự kính trọng của tôi đối với lão sư đã giảm hẳn đi. Từ địa vị một vị thầy khả kính, lão sư đã biến thành một kẻ lợi dụng, một tên đạo đức giả, một người tồi tệ đáng khinh. Đúng vào lúc đó, tôi nhận được thư nhà gửi từ Hokkaido qua. Trong thư mẹ tôi cho biết, cha tôi đang lâm trọng bệnh sắp chết, căn nhà của chúng tôi bị hỏa hoạn cháy rụi, và đứa con gái của tôi đang chuẩn bị để lập gia đình. Mẹ tôi khẩn khoản gọi tôi trở về lo việc nhà, bà còn kèm theo một món tiền nhỏ làm lộ phí nữa. Tôi run rẩy đặt lá thư xuống bàn, nước mắt ràn rụa. Thì ra tôi đã xa nhà hơn mười sáu năm. Mười sáu năm dài đăng đẳng, mười sáu năm lang thang khắp các nẻo đường mà chẳng học hỏi được gì nên người hết. Tôi đã phụ lòng cha mẹ, chẳng làm gì cho ông bà có thể hãnh diện, và nay đến lúc cha tôi gần đất xa trời, tôi vẫn chưa báo đáp được công ơn dưỡng dục của ông trong muôn một. Liệu tôi còn mặt mũi nào trở về gặp mẹ cha ? Làm sao tôi có can đảm gặp lại đứa con mà tôi chẳng hề săn sóc ? Không những là một đứa con bất hiếu, tôi còn là một người mẹ thiếu bổn phận nữa. Làm sao một người tồi tệ như tôi dám trở về làng xưa ? Dĩ nhiên tôi không có can đảm trở về nhưng trong hoàn cảnh khốn cùng hiện nay, tôi cũng không thể tiếp tục sống ở đây, chờ đợi lão sữ dạy dỗ thêm gì nữa. Sau nhiều đêm mất ngủ, tôi quyết định từ bỏ việc học đạo, trở về Hokkaido, sống đời một dân quê ngu muội, chỉ biết cày sâu cuốc bẫm vậy.



    Chỉ sau khi quyết định khăn gói lên đường thì tôi mới khám phá rằng mình đã lầm và lầm rất lớn. Thật ra thời gian sống với gia đình lão sư không vô nghĩa như tôi tưởng nhưng là một sự rèn luyện âm thầm, một cách huấn luyện kỳ lạ của lão sư để phát triển khả năng tiếp xúc với cõi giới siêu hình của tôi. Biết tôi đã thực hành tĩnh tọa đến mức sở hữu được định lực, ông thấy không cần phải dạy các lý thuyết từ chương nữa. Đó là lý do ông không cho phép tôi tham dự các khóa tĩnh tọa, học hỏi lý thuyết như các học trò khác. Để diệt trừ bản ngã của tôi, ông đã lợi dụng bản tính khắc nghiệt, hung dữ của chính bà vợ mình, để huấn luyện tôi trở nên thụ động, tuyệt đối vâng lời. Ông đã tính toán kế hoạch một cách kỹ lưỡng mà tôi nào hay biết. Ông âm thầm thử thách tôi, quan sát thái độ của tôi đối với bà vợ của ông, mà tôi nào có hay. Cho đến khi tôi xin phép được trở về quê, ông mới yêu cầu tôi làm một vài việc nhỏ để trắc nghiệm và khi tôi làm tròn một cách dễ dàng, ông mới xác nhận trình độ của tôi. Ông cho biết tôi đã đạt đến trình độ rất cao của Thần đạo, đã trở nên một cô đồng (Miko) với quyền năng đặc biệt có thể tiếp xúc với chư thần theo ý muốn. Tôi hết sức ngỡ ngàng và vô cùng xúc động vì kết quả bất ngờ này. Trước khi đi xa hơn, tôi muốn nói qua vài nét về vai trò của cô đồng (Miko) trong Thần đạo.



    Cũng như mọi tôn giáo lớn. Thần đạo chia làm hai phần: Công truyền và Bí truyền. Phần Công truyền được tổ chức chặt chẽ qua kinh điển, sách vở, nghi thức, đền thờ và giáo sĩ. Phần Bí truyền không có tổ chức, không có sách vở, không có giáo sĩ, mà chỉ dựa trên sự tin tưởng và hiểu biết của một thiểu số. Đây là những phương pháp khẩu truyền bí mật được truyền riêng giữa thầy và trò. Danh từ cô đồng (Miko) vì thế cũng được chia làm hai loại: Các cô đồng thuộc nhóm Công truyền hay đồng đền (Shrine Miko) là những phụ nữ được huấn luyện để phụ tá cho các giáo sĩ trong các nghi thức cúng tế. Trong đền thờ Thần đạo, các cô đồng đền này phụ trách việc múa hát (kagura), dâng lễ vật, bày biện trang hoàng bàn thờ thần linh v.v.. Số người hành nghề này khá đông vì công việc không đòi hỏi gì nhiều. (Trong Thần đạo, giáo sĩ và cô đồng được coi là một nghề nghiệp có lương). Các cô đồng đền này được huấn luyện trong các khóa đào tạo, và khi tốt nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề. Trong khi đó, các cô đồng thuộc nhóm Bí truyền (Shamanie Miko) được huấn luyện trong vòng bí mật, bởi các vị thầy của Thần đạo, để trở nên một khí cụ trung gian giữa thần linh và người. Những cô đồng này sẽ tuân theo những nghi thức riêng để bước vào một trạng thái mê hoặc xuất thần, lúc đó chư thần (Kami) sẽ nhập vào họ, sử dụng xác thân của họ để tiếp xúc với thế giới loài người. Qua miệng của cô đồng, chư thần cho mọi người biết trước những điều hung cát, tiên đoán mùa màng, thời tiết, vận mệnh làng xã hay quốc gia, hoặc trả lời những câu hỏi có tính cách cá nhận của mọi người… Ngoài ra, những cô đồng này còn có thể yêu cầu các vong linh nhập vào họ để tiếp xúc với họ hàng thân quyến hoặc thực hành các nghi thức trừ tà, chữa bệnh v.v..


    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

  10. #20
    Avatar của Hoàng Mai
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    254
    Thanks
    241
    Thanked 163 Times in 98 Posts

    Từ xưa Thần đạo đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Phù Tang, trước khi ảnh hưởng của Trung hoa du nhập vào đây. Vào thời cổ sử, những người lãnh đạo các bộ tộc, các vị lãnh chúa đều có những cố vấn riêng là những cô đồng có khả năng giao thiệp với Thái Dương thần nữ (Amaterasu Omi Kami). Tại sao những người này thuộc phái nữ mà không thuộc phái nam? Người Nhật tin rằng đấng sáng tạo hay Thái Dương thần nữ thuộc phái nữ, và chỉ người nữ mới có thể tiếp xúc được với người nữ một cách tương đắc mà thôi; người nam thường thô lỗ, dễ làm phật hòng Thần nữ. Do đó trong Thần đạo, tu sĩ thường là phái nam nhưng một người đồng (Miko) luôn luôn phải thuộc phái nữ. Trong hai cuốn cổ thư của Thần đạo, Kojiki và Nihon Shoki, có ghi rõ việc Hoàng đế xứ Chuai lập đàn cầu khẩn chư thần để hỏi ý về việc ông muốn xuất quân đi đánh xứ Kumaso, nằm ở phía đông xứ Chuai. Chư thần, qua miệng cô đồng, cho biết ông phải tiến quân về phía tây thì mới gặt hái kết quả tốt đẹp. Hoàng đế xứ Chuai nổi giận chỉ trích cô đồng nói láo vì phía tây là biển cả, đâu có xứ nào để chinh phục. Ông ra lệnh chém đầu cô đồng rồi đi về phía đông, đánh xứ Kumaso. Vì hỗn láo, miệt thị chư thần, nên vừa mặc giáp trụ để cầm quân thì tự nhiên Hoàng đế hộc máu ra chết. Các tướng lãnh thấy vua bị chư thần vật chết, vội lập vua khác rồi ra lệnh cho quân sĩ đóng thuyền bè để đi về hướng tây, mặc dù lúc đó không ai biết hướng này có gì. Vượt biển được hai ngày, họ đặt chân lên một mảnh đất trù phú đúng như lời mách bảo của chư thần, họ chinh phục xứ này, đặt ách thống trị trong nhiều thế kỷ. Mảnh đất này chính là xứ Triều Tiên (Đại Hàn) ngày nay. Cuộc chinh phục Triều tiên đã đưa địa vị cô đồng (Miko) lên một mức rất cao và sau đó, hầu hết các quyết định quan trọng đều dựa trên lời mách bảo của chư thần qua miệng những cô đồng. Lịch sử Nhật bản đã chép rõ vai trò của các cô đồng này có khi vượt hẳn quyền hạn của các tướng lãnh hay có khi cả hoàng đế nữa.



    Đến triểu đại Taika, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa du nhập Nhật Bản mỗi ngày một mạnh; các quan văn, chịu ảnh hưởng Khổng giáo, không chấp nhận phái nữ (các cô đồng) xen vào quyền bính. Họ đòi cải tổ triều chính, rập khuôn theo tổ chức hành chánh của nhà Đường bên Tàu. Họ chủ trương hoàng đế (thiên tử) chính là một vị thần (Kami) rồi, mà đã là thần thì không cần phải hỏi ý kiến một vị thần linh nào hết. Họ dẹp bỏ các nghi thức cầu đảo trong triều đình, đưa Thần đạo xuống hàng tín ngưỡng bình dân, các cô đồng bị giới hạn tầm hoạt động, chỉ được thực hành các nghi thức cúng lễ trong đền thờ mà thôi. Từ đó khởi đầu cho vai trò của các cô đồng đến, chỉ biết múa hát, dâng lễ vật, thực hành nghi thức cúng tế chứ không có quyền năng. Dĩ nhiên vẫn có một số người cất giấu những phương pháp huấn luyện các cô đồng thời cổ, qua các phương pháp khẩu truyền nên truyền thống này vẫn được giữ gìn một cách giới hạn. Là nhà nghiên cứu, chủ truơng tìm về nguồn cội, lão sư đã tìm được các tài liệu về việc huấn luyện các cô đồng và ông đã áp dụng vào tôi.




    Rỡ rỡ mai vàng, đâu chẳng đạo sư !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •