DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 16/60 ĐầuĐầu ... 6141516171826 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 151 tới 160 của 597
  1. #151
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts



    87. Và mặc khác dù đối tượng này đáng ghê tởm, nó vẫn khơi dậy niềm hân hoan và hỉ lạc nơi hành giả do thấy được những lợi lạc của nó như sau: "Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát khỏi già chết" và do từ bỏ được sự bức bách của những triền cái nơi hành giả; cũng như một đống rác khơi dậy niềm hân hoan nơi người phu hốt rác vì thấy những lợi ích của nó, nghĩ rằng: "Bây giờ ta sẽ được một số tiền lương lớn", và như tác dụng của thuốc xổ đối với một người đau bụng.

    88. Bất tịnh này mặc dù có 10 loại, đều có cùng một đặc tính. Bởi vì mặc dù nó thuộc 10 thứ, tính chất của nó chỉ có, đó là trạng thái không sạch, hôi hám, đáng ghê tởm, lợm người. Và bất tịnh xuất hiện với tính chất này không những nơi một cái thây chết mà cả nơi một cái xác còn sống, như dưới mắt trưởng lão Mahà Tissa ở Cetiyapabbata (Ch. I, 55) và sa di thị giả của Trưởng lão Sangharakkhita trong khi chú ngắm nhìn vị vua cõi trên một thớt voi. Vì một cái xác sống cũng bất tịnh hệt như một cái xác chết, chỉ có một điều khác là tính bất tịnh không rõ rệt nơi một cái xác sống vì may được che dấu dưới những lớp trang sức.

    89. Ðây là bản chất của thân xác: nó là sự tích tụ của hơn 300 cái xương được nối lại với nhau bởi 180 khớp dính liền nhau nhờ 900 cái gân, trét, đầy khắp với 900 miếng thịt, được bọc bằng lớp da trong ẩm ướt, bao ngoài với lớp da ngoài có những lỗ rải rác đó đây, luôn luôn tiết ra, rỉ ra như một cái bình mỡ dầu trong đó cả một tập thể vì trùng cư trú, đó là cái nhà bịnh tật, nền tảng của những trạng thái đau khổ luôn luôn tiết ra từ 9 lỗ như một cái ung nhọt kinh niên; từ hai con mắt thì ghèn chảy, từ hai lỗ tai là thối tai, từ hai lỗ mũi là mũi nước, từ miệng là thức ăn, mật, đàm, máu, từ hai chỗ bài tiết bên dưới là phân và tiểu, và từ 99 ngàn lỗ chân lông tiết ra một thứ nước xúp bằng mồ hôi vô vị, với ruồi nhặng bu quanh. Cái thân xác này, nếu không được săn sóc bằng xỉa răng, súc miệng, gội đầu, tắm rửa, mặc lót bên trong, khoác y phục bên ngoài, thì xét về tính chất đáng tởm, một ông vua, cũng không khác gì người hốt rác.

    90. Nhưng nhờ đánh răng súc miệng và tất cả những việc tương tự, nhờ che dấu những bộ phận riêng tư dưới nhiều lớp vải, nhờ thoa ướp nó bằng những thứ hương hoa, rắc lên nó nhứng thứ hoa thơm mà nó được biến thành một trạng thái làm cho nó có thể được xem là "tôi" và "của tôi". Cứ thế đàn ông mà không nhận thức cái thực chất dơ bẩn của cơ thể được che đậy bằng trang sức mong manh. Trong ý nghĩa tối hậu, thật không có một chỗ nào trên thân xác dù nhỏ như hạt bụi, đáng kể mà tham đắm.

    91. Và khi có một mẫu nhỏ nào từ thân xác ấy rớt ra như tóc, lông, móng, răng, đàm, mũi nước, phân hay nước tiểu, thì người ta sẽ không dám động tới, mà còn cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã, ghê tởm. Nhưng khi những thứ ấy còn ở lại trong thân xác, thì mặc dù vẫn đáng ham muốn trường cữu, khả ái tự ngã.. Bởi vì bị trùm kín trong màn tối vô minh, bị nhuốm tham ái đối với tự ngã. Chúng giống như một con chồn già trông thấy một cái hoa đỏ đang còn trên cây rừng, mà thèm, vì nghĩ: "Ðây là miếng thịt, đây là một miếng thịt".

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #152
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts



    92.

    Xưa có con chồn già
    Thấy cây rừng trổ hoa
    Vội vàng chạy đến, nghĩ:
    Ðây thịt, cây sinh ra!
    Chồn ta nhai hoa rụng
    Chả thấy nước nôi gì,
    Tưởng thịt trên cây khác
    Thịt rụng có ngon chi
    Bậc trí không nghĩ rằng
    Chỉ phần rơi bất tịnh
    Mà còn quán bất tịnh
    Phần còn ở trong thân.

    Kẻ ngu không như vậy
    Xem thân là tốt lành
    Bị ác ma tóm bẩy
    Không thoát khỏi khổ hình
    Người trí khi thấy rõ
    Thân nầy thật thối tha
    Thì xác sống xác chết
    Ðều không chỗ đáng ưa.


    93. Vì điều này đã được nói như sau:

    Thân xác thối tha nầy
    Như phân như nhà xí
    Khó ưa với người trí
    Nhưng kẻ ngu say mê
    Như vết thương chín lỗ
    Bọc trong lớp áo da
    Rỉ bất tịnh mọi chỗ
    Uế khí, mùi bay xa
    Nếu những gì bên trong
    Bỗng tuôn hết ra ngoài
    Người ta sẽ cầm roi
    Ðuổi xua như chó, quạ.

    94. Bởi vậy, một tỳ kheo có khả năng nên nắm lấy tướng bất cứ chỗ nào cạnh bất tịnh hiển lộ, dù trong một cái thân xác còn sống hay nơi xác chết và vị ấy nên làm cho đề mục thiền định của mình đạt đến định.

    Chương VI này, mệnh danh "Bất tịnh kể như đề mục quán" trong luận về tu tập Định, trong Thanh tịnh đạo, được soạn ra vì mục đích làm cho những người lành hoan hỉ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #153
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    Chương VII

    Ðịnh: Sáu tùy niệm

    -ooOoo-


    1. Mười tùy niệm được liệt kê theo sau mười bất tịnh quán (Ch. III, 105)

    Niệm (Sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) vì nó khởi lên luôn luôn; hoặc niệm thích hợp (anurùpa) cho một thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tìn, niệm có mặt trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm.

    Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Pháp gọi là niệm Pháp. Ðây là danh từ chỉ niệm mà đối tượng là những đức tính đặc biệt của Pháp được khéo giảng.

    Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Tăng gọi là niệm Tăng. Ðây chỉ là danh tử có đối tượng là những đức đặc biệt của Tăng chúng, nghĩa là những tính như đi vào con đường chánh....

    Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ giới gọi là niệm giới. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đặc tính đặc biệt của giới không bị rách...

    Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bố thí gọi là niệm thí. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức đặc biệt của sự bố thí như rộng rãi...

    Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ chư thiên gọi là niệm thiên. Ðây là danh tử chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của niềm tin, có chư thiên làm chứng.

    Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ cái chết gọi là niệm tử. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là sự chấm dứt mạng căn.

    Thân hành niệm (kàya- gata- sati): niệm ấy đi đến (gata) cái thân vật chất (kàya) được phân tích thành tóc, v.v... Hoặc niệm đi vào trong thân, nên gọi là thân hành niệm. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là tướng của những thân phần gồm có tóc lông móng răng da v.v... (36 uế vật)

    Tùy niệm có cảm hứng hơi thở vào (ànàpàna) gọi là niệm hơi thở. Ðây là danh từ có đối tượng là tướng thở ra hơi thở vào.

    Tùy niệm có cảm hứng từ sự bình an gọi là niệm diệt. Ðây là danh từ chi niệm, có đối tượng là sự lắng dịu mọi đau khổ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #154
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    Niệm Phật

    2. Một thiền giả có niềm tin tuyệt đối, trước hết muốn tu tập tùy niệm về đấng Giác Ngộ, thì nên độc cư tại một trú xứ thích hợp và tưởng niệm đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, như sau:

    "Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ minh và hạnh, đấng thiện thệ, đấng hiểu rõ thế gian, bậc vô thượng đạo sư điều phục những người đáng điều phục, bậc thầy của chư thiên và loài người, Phật, Thế Tôn" (M. i 3; A. iii 285)

    3. Ðây là cách niệm: "Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài là A-la-hán, Ngài như vậy vì Ngài hoàn toàn giác ngộ.... Ngài như vậy vì Ngài là Thế Tôn".

    A-la-hán

    4. Trước tiên hành giả niệm "Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán (arahanta) hay hoàn tất, vì những lý do như sau: (1) vì sự xa xôi (àraka), (2) vì những kẻ thù (ari) và (3) những căm xe (ara) đã được phá huỷ (hata), (4) vì Ngài xứng đáng (araha) được tứ sự cúng dường, v.v... Và (5) vì không có những ác hạnh thầm kín (rahàbhàva).

    5. (1) Ngài hoàn toàn xa xôi, tách rời hẳn mọi cấu uế vì Ngài đã triệt hết những dấu vết của nhiễm ô nhờ chánh đạo do sự xa vời đó (àraka) Ngài được gọi là viên mãn (arahanta).

    Chúng ta gọi một người là "xa xôi" với cái gì người ấy hoàn toàn không có; bậc cứu thế cũng vậy không tỳ vết, nên đáng được gọi là đấng viên mãn (arahanta).

    6. Và những kẻ thù (ari) tức là những ô nhiễm, đều được huỷ diệt (hata) bởi đạo lộ, nên Ngài đã được gọi là người đã hoàn tất, xong việc (arahants).

    7. (3) Bánh xe luân hồi với trục làm bằng vô minh và khát ái đối với các cõi hữu, với căm xe gồm các hành, và vành xe là già chết được nối liền với chiếc xe ba cõi bằng cái càng xe làm bàng nguồn gốc các lậu hoặc (xem M. i, 55), đã được quay từ thời gian vô thuỷ. Tất cả những căm xe (ara) này đã bị Ngài huỷ hoại (hata) ở Bồ đề tràng, trong khi Ngài đừng vững với hai chân tinh tấn, trên đất giới, bằng tay tín Ngài sử dụng cái rìu tri kiến phá huỷ nghiệp - bởi vì những căm xe đã bị phá huỷ như vậy, nên Ngài được gọi arahanta, bậc A-la-hán.

    8. Một cách giải thích khác: chính là cái vòng vô thuỷ luân hồi đó được gọi là "Bánh xe luân hồi". Vô minh là trung tâm điểm của nó vì là căn để của sinh tử. Già chết là vành xe bởi vì nó là tận cùng của vô mình. Mười chi phần còn lại (trong mười hai nhân duyên) là căm xe, vì căn để của chúng là vô minh và tận cùng của nó là già chết.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #155
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    9. Ở đây, vô minh là không biết về khổ, và vô minh, trong dục giới, là một điều kiện (duyên) cho các hành ở cõi dục, vô minh trong sắc giới là một điều kiện cho các hành ở sắc giới. Vô minh trong vô sắc giới là một điều kiện cho hành ở vô sắc giới.

    10. Hành ở dục giới là điều kiện cho thức ở dục giới. Tương tự với sắc và vô sắc giới.

    11. Kết sanh thức ở dục giới là điều kiện cho danh sắc ở dục giới. Tương tự đối với Sắc giới. Ở vô sắc giới, thức là điều kiện cho danh (không có sắc) mà thôi.

    12. Danh sắc trong dục giới là điều kiện cho lục xứ (lục nhập) ở dục giới. Danh sắc ở sắc giới là điều kiện cho ba xứ ở sắc giới.

    13. Lục xứ ở dục giới là điều ki?n cho sáu xúc ở cõi dục. Ba xứ ở sắc giới là điều kiện cho ba xúc ở sắc giới. Ý căn (ý xứ) độc nhất ở vô sắc giới là điều kiện cho một loại xúc ở vô sắc giới.

    14. Sáu xúc ở dục giới là điều kiện cho sáu loại cảm giác ở dục giới (sáu thọ). Ba xúc ở sắc gi?i là duyên (điều kiện) cho ba thọ (cảm giác) ở đây. Một xúc ở vô sắc giới là duyên cho một thọ ở đấy.

    15. Sáu cõi ở dục giới là duyên cho sáu ái ở cõi dục. Ba thọ ở sắc giới là duyên cho ba cái ở sắc giới. Một thọ ở vô sắc giới là duyên cho một ái ở vô sắc giới.

    Khát ái trong các cõi là duyên cho thủ ở đấy. Thủ, v.v... lần lượt làm duyên cho hữu (sự trở thành)

    16. Hữu tạo điều kiên cho sanh, sanh tạo điều kiện cho già chết, Ví dụ, một người nghĩ: "Ta sẽ hưởng thụ các dục lạc", và với sự bám víu (thủ) vào các dục kể như điều kiện, vị ấy tà hạnh về thân, lời và ý. Do hoàn thành tà hạnh, vị ấy tái sinh trong một đoạ xứ. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy ở đấy là nghiệp - hữu (kamma-bhavakamma - process becoming), các uẩn phát sinh là sanh hữu (uppati-bhava - rebirth, process becoming), sự sinh ra các uẩn gọi là sanh, sự chín mùi của các uẩn gọi là giả, sự tan rã của uẩn là chết.

    17. Một người khác nghĩ: "Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú cõi trời" và song song với ý nghĩ, nó làm các thiện hạnh. Do hoàn tất các thiện hạnh vị ấy tái sanh ở cõi trời dục giới. Cái nghiệp làm nhâân cho sự tái sinh của nó tại đấy gọi là nghiệp hữu,... Như trên.

    18. Một người nữa lại nghĩ: "Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú của trời Phạm Thiên", và với dục thủ làm duyên (điều kiện), vị ấy tu tập từ, bi, hỉ, xả, do hoàn tất tu thiền định, vị ấy tái sinh ở Phạm thiên giới. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy ở đây là nghiệp hữu, v.v...

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #156
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    19. Nhưng một người khác lại nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ lạc thú cõi vô sắc" và do vậy tu tập những thiền chứng khởi đầu bằng không vô biên xứ. Do sự hoàn tất tu tập, vị ấy tái sanh tại một trong những cảnh giới ấy. Nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy tại đây là nghiệp hữu, các uẩn sinh ra do nghiệp ấy là sanh hữu, sự sanh ra các uẩn là sanh, sự chín mùi của uẩn là già, sự tan rã của uẩn là chết. (xem M. ii, 263)

    Các loại chấp thủ còn lại cũng như trên.

    20. Vậy, trí phân biệt các duyên như sau: "Trong hiện tại Vô minh là nhân, hành khởi lên do nhân vô minh và cả hai pháp này đều khởi lên có nhân. Trong quá khứ và vị lại cũng vậy". Ðó gọi là trí biết tương quan nhân quả của các pháp. Mọi mệnh đề khác (trong 12 nhân duyên) cần được hiểu chi tiết như trên,

    21. Vô minh và hành làm một nhóm; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ một nhóm. Nhóm thứ nhất là quá khứ, hai nhóm giữa là hiện tại; sanh và già chết là vị lai. Khi vô mình và hành được nói đến, thì ái thủ hữu cũng bao gồm trong đó, bởi thế năm pháp này là cái vòng nghiệp trong quá khứ. Năm pháp từ thức đến thọ là vòng nghiệp quả hay dị thục (Vipàka - Kamma - result) trong hiện tại. Và vì năm pháp từ thức đến thọ được mô tả dưới đề mục già chết, cho nên năm pháp này cũng là nghiệp quả trong tương lai. Như vậy chúng thành hai mươi. Ở đây có một dây nối giữa hành và thức, một giữa thọ và ái, và một giữa hữu và sanh (xem Ch. XVII, đ 288)

    22. Ðức Thế Tôn biết, thấy, hiểu và thâm nhập tất cả các khía cạnh của lý duyên sinh này với bốn nhóm ba thời hai mươi khía cạnh và ba dây nối.

    Như vậy, khi đức Thế Tôn, bằng cách biết đúng như thật những pháp này với trí biết tương quan của các pháp, thì Ngài trở nên vô dục đối với chúng. Khi tham dục nơi Ngài tàn tạ, khi Ngài được giải thoát, khi ấy ngài phá huỷ, hoàn toàn phá huỷ, vứt bỏ những cái căm của bánh xe sinh tử nói trên.

    Vì những căm xe đã bị phá huỷ, nên Ngài là một bậc đã hoàn tất công việc, gọi là arahanta, A-la-hán.

    Các căm xe sinh tử,
    Bị phá bằng gươm tuệ
    Do vậy đấng cứu thế
    Ðược gọi A-la-hán


    23. (4) Và Ngài xứng đáng (arahati) với những đồ cúng dường gồm y phục, v.v... Và với sự tôn trọng, vì chính Ngài là Ðấng đáng dâng cúng nhất. Vì khi một đấng toàn thiện ra đời, thì chư thiên và loài người không cung kính ai khác; Phạm thiên sahampati cúng dường Ngài một chuỗi ngọc lớn như núi Tu-di, và chư Thiên khác cũng cúng dường theo phương tiện của họ, cũng như những người như vua Bimbisàra xứ Magadha và vua xứ Kosala. Và sau khi đức Thế Tôn bát Niết bàn, vua Asoka bỏ tài sản ra đến số chín mươi sáu triệu để dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp khắp xứ Ấn. Bởi thế, với tất cả những ví dụ này, cần gì nói đến những sự cúng dường của những người khác? - Vì xứng đáng với vật cúng, nên Ngài được gọi là A-la-hán.

    Ngài là đấng cứu thế
    Ðáng cung kính cúng dường
    Cho nên bậc chiến thắng
    Ðược gọi là A-la-hán



    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #157
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    24. (5) Và Ngài lại không hành động như những kẻ ngu ở đời đời tự khoe thông minh nhưng lại làm ác, mà còn thầm sợ mang tiếng xấu. Vì Ngài không có ác hành bí mật (rahàva) nên gọi là A-la-hán.

    Bậc trí nhân cao cả
    Không ác hành bí mật
    Nên xứng với danh xưng
    Là bậc A-la-hán


    25. Tóm lại, về mọi phương diện,

    Bậc thánh xa uế nhiễm
    Chiến thắng giặc não phiền
    Các căm xe phá huỷ
    Xứng đáng được cúng dường
    Không ác hành bí mật
    Vì năm lý do này
    Ngài có thể tuyên bố
    Thành bậc A-la-hán


    Chánh Ðẳng Giác

    26. Ngài là Bậc Chánh đẳng giác (Sammà sambhuda) vì Ngài đã biết (Buddha) mọi sự vật một cách chân chánh (Sammà) và do tự Ngài (Sàmam). Quả vậy, mọi pháp đều được Ngài tự mình khám phá một cách chân chính, nghĩa là Ngài thắng tri các pháp cần phải thắng trí, tức bốn chân lý; liễu tri các pháp cần liễu tri, tức khổ đế, đoạn tận các pháp cần đoạn tận, tức tập đế, nguyên nhân khổ, chứng đắc các Pháp cần chứng đắc, tức diệt đế, tu tập các pháp cần tu tập, tức đạo đế.

    Cái gì cần được thắng tri đã
    Ðược thắng trí
    Cái gì cần được tu tập đã
    Ðược tu tập
    Cái gì cần được từ bỏ đã được từ bỏ
    Cho nên, này Bà-la-môn,
    Ta là Bậc giác ngộ, (Sn. 558)


    27. Ngoài ra, Ngài đã tự mình tìm ra các pháp một cách chính xác theo từng bước nột như sau: Con mắt là chân lý về Khổ, khát ái đi trước phát sanh ra nó, là chân lý về tập khởi của khổ, sự không sinh khởi cả hai pháp ấy là là chân lý về Diệt khổ; con dường hay sự hiểu rõ Diệt là chân lý về đạo diệt khổ. Ðối với thân khẩu ý cũng thế.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #158
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    28. Và các pháp sau đâ cũng gần được giải thích tương tự như trên.

    Sáu ngoại xứ khởi đầu
    Bằng sắc do mắt nhận biết,
    Sáu nhóm thức
    Khởi đầu nhận thức
    Sáu loại xúc
    Khởi đầu là nhãn xúc,
    Sáu loại thọ khởi đầu
    Là thọ do nhãn xúc sanh,
    Sáu loại tưởng về sắc,
    Sáu loại tư (volition: ý hành)
    Khởi đầu là tư duy về sắc
    Sáu loại khát ái khởi đầu là
    Khát ái đối với sắc pháp
    Sáu loại tầm khởi đầu
    Là tầm về sắc pháp
    Sáu loại tứ khởi đầu
    Là tứ về sắc pháp,
    Năm uẩn khởi đầu là sắc uẩn,
    Mười biến xứ (kasinas)
    Mười niệm,
    Ba mươi hai khía cạnh của
    Thân thể khởi đầu là tóc
    Mười hai xứ,
    Mười tám giới,
    Chín loại hữu
    Khởi đầu là dục hữu,
    Bồn thiền khởi đầu là sơ thiền,
    Bốn vô lượng khởi đầu
    Là tu tập từ tâm,
    Bốn vô sắc,


    Những chi phần của 12 nhân duyên ngược chiều từ già chết, và thuận chiều khởi từ vô minh. (Ch. XX. 9)

    29. Ðây là cách xây dựng một mệnh đề duy nhất trong mười hai nhân duyên, để ví dụ: Già chết là chân lý về khổ, sanh là chân lý về Tập, giải thoát cả hai là chân lý về Diệt khổ, con đường hay sự hiểu rõ khổ diệt, là chân lý về đạo diệt khổ.

    Bằng cách ấy Ngài đã tìm ra tuần, tự khám phá, triệt để khám phá vạn pháp một cách chính xác do tự mình, từng bước một.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #159
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    Minh Hạnh Túc

    30. Ngài có đủ minh trí và giới hạnh: Vijjàcaranasampanno ca sampanno. Ở đây, về minh: có ba loại minh và tám loại minh. Ba loại là như được nói trong kinh Bhayabhorava sutta (M. i, 22) và tám loại như được nói trong Ambattha sutta (D. i, 100), gồm sáu thắng trí với tuệ giác và thần thông của thân ý sanh.

    31. Hạnh: Cần được hiểu là mười lăm điều, nghĩa là: phòng hộ bằng giới, gìn giữ các căn môn, biết vừa đủ trong ăn uống, chánh niệm tỉnh giác, bảy thiện pháp (tín, tàm, quí, đa văn, tấn, niệm, tuệ) và bốn thiền thuộc sắc giới. Nhờ mười lăm pháp này mà một vị thánh đệ tử đi đến bất tử. Do đó, gọi là (giới) hạnh, như kinh nói: "ở đây này Mahànàma, một vị thánh đệ tử có giới" (M i, 355) v.v... Toàn bộ của giới hạnh này cần được hiểu như đã nói trong Trung Bộ kinh II.

    32. Ở đây, minh trí của đức Thế Tôn là sự viên mãn. Biến tri (Ps. i, 131), còn giới hạnh của Ngài là sự viên mãn tâm Ðại bi (Ps. i, 126). Nhờ biến tri, Ngài biết được cái gì là tốt cái gì là có hại cho các hữu tình, nhờ đai bi Ngài báo cho chúng biết để tránh điều hại, và khích lệ chúng làm điều lành. Ðấy là cách Ngài đầy đủ minh và hạnh, làm cho những đệ tử Ngài đi vào chánh đạo thay vì theo tà đạo như những đệ tử hành thân hoại thể của những ông thầy không có minh trí và giới hạnh đã làm.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #160
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    Thiện Thệ

    33. Ngài được gọi là đấng thiện thệ (Sugatà) (i) vì cách đi tốt đẹp (soobbana- gamana), (ii) vì đã đi đến một nơi tốt đẹp (sundaram thànam gatatt), (iii) vì đã đi một cách đúng pháp (Sammăàgatattà), và (iv) vì tuyên bố đúng (sammà gadattà).

    (i) Một cách đi (gamana) gọi là thệ (đi qua: gata), và cách đi của đấng Thế Tôn là tốt đẹp, thanh tịnh, không lỗi lầm, Cách đi đó là gì? là chánh đạo: vì nhờ cách đi đó mà Ngài đã "đi" không vướng mắc, trong chiều hướng an ổn, Như vậy, Ngài là Thiện thệ (sugatta) do cách đi tốt lành.

    (ii) Và ngài đã đến một nơi tốt lành (sunda ra), nghĩa là đến Niết bàn bất tử. Như thế, Ngài là đấng Thiện thệ vì đã đi một nơi tốt lành.

    34. (iii) Và Ngài đã đi (gata) một cách đích đáng (samma), đi không quay trở lại những cấu uế được từ bỏ ở mỗi hặng đường. Vì điều này đã được nói: "Ngài không trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ bỏ do Dự lưu đạo, nên Ngài là thiện thệ... Ngài không trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ bỏ nhờ A-la-hán đạo, như vậy, Ngài là thiện thệ" (Cựu sớ giải).

    Hoặc một cách giải thích khác: Ngài đã đi một cách đích đáng từ thuở phát tâm lập nguyện dưới chân đức Phật Nhiên Ðăng (Dipankara) cho đến khi giác ngộ, bằng cách hành động vì lợi lạc và hạnh phúc cho toàn thế giới, qua sự viên mãn ba mươi hai tướng hảo và qua sự đuổi theo con đường chánh không có chuyển hướng về một cực đoan nào, trong hai cực đoan là thường kiến và đoạn kiến, không theo hướng đam mê, dục lạc cũng không theo hướng ép xác khổ hạnh. Như vậy, Ngài là thiện thệ vì đã đi một cách đích đáng.

    35. (iv) Và Ngài công bố (Gadati) một cách chân chánh (sammà); Ngài đã chỉ nói lên lời đáng nói tại nơi chỗ thích đáng. Như vậy, ngài là thiện thệ vì tuyên bố chính đáng.

    Ðây là một bản kinh xác nhận điều này: "Bất cứ lời nào đức Như lai biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, làm người khác buồn khổ không thích ý, Như Lai không nói lời ấy. Bất cứ lời nào Như Lai biết là thật và đúng, nhưng đưa đến tai hại, làm kẻ khác buồn không thích, lời ấy Như lai không nói. Bất cứ lời nào Như Lai biết thật và đúng, đưa đến lợi ích nhưng khó nghe và làm người khác không thích đón nhận, lời như vậy Như lai biết thời để nói ra. Lời nói nào Như Lai biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, nhưng dễ nghe và người khác ưa thích, lời ấy Như Lai không nói. Và lời nào đức Như Lai biết là thật và đúng, nhưng có hại, thì mặc dù vui tai và làm kẻ khác ưa thích, lời ấy Như Lai không nói. Lời nào Như Lai biết là đúng, thật, đưa đến lợi ích, dễ nghe, làm kẻ khác ưa thích, lời ấy Như Lai biết thời để nói lên. (M. i, 395) vậy, Ngài là Thiện thệ vì tuyên bố chính đáng.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Bước Đầu Học Phật - Thích Thanh Từ
    Gửi bởi hoamacco trong mục Giáo lý Nhân Thiên Thừa
    Trả lời: 14
    Bài cuối: 08-22-2015, 10:17 AM
  2. Bước Đầu Học Phật - Thích Thanh Từ
    Gửi bởi hoamacco trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-14-2015, 06:32 PM
  3. Mục Liên Thanh Đề
    Gửi bởi trantu trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 07-31-2015, 09:34 PM
  4. Mục Liên _ Thanh Đề
    Gửi bởi sonha trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 2
    Bài cuối: 07-21-2015, 09:25 PM
  5. Chào Chú Chiếu Thanh
    Gửi bởi minh thức trong mục Nói Chuyện Riêng
    Trả lời: 2
    Bài cuối: 07-04-2015, 11:09 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •