DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 16/20 ĐầuĐầu ... 61415161718 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 151 tới 160 của 191
  1. #151
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 4 Octobre 1936 – 19-8-â.l.

    Chỉ trà điểm tâm rồi, 8 giờ mượn áo của Méchen mặc, sắm sửa như bực đại nhơn Tây-tạng đặng đi yết kiến Quốc Vương cầu Pháp. Tám giờ rưỡi cùng nội bọn Samdhen làm đầu, đi đến Thơ ký Lama Quốc gia, đợi một chập, đoạn người cho Lại quan dẫn lộ lại Ngự điện, đợi chập lâu, quan Lama hầu cận xuống cho hay rằng : Lịnh cho yết kiến. Huynh đệ đồng thượng ngự điện, lễ yết như hai lần trước. Bần đạo dưng anh lạc, Quốc Vương thủ hữu ma đầu rồi ban niệt, đoạn quan mời lui xuống phòng trà. Quốc vương cho Samdhen ở lại chầu tâu mọi việc. Chập lâu Samdhen xuống điện, mặt mày coi hớn hở, nội bọn ra đi lại Quốc gia thơ phòng đội. Samdhen rằng : Đợi lấy Passeport của bần-đạo, Quốc vương nhận ấn rồi sẽ phát lạc. Còn sự cầu Pháp danh nơi Quốc vương Lama rồi cũng sẽ có ngự bút ban lạc. Về ăn ngọ sơ sài bột và cải củ bào cà-ri, bần đạo nấu nhiều hộ nội bọn. Chiều Samdhen đi lấy giấy tờ về, Passeport đã ghi và ấn Quốc Vương trao cho bần đạo : Pháp danh : Thubten-Osall. Nay huỷnh đã đặng sắc Quốc Vương phong Lama-quan-chức kiêm vụ Phật sự tại Phật-đà-gia, bần đạo cũng mừng giùm cho huỷnh tùy ý muốn nay đặng như nguyện. Ba huynh đệ họ Isess, Issê và Choundouss mua bánh và lạc làm lễ mừng Tân quan dưng anh lạc. Đoạn Samdhen đáp lễ ít hồ xăng cho ba huỷnh, vui vầy cùng nhau. Bần đạo và Samdhen đàm đạo (sau khi tụng niệm tối rồi), bàn luận sự khi tới Phật-đà-gia. Bần đạo rằng : Nay huynh đã đặng phong chức Lama kiêm vụ Phật-đà-gia Phật sự cho đi khắp xứ có Phật đạo hành phước Đàn na, nay vưng lệnh đến Phật-đà-gia tấn vụ Phật sự lo lập nhà thiền tại đó, vậy phải ở lâu, chẳng phải năm, bảy tháng một năm mà rồi, ít nữa ba năm bốn năm mới rồi phận sự công quả. Vậy chẳng nên ở nhà hội Đại-bồ-đề, phải làm theo kiểu Tây-tạng Lama quan cho khỏi tồi tệ, khỏi hổ, phải sắm một cái nhà vải bố, y kiểu Lama quan, khi đến Calcutta thì mướn may hai cái, một cái cho huynh, một cái cho Lại quan giúp sự và chỗ nấu ăn cũng trong đó. Vậy tiện bề cho huynh ăn ở bao lâu cũng đặng khỏi xin phép chìu lụy hội Đại-bồ-đề và cũng ra vẻ nhà Lama quan xứ Tây-tạng. Nghe qua huỷnh vui lòng hết sức và cám ơn ý tứ bần đạo và nói rằng : Thầy lớn tuổi trí hóa đầy đủ ngó xa hiểu nhiều, lời bàn luận rất đáng, tới khuya huynh đệ nghỉ.
    Có hỏi về Ngọc Phật đức Giabô, bảo về giao cho giáo sư, vì người đã có lập tháp sẵn rồi. . . Lạ quá.


    Ngày 5 Octobre 1936 – 20-8-â.l.

    Sáng điểm tâm bánh của Samdhen hộ hôm qua, rồi lo đi chùa cúng dường và xưng Pháp danh lễ bái bố cáo nơi các điện : “Đệ tử Việt-nam Bí-sô Pháp-danh Thích-tùng-huệ, đến Tây-tạng đã bá nhựt, cầu Pháp danh nơi Đại Thượng tọa Lama Quốc Vương, ngài ngự ý cho Pháp-danh là : Thubten Osall Lama (nghĩa là : Thubten là tên của đức Tả-lê Lama Thái-thượng-hoàng đã băng. Thubten là vòng cứng bền chắc Kim-cang. Còn chữ Osall là : ánh sáng mặt trời, tên của đương kim Quốc Vương Lama, nên bần đạo biết là : Huệ-nhựt). Nay đi chùa lễ bái và bố cáo cho chư Bồ-tát tại tự Thinh-văn thánh hiền cập Lịch đại Tổ-sư đẳng đồng ủng hộ.”

    Cúng dường rồi về, ghé tiệm bánh mua 5 trăng nga, ra quán mua nho khô và chà là khô 2 trăng nga, đậu phộng rang 1 trăng nga, sữa khô và bonbon đường 2 trăng nga. Về nhà mượn Isess đi mua một bình lạc 2 trăng nga và 1 trăng nga đường cộng là : 13 trăng nga 8A.2P, đoạn gói 2R và 1 săng, một sợi anh lạc, khi Samdhen đi lại dinh Thừa tướng về, bèn bày lễ mừng tân quan, huỷnh vui lòng và nói : Tôi cùng thầy là huynh đệ, lễ vật long trọng quá như vầy, thật lạ quá. Bần đạo rằng : tuy khác nước mà đồng đạo, lại cùng nhau sáu, bảy tháng trời chen vai, hiệp mặt ăn ở cùng nhau, thương nhau như ruột thịt, nay huynh đặng phong quan, bần đạo mừng, ấy là tốt huynh là tốt tôi, xấu huynh là xấu tôi, vậy chẳng phải lễ vật là trọng, chỉ hưởng tấm lòng của bần đạo là đạo bạn cùng nhau. Huỷnh nghe qua rưng nước mắt, vui cười…

    Đoạn 11 giờ ăn ngọ bột với cà-ri cải bắp, khoai lang. Hai giờ huynh Samdhen đáp lễ lại bằng trà sữa, vui vẻ đàm đạo. Bốn giờ cùng huỷnh dạo phường ghé tiệm quen của huỷnh, coi tay giùm cô chủ tiệm. Thương ôi ! gia đạo nhiều sự phiền não, tình nghĩa lợt lạt . . . . Cô hỏi vậy phải làm sao ?. . . . Bần đạo chẳng hứa chi hết, chỉ bảo cúng dường cầu vái nơi chùa. Về. . . . . Tối lại y lệ. . .

    Om Mani Padme Hum !

  2. #152
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 4 Octobre 1936 – 19-8-â.l.

    Chỉ trà điểm tâm rồi, 8 giờ mượn áo của Méchen mặc, sắm sửa như bực đại nhơn Tây-tạng đặng đi yết kiến Quốc Vương cầu Pháp. Tám giờ rưỡi cùng nội bọn Samdhen làm đầu, đi đến Thơ ký Lama Quốc gia, đợi một chập, đoạn người cho Lại quan dẫn lộ lại Ngự điện, đợi chập lâu, quan Lama hầu cận xuống cho hay rằng : Lịnh cho yết kiến. Huynh đệ đồng thượng ngự điện, lễ yết như hai lần trước. Bần đạo dưng anh lạc, Quốc Vương thủ hữu ma đầu rồi ban niệt, đoạn quan mời lui xuống phòng trà. Quốc vương cho Samdhen ở lại chầu tâu mọi việc. Chập lâu Samdhen xuống điện, mặt mày coi hớn hở, nội bọn ra đi lại Quốc gia thơ phòng đội. Samdhen rằng : Đợi lấy Passeport của bần-đạo, Quốc vương nhận ấn rồi sẽ phát lạc. Còn sự cầu Pháp danh nơi Quốc vương Lama rồi cũng sẽ có ngự bút ban lạc. Về ăn ngọ sơ sài bột và cải củ bào cà-ri, bần đạo nấu nhiều hộ nội bọn. Chiều Samdhen đi lấy giấy tờ về, Passeport đã ghi và ấn Quốc Vương trao cho bần đạo : Pháp danh : Thubten-Osall. Nay huỷnh đã đặng sắc Quốc Vương phong Lama-quan-chức kiêm vụ Phật sự tại Phật-đà-gia, bần đạo cũng mừng giùm cho huỷnh tùy ý muốn nay đặng như nguyện. Ba huynh đệ họ Isess, Issê và Choundouss mua bánh và lạc làm lễ mừng Tân quan dưng anh lạc. Đoạn Samdhen đáp lễ ít hồ xăng cho ba huỷnh, vui vầy cùng nhau. Bần đạo và Samdhen đàm đạo (sau khi tụng niệm tối rồi), bàn luận sự khi tới Phật-đà-gia. Bần đạo rằng : Nay huynh đã đặng phong chức Lama kiêm vụ Phật-đà-gia Phật sự cho đi khắp xứ có Phật đạo hành phước Đàn na, nay vưng lệnh đến Phật-đà-gia tấn vụ Phật sự lo lập nhà thiền tại đó, vậy phải ở lâu, chẳng phải năm, bảy tháng một năm mà rồi, ít nữa ba năm bốn năm mới rồi phận sự công quả. Vậy chẳng nên ở nhà hội Đại-bồ-đề, phải làm theo kiểu Tây-tạng Lama quan cho khỏi tồi tệ, khỏi hổ, phải sắm một cái nhà vải bố, y kiểu Lama quan, khi đến Calcutta thì mướn may hai cái, một cái cho huynh, một cái cho Lại quan giúp sự và chỗ nấu ăn cũng trong đó. Vậy tiện bề cho huynh ăn ở bao lâu cũng đặng khỏi xin phép chìu lụy hội Đại-bồ-đề và cũng ra vẻ nhà Lama quan xứ Tây-tạng. Nghe qua huỷnh vui lòng hết sức và cám ơn ý tứ bần đạo và nói rằng : Thầy lớn tuổi trí hóa đầy đủ ngó xa hiểu nhiều, lời bàn luận rất đáng, tới khuya huynh đệ nghỉ.
    Có hỏi về Ngọc Phật đức Giabô, bảo về giao cho giáo sư, vì người đã có lập tháp sẵn rồi. . . Lạ quá.


    Ngày 5 Octobre 1936 – 20-8-â.l.

    Sáng điểm tâm bánh của Samdhen hộ hôm qua, rồi lo đi chùa cúng dường và xưng Pháp danh lễ bái bố cáo nơi các điện : “Đệ tử Việt-nam Bí-sô Pháp-danh Thích-tùng-huệ, đến Tây-tạng đã bá nhựt, cầu Pháp danh nơi Đại Thượng tọa Lama Quốc Vương, ngài ngự ý cho Pháp-danh là : Thubten Osall Lama (nghĩa là : Thubten là tên của đức Tả-lê Lama Thái-thượng-hoàng đã băng. Thubten là vòng cứng bền chắc Kim-cang. Còn chữ Osall là : ánh sáng mặt trời, tên của đương kim Quốc Vương Lama, nên bần đạo biết là : Huệ-nhựt). Nay đi chùa lễ bái và bố cáo cho chư Bồ-tát tại tự Thinh-văn thánh hiền cập Lịch đại Tổ-sư đẳng đồng ủng hộ.”

    Cúng dường rồi về, ghé tiệm bánh mua 5 trăng nga, ra quán mua nho khô và chà là khô 2 trăng nga, đậu phộng rang 1 trăng nga, sữa khô và bonbon đường 2 trăng nga. Về nhà mượn Isess đi mua một bình lạc 2 trăng nga và 1 trăng nga đường cộng là : 13 trăng nga 8A.2P, đoạn gói 2R và 1 săng, một sợi anh lạc, khi Samdhen đi lại dinh Thừa tướng về, bèn bày lễ mừng tân quan, huỷnh vui lòng và nói : Tôi cùng thầy là huynh đệ, lễ vật long trọng quá như vầy, thật lạ quá. Bần đạo rằng : tuy khác nước mà đồng đạo, lại cùng nhau sáu, bảy tháng trời chen vai, hiệp mặt ăn ở cùng nhau, thương nhau như ruột thịt, nay huynh đặng phong quan, bần đạo mừng, ấy là tốt huynh là tốt tôi, xấu huynh là xấu tôi, vậy chẳng phải lễ vật là trọng, chỉ hưởng tấm lòng của bần đạo là đạo bạn cùng nhau. Huỷnh nghe qua rưng nước mắt, vui cười…

    Đoạn 11 giờ ăn ngọ bột với cà-ri cải bắp, khoai lang. Hai giờ huynh Samdhen đáp lễ lại bằng trà sữa, vui vẻ đàm đạo. Bốn giờ cùng huỷnh dạo phường ghé tiệm quen của huỷnh, coi tay giùm cô chủ tiệm. Thương ôi ! gia đạo nhiều sự phiền não, tình nghĩa lợt lạt . . . . Cô hỏi vậy phải làm sao ?. . . . Bần đạo chẳng hứa chi hết, chỉ bảo cúng dường cầu vái nơi chùa. Về. . . . . Tối lại y lệ. . .

    Om Mani Padme Hum !

  3. #153
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 6 Octobre 1936 – 21-8-â.l.

    Điểm tâm rồi, đồng đi lên khúc đường xa thành 1 km, đặng tỏ lòng tiễn hành đức Quốc Vương, ngày nay di giá đi hành hương nơi chùa Đại tự Samgiass đi bốn ngày đường mới tới. Long giá sẽ ngự tại đó một tháng. Đến khúc đường gần đồng trống thì đã có toán binh bộ và pháo thủ, nhạc binh đã dàn cận lộ, dựng đại kỳ Tibet ba cây, hầu đóng tiễn hành, các quan mặc triều phục hầu đóng từ chặng, từ nhỏ tới lớn, thứ lớp dàn hầu, có hai vị Quan binh anglais và vị Consul(1) tàu cũng có đi dự cuộc tiễn hành. Các quan lớn đều đi xa cách thành bốn, năm cây số ngàn, đóng trại hầu, đóng tiễn lễ, còn quan nhỏ thì phân giai cấp từ đền vua cho tới chỗ Đại-thần. Chín giờ Long kiệu đi ngang toán binh, bèn dựng cờ nổi nhạc chào đưa. Samdhen lén chụp hình long giá hai lần. Về tới nhà 9 giờ 30. Ngọ 11 giờ bột với cải xào sơ sịa nửa sống nửa chín, vì đầu bếp gấp nấu trà nên bần đạo nấu sơ cho người nấu. Samdhen dòm biết, rầy đầu bếp sao hối gấp bần đạo, làm cho đồ ăn còn sống, bần đạo nói : dùng cũng đặng, nhưng đầu bếp là kẻ tiểu nhơn trở hờn Samdhen và bần đạo, song bần đạo vẫn vui lòng…… Chiều, sẵn Samdhen gởi thơ nên cũng viết một cái thơ gởi về Nam-Việt, thuật sơ sự trải qua trong ba tháng trời tại thành Lhassa. Tối nghỉ khỏe.


    Ngày 7 Octobre 1936 – 22-8-â.l.

    Trà điểm tâm, 9 giờ rưỡi đi chợ mua một lọn bún 1 trăng nga, bánh 1 trăng nga, ớt 1 trăng nga, 2 trăng nga khoai. Về xào cải ăn ngọ bột. Từ giờ nầy không dùng trà Tây-tạng, ý muốn tập cho quen trở lại như cũ và thừa dịp bình phục Isess. Samdhen bảo đừng ăn cải bắp vì tháng nầy ăn hàng bông thì bịnh. Bần đạo rằng : tôi ăn quen rồi không sao.

    Tiếp điển :

    Coi ý nhà ngươi quên tên tín-nữ giá phu đã nói trước, nên u ơ suy nghĩ hoài. Người trung, trắng trẻo, có con trai bỏ vợ, hai gái có chồng ngoại bang bạch hầu. Ba mẹ con sẽ là đệ tử ruột của ngươi, do tiền kiếp ngươi đã có độ ngũ giái. Người mẹ sẽ đắc quả cực-lạc, nhờ pháp môn ngươi phú . . . . . . .

    Om Mani Padme Hum !

  4. #154
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 8 Octobre 1936 – 23-8-â.l.

    Trà sữa điểm tâm, 11 giờ ngọ bột với cải bắp xào. Samdhen mất porte feuille, nghi cho chú nhỏ (Phon) mới ở. Issê và Isess đi kiếm chú nhỏ, bắt đặng đem về bèn thú tội trả bóp, xài hết 1 trăng nga 1 yogăng. Isess đánh vài roi da. Samdhen bảo cột thúc-ké(1) phạt một đêm. Issê bèn thộp ngực đem đi cột, vợ đầu bếp xin đuổi đi cho rồi. Chiều đi dạo phường mua 1 trăng nga 1 kama bột cà-ri, một cục kẹo Tây-tạng 1 kama. Về lo tụng niệm.

    Tiếp điển :

    Thơ sanh con bạn thông gia, rán độ cả chị em. Tiền kiếp phá Phật pháp vì tà đạo bị nghiệp yểu tử. Chị cũng sẽ qua nghiệp, em sẽ nên đạo, nhưng phải khéo dạy dỗ, ngã mạn vì tà đạo, nên đạo khỏi yểu tử. Lòng tà còn nhiều, sám hối một năm thì hết. Sau khi về nước rồi, chùa sẽ tới. Rán độ, đừng thối chí . . . . . . Trị tà . . . . . . y vậy . . . . . . . . . . . . . . . . . .


    Ngày 9 Octobre 1936 – 24-8-â.l.

    Trà sữa điểm tâm. Samdhen hỏi sao không dùng trà Tây-tạng, trả lời rằng : hai thứ trà đau bụng, hai ngày rày không dùng nghe êm ả. Xuôi việc. Mười một giờ ngọ bột, cải xào 1 giờ có hai huynh Lađặt đến lễ mừng Samdhen, có tặng bần đạo một sợi anh lạc, mừng cho bần đạo đặng Đại đức Lama Quốc Vương cho Pháp danh, rằng : Thuở nay chưa có chư Lama nào đặng Quốc Vương Lama cho pháp danh cả, chỉ có cầu pháp nơi các Thượng-tọa các chùa mà thôi, không ai dám đến cầu pháp nơi đức Phật nối vị Quốc Vương đâu, chỉ mới thấy một lần thứ nhất mà Quốc Vương cho Pháp-danh thầy, anh em tôi lấy làm mừng cho thầy. Từ ngày đặng Pháp danh ấy, Samdhen khoe cùng, ai nấy nghe cũng lấy làm lạ và mừng giùm.

    Chiều 3 giờ lo nấu cơm đãi bốn huynh khách. Isess bảo Issê hỏi bột kosali là bột ớt của bần-đạo. Samdhen nghe bèn rầy, các người cứ đồ của Guơlông hỏi hoài, xấu quá. Bởi Samdhen thường thấy hoài, hỏi vật nầy vật kia luôn luôn. Mà bần đạo chẳng hề hỏi cậy họ món chi cả. Samdhen có tánh khá, nhẹ ý, biết e lệ chớ không lì lợm quá như chư Lama hay người Tây-tạng khác, họ quen thói tục không sợ mích lòng ai cả, lạm dụng lòng tốt của người lắm. Tối lại Sam-dhen cúng nước rồi cáo bịnh, trùm nằm đó ngóc đầu chuyện vãn tới khuya. Chín giờ bần đạo nghỉ.

    Om Mani Padme Hum !

  5. #155
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 10 Octobre 1936 – 25-8-â.l.

    Tại Sarnath ngày nay cả ngàn người cúng vía kỷ niệm Xá-lợi Phật tổ.

    Y lệ, 8 giờ Samdhen sai Choundouss đi đến Lama lão xem quẻ bịnh. Trở về nói : Đại đức nói bị mong vọng Phật-đà-gia, trong lòng nóng nảy sanh bịnh, vì ở Lhassa lâu, bỏ Phật-đà-gia đã lâu ý mau rồi việc trở về Dorjec đảnh cho mau. Samdhen nghe qua than với bần đạo rằng : Biết sao bây giờ, chỉ còn có một tờ bố cáo phê cấp số tiền quyên mà vị trung quan làm chưa rồi, để dây dưa lâu quá, làm cho chúng ta chờ đợi lâu ngày quá, tôi rất nóng lòng về Phật sự. Đoạn bảo Isess và Choundouss cầu kinh, giao phần nấu ăn phụng cấp ba huỷnh ẩm thực, mua lá trắc bá diệp xông hương một thau ngoài hàng ba. Hai người cứ ngồi tụng kinh, khát uống trà, đói ăn bột. Mười một giờ bần đạo y lệ cúng ngọ, bột với cải bắp xào. Chiều lại Samdhen sức lực hườn nhiên. Bước ra trước sân chơi mát. Bần đạo thử hỏi : nầy huynh, vậy chớ huynh có biết hướng nam nơi dãy núi từ Bumpari chạy dài theo mé suối lớn có vị Đại đức Lama ẩn dật tu hành nơi ấy chăng ? – Trả lời rằng : Khi tôi còn nhỏ trong khoảng chín năm trời ở tại chùa Dzêsbung thì nghe nói có nhiều vị Đại Lama ẩn dật trong hang tu hành cao pháp, nhưng ít ai gặp đặng. Bần đạo thử hỏi vậy coi cho biết huỷnh có phúc hạnh nào mà gặp các ông Đại đức ấy chăng ? Cũng biết rằng : theo cử chỉ và pháp môn của huỷnh hiện thì còn hẹp hòi hạ cấp, còn quá nuôi dưỡng xác phàm, ý tứ chưa lìa trần ngũ dục, thì không thể hữu duyên cùng chư vị Đại đức ấy. Huỷnh khi trả lời rồi trong giây lát bèn hỏi : Thầy hỏi đó có ý gì chăng ? Thầy sao biết vậy mà hỏi tôi ? – Nếu tôi không biết thì làm sao hỏi huynh đặng. Huỷnh nghe qua bèn nói : Sao thầy biết xin nói cho tôi rõ với. – Nầy huynh, hai phen đi tắm khi nọ, huynh gọi tôi đi đâu lâu làm cho huynh để ý sợ lạc bước, hoặc gặp bất tiếu hãm cầm… Lúc ấy tôi có gặp Đại lão Lama, người thông tiếng Hindou lắm, đàm đạo với tôi hai phen, người thông kinh Phật lắm . . . . . Huỷnh hỏi : Vậy chớ vị Đại Lama ấy có nói sự chi chăng ?. . . – Có, nhưng tôi không có thể nói lại cho huynh hiểu, vì huynh ít thông Hindou, chỉ biết đủ nói bập bẹ, chớ nói qua kinh Phật tôi cũng không đủ tiếng nói lại. Nghe qua thì hiểu mà nói lại thật khó lắm . . . Huỷnh nói : Nói sơ ý chỉ của Đại đức nói cho tôi nghe mà . . . Bần đạo chỉ cái ngực rằng : Ngài nhắc tích Phật nói cùng Xá-lợi-phất cái tâm hành đạo . . ., có lẽ huynh hiểu chút ít cái tâm-kinh mà . . . . . . . Hai huynh-đệ vừa nói vừa đi vô . . . Thôi các qui kỳ phận,(1) lo tụng niệm.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #156
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 11 Octobre 1936 – 26-8-â.l.

    Y lệ, 9 giờ nấu cà-ri cải bắp, khoai và cải củ bào hộ cho các huỷnh đang tụng kinh. Chín giờ 15 Issê lo dưng bột cho các huỷnh, bần đạo bảo chậm chậm chờ đồ nấu chín một chút sẽ dưng bột, bần đạo sẽ hộ đồ ăn. Bây giờ ăn bột với nước trà và muối ớt chớ có ăn chi. Mười giờ thì cải bắp và cải củ bào chín, bần đạo bảo Issê dưng bột, bần đạo múc cà-ri hai thứ cải đã chín trước, duy khoai lang còn sồn sồn, nên chừa khoai lại, múc cải hộ các huỷnh. Bần đạo còn nấu thêm chập nữa cho chín khoai. Mười giờ 45 đã chín, nhắc xuống đem vào tợ, lo nhồi bột, rồi cúng ngọ. Bỗng có một vị sai nhơn của chị của Bà lớn, sai đem bún và một con dê thịt sống đến hộ huynh Samdhen, đó là lộc của họ. Mười hai giờ bỗng có hai vị Lama ở chùa Séra đến dưng anh lạc và lễ vật (một ổ beurre Tây-tạng với trà) mừng Samdhen đặng vua phong chức. Có tặng cho bần đạo một sợi anh lạc, mừng đặng Pháp danh nơi Quốc Vương sắc-tứ. Chiều y lệ.

    Tiếp điển : Lời căn dặn 12 giờ khuya.

    Cái am ở phía trên có một ni cô, lòng phát đạo tinh tấn, nhưng bị người chồng tà đạo và người anh cũng vậy nên che cái đức huệ. Có thầy mà không bố giới, nên sái mối đạo. Cũng bị cái pháp niệm nên lấp chơn tánh. Có người con trai, sau sẽ nhờ con chỉ đường chánh. Có cầu ngươi, ngươi phải độ. Hai năm ngoài sẽ tới kỳ duyên nghiệp, sau khi về xứ . . . . . .


    Ngày 12 Octobre 1936 – 27-8-â.l.

    Nhựt y lệ, 11 giờ ngọ bột, cải bún xào lăng. Sam-dhen hộ ba lọn bún. Chiều y lệ. Ngày tháng hao mòn không hay, nhờ thiền định và tiếp điển chư tôn đại đức. Xứ nầy nhiều tử tưởng lành bay khắp, chư tu hành nhập định, hạp quán thì tiếp không biết bao nhiêu điều mầu nhiệm trong pháp giới tánh. Kỳ thật, tu hành mà không có pháp quán khó mà dứt tam nghiệp, khó xô ngũ sanh căn, thì không thể sạch nghiệp.

    Tiếp điển :

    Bốn năm sau khi về nước có ba người đệ tử Trung.
    1. sẽ nên chánh pháp trong một năm.
    2. Ngã mạn
    3. ba năm sẽ nên

    1er nối kế chí đặng lắm.


    Ngày 13 Octobre 1936 – 28-8-â.l.

    Minh tướng y lệ ; ngọ thời y pháp : 11 giờ cúng ngọ bột, cà-ri cải bắp, bún (Samdhen hộ hai lọn nữa).
    Mộ thời y tụng niệm, thiền định, quán tưởng.

    Tiếp điển :

    1 giờ sáng ; đích thân Thượng-sư tới.
    Sửa chỗ sái : Nhứt là ngươi hay lộn cái Sơ-thiền quán niệm vậy vậy. . . Đình tâm, nhập bổn. Nhị-thiền trúng. Tam-thiền : nhập vô-sanh y vậy. . Tứ-thiền : Hoa khai... sau sẽ quán Kim thân, tức là kiến Phật ngộ vô sanh vân vân. . Y vậy. . .

    Om Mani Padme Hum !

  7. #157
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 14 Octobre 1936 – 29-8-â.l.

    Y lệ, 11 giờ ngọ bột, khoai lang, bún xào ướt. Ba giờ huynh Samdhen cùng Isess đi Dzêsbung, ba huynh đệ ở nhà. Tối 8 giờ trực nhớ cuối tháng mà quên cạo đầu vì ban ngày những mảng lo riêng phận sự mà quên ngày tháng lại qua. Chịu khó nhúm lửa hâm nước gội đầu rồi tự cạo như mấy tháng trước. Tối nay trong lúc cạo đầu rồi vào ngồi, phút tiếp quán điển về vấn đề trần thế giả cuộc, từ vua chí dân ăn xin, đều gánh vai tuồng nghiệp lực, thiện ác, hết lớp muôn điều trả lại thế gian. Bỗng tiếp quán một vị Vương đế băng hà, nằm ngay dứt hơi, cung điện đều phế, hậu cung nga, thiếp đều khóc lóc bơ vơ. Muôn ngàn sự nghiệp đều về tay khác. Bỗng quán tiếp lúc Phật tổ treo ấn Thái tử, cắt ái, ly cung, xa sướng, tìm khổ đạo, từ Kapila quốc kỵ bạch mã thẳng tới Già da, vào Dungarseri cùng Phạm chí học đạo, lục niên khổ hạnh, cho đến lúc hình khô vóc ốm, bỏ đạo khắc thân qua ngồi Tala thọ, chịu cô Sử-giả-ta dưng sữa, sau qua gốc Bồ đề cách trăm thước ngoài ngồi 49 ngày, tới thành đạo đi Lộc-giả-viên chuyển pháp luân thứ nhứt độ ngũ tì-kheo, từ Bồ-đề-thọ đi Lộc-giả-viên xe lửa Grand Express chạy nửa ngày, xa lối 500 km. Tới đây phút động tâm thương Phật, thị hiện độ đời bèn ra thiền. Đoạn hữu ngọa đến khuya. Ngủ.


    Ngày 15 Octobre 1936 – mùng 1 tháng 9 â.l.

    Nhựt thường lệ. Mười một giờ ngọ bột, khoai lang nấu canh, 1 giờ coi tay giùm một người quen cùng Méchen. Mua 2 trăng nga thuốc. Thần gió đã khởi, khí hậu đã lạnh lung rồi. Chót núi đã trắng tuyết.

    Tiếp điển : Lời căn dặn :

    Nay gần tới ngày về xứ, vậy ngươi chóng tập cho thuần thục. Ngươi chớ nhớ chỗ ta nói sự biến nghiệp ở Đạo tràng mà buồn, e cho con ma buồn nó sẽ phá tâm ngươi. Thích-tử tánh Kim-cang . . . . . . . . .


    Ngày 16 Octobre 1936 – mùng 2-9-â.l.

    Tụng kinh mơi rồi sửa soạn đi chợ. Bữa nay không trà điểm tâm, 10 giờ mới có sữa nấu trà, 11 giờ ngọ bột với cải bào, khoai xào. Thần gió đã khởi thổi, lạnh càn rút tới, sớm mơi ra đi chợ đã thấy mọi người đều đội mũ kỵ hàn, mặc y phục lông, ngó lại mình, đầu không nón, áo cặp mỏng, quần nỉ mỏng, giày vớ mùa thu, từ bảy tháng trời chỉ một bộ đồ y phục nầy mà che thân. Dãy núi khởi đóng trắng phao. Đi chợ mua dầu, cải củ và khoai 6 trăng nga. Chiều y lệ tụng niệm thiền định.

    Tiếp điển :

    Muốn ta giúp trong chỗ không hiểu phải đọc câu . . . 22 Septembre thì sẽ thấu tới ta cùng nhau thầy trò hội ý . . . . . . . .

    Om Mani Padme Hum !

  8. #158
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 17 Octobre 1936 – mùng 3-9-â.l.

    Y lệ trà ngọt điểm tâm. Học chút ít, 11 giờ ngọ bột cải xào. Ba giờ coi tay giùm cho cô vợ của người quen Đầu bếp, chồng coi hôm kia, bữa nay vợ coi. Cô xin hộ 1 săng, hoan hỉ. Khuyên rước thầy tụng kinh ba ngày, rồi sau ba ngày sẽ lại thì bần đạo chỉ cách cúng dường Phật-Pháp-Tăng…… Tùng dịp khuyên người tác phước chút ít, họ lu lờ quá, ở đất Phật mà không biết Phật pháp uổng quá. Tôi cùng vợ chồng Méchen đàm đạo huỷnh khuyên mua giày da ấm, áo ấm, chớ lúc nầy đã lập đông mà thầy chỉ có một áo một quần đó hoài, tôi rất thương quá, vì đã lớn tuổi mà chịu lạnh xứ nầy sao nổi. Rất đỗi tôi đây là người xứ nầy đã quen phong thổ mà hãy chịu không nổi, huống chi thầy. – Cám ơn huynh, song tôi nhớ lúc tại Dungarseri sáu năm khổ hạnh lạnh ấm một cái y, sau qua Phật-đà-gia bồ đề thọ hạ cũng chịu ấm lạnh. Nay bần đạo như vầy là ấm áp hơn Phật xưa……. – Huỷnh lắc đầu thở ra… Chuyện tới khuya… Nghỉ.

    Tiếp điển :

    Việc của ngươi. Mỗi lần đem hỏa hầu xuống chút ít. Sau tựu nỗn tử thì có lợi ích về vụ xuất dương cứu khổ ứng cầu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Hai năm bốn tháng thì thấy. . .


    Ngày 18 Octobre 1936 – 4-9-â.l.

    Y lệ, 11 giờ ngọ cúng dường bột cải xào, khoai xào. Vợ chồng Méchen hộ một quảo khoai lang. Cám ơn hoan hỉ cúng dường bố thí. Chiều 3 giờ đang ngồi phơi nắng nhưng tháng nầy đã ít nắng, trời âm can, mây phủ đầu non từ mơi tới trưa, mây tan, tuyết đóng, bốn phía thành Lhasa núi bao ngó trắng xóa như đầu tường phết vôi. Bỗng Choundouss đi chợ về, thuật việc đã gặp cô hầu trà của Đại đức Lama cả bên thành Pato Bhutan, thuật sự Đại đức đã tịch, cô khóc lóc cùng Choundouss, ấy là người đồng hương của huỷnh. Cô đến Lhassa hầu lo cúng dường chư tự và có năm mươi Lama Bhutan đồng đi cùng cô đặng tụng kinh cầu ân Phật. Nghe qua bần đạo cũng cảm tình vì Ngài cũng đã trọng đãi bần đạo tại Pato, lại hoan hỉ đứng tên vào passeport giùm, thầm niệm Phật cầu vong linh siêu thăng tịnh độ. Đoạn 4 giờ đi nhiễu tự Chôkhăng. Chung quanh chùa thiên hạ buôn bán đông đảo, phố xá đông đặc, lúc nầy tùy theo mùa khởi Đông-chí, nên các tiệm quán bán đồ y phục kỵ hàn, nhứt là áo may da trừu dê để y lông cùng da các thú khác, mền Tây-tạng dệt bằng bông vải để xồm xàm dầy dục. Xứ còn thô tháo, nội hóa các thứ đều còn kệch hình, chưa đặng thiện mỹ, lại thêm các thứ đều mắc mỏ lắm. Da thú thuộc rồi treo lểnh nghểnh, chồng cả đống nầy qua đống kia, thiên hạ bu theo các quán ấy mua dập dìu. Bần đạo thấy da chúng thú cũng có chút thương tâm, nên chi thà chịu lạnh chớ không đành mua đó làm ấm thân. Về lo tụng niệm y lệ. Tối lại hỏi Choundouss, cô hầu Lama cả có nói vì sao bịnh chi mà Ngài tịch chăng ? – Huỷnh nói không phải bịnh, ấy là bị rủi ro bất đắc, vì Ngài đi ngựa đặng đi Calcutta, đi tới núi (chỗ chúng ta chụp hình núi tuyết) thì con ngựa của Ngài trợt tuyết té nhào, ném Ngài xuống triền, trong lưng ngài có đai súng lục liên, cấn cò nổ, đạn trúng nơi dạ dưới xoi lủng ruột nên phải bỏ mạng. Mũi thiên oai chờ người bạc mạng.
    Mua một hộp quẹt.

    Tiếp điển :

    Việc trong ngôi tam bửu. Hai năm mới xong xuôi thì sẽ khai tự ngày Phật tổ xuất gia.
    Phải tùy thời mà làm, không cần rình rang. Phải đủ y khâu theo luật đã tấu chức Đại-lặc-ma (Hòa-thượng). Cái mão tùy ý ngươi thay đổi. . . . . . . . . . . . . . .

    Om Mani Padme Hum !

  9. #159
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 19 Octobre 1936 – 5-9-â.l.

    Sáng thức dậy, khí hậu lạnh như đồng, tay chơn tê ngắt. Dòm ra ngoài sân, thấy trời mù mịt âm can, 7 giờ rưỡi thì tuyết xuống như hốt bông gòn rải, lần hồi sân trắng như rây vôi, che dù ra ngoài vòng thành đi tiểu, thấy đồng cỏ trắng phao. Mười giờ rưỡi hết mưa tuyết, ra ngoài xem bốn phía núi đều trắng xóa từ dưới tới chót, cả thành Lhassa trên nóc nhà, dưới đường cùng ngọn cây đều trắng lớp, chim bay nặng cánh, chó chạy tuyết đầy lưng, kẻ đi đường già trẻ không phân biệt, đầu đầu trắng phêu. Ôi ! hèn chi mà nhơn dân không dùng da thú sao đặng……. Nay mới đầy tháng chín mà lạnh dường nầy, tuyết sa dường ấy, qua tháng mười một và tháng chạp bực nào nữa… Mười một giờ ngọ bột với khoai chiên ngồi ăn như ngồi dưới nước, ăn mau mau vì đồ ăn đã lạnh ngắt. Một giờ tuyết ngoài đồng và mấy nẻo đường tan ra nước hết. Trên rầm nhà cũng tiêu rã, nhà nào nhà nấy cũng bị nước tuyết rịn dột ướt cả, vì bị trời nắng khô đất rầm nên nức nẻ, nay nước tuyết mới rịn dột. Tuyết trên đảnh cũng còn trắng phao, mặt trời làm tan không hết tới tối cũng còn y nguyên một màu vôi bạc. Tối tụng niệm rồi nghỉ, trời lạnh không kể mấy lớp mền, nằm tới khuya, nhờ hơi trong mình ra nhiễm ấm lớp mền, ngủ mới yên.


    Ngày 20 Octobre 1936 – 6-9-â.l.

    3 giờ sáng thức, nhưng hữu ngọa quán tưởng thiền định, trùm đầu trùm đuôi, không dám lo hở, mắc tiểu cũng nhịn tới sáng sẽ hay. Nằm lì tới 7 giờ mới tốc mền chỗi dậy, mọi người còn trùm. Lấy ca ra rửa mặt, hớp nước răng nhổm, lưỡi tê, nước lạnh như nước đá. Đoạn y lệ, cúng dường trà rồi điểm tâm, tụng niệm tới 8 giờ rưỡi, ra ngoài ngồi nắng. Chung quanh các đảnh núi đều còn tuyết đóng trắng bách. Mười một giờ ngọ bột và khoai, cải củ nấu canh cà-ri. Đoạn phơi đồ ngủ đặng tối nó còn hơi ấm, vì ban đêm rờ vật chi cũng lạnh đồng cả, ví như áo đang mặc, trong ấm chớ ở ngoài không khác chi lắm các vật ở ngoài cũng lạnh ngắt. Hai giờ xếp đem vào cho còn hơi ấm, tủ đó. Chiều y lệ, khí hậu lạnh tối ngày, ban đêm tăng thêm, tụng niệm rồi nghỉ.

    Tiếp điển : 2 giờ khuya.

    Tự đến chỉ pháp quán Vô sanh rồi dặn rằng : Ba năm sau khi về xứ, hết dư nghiệp. Ngươi sẽ lập Tây-trước-chánh-tông. Y theo bài kệ đã thấy . . .
    Nếu Giáo sư quày lòng thì thôi . . . . . . . . . . . . . . . .
    Giáo sư cần phải ứng mà độ người . . . . . . . . . . .


    Ngày 21 Octobre 1936 – 7-9-â.l.

    Nhựt y lệ. 11 giờ ngọ bột với khoai chiên. Méchen thấy ăn cũng xề gần, bần đạo mời ăn thử, khen ngon. Mười hai giờ Samdhen về vào than rằng nơi tì đau ran, thế bị beurre và thịt nhiều, vì chư huynh đệ mừng thết đãi mấy ngày, cứ cầm cộng không cho về. Cả buổi huỷnh ngủ hoài, tối than nhức đầu. Bảy giờ trùm ngủ. Một bần đạo ngồi tụng niệm y lệ rồi ngủ.

    Tiếp điển :

    Hỏi qua việc can qua Tàu, Ngài cho rằng : Âu nổi thì Tàu nhẹ nghiệp. Ấy là cái nghiệp bí ẩn tương giúp nhau. Chưa phải lòng tham của Nhựt : nước Tự tại bình đẳng, cốt nhục đại bại chưa đầy tháng. Nước nhà của Thầy nhờ Phật-lực, sẽ yên tĩnh. Mặt trời mọc hướng nam là điềm an ổn, không xiêu cột đèn đường. Đắc vị thất vị, lý tự nhiên.


    Ngày 22 Octobre 1936 – 8-9-â.l.

    Y lệ, 11 giờ ngọ bột với canh cải củ. Thấy Méchen mua đậu hủ (tôpô) nói hai trăng nga một miếng, chiếp để dạ, bữa khác sẽ mua dùng tốt lắm. Hai bữa rày cúng ngọ rồi thì đem đồ ăn ra ngoài nắng ngồi ăn, vì ăn trong nhà lạnh quá in như ngồi gần thùng nước đá, đồ ăn mau lạnh, ăn nửa bữa thì đồ ăn lạnh như ngâm nước đá. Tuyết vẫn còn đóng đầu non. Chiều y lệ tụng niệm, đoạn nghỉ sớm. Ba giờ sáng thức, hữu ngọa quán tưởng tới sáng. Khí đông thiên, một ngày một tăng sự lạnh.

    Tiếp điển :

    Vậy sự tạo tự sẽ không điều cản trở và ngày nào đất Xiển-đề theo cờ Phật thì ngôi tam-bửu gần hoàn toàn. Song từ đây lo gia thêm công cho mau rồi, kẻo sẽ có điều . . . . . . . . . . Phật đà Đạt mạ Tăng già phân biệt.

    Om Mani Padme Hum !

  10. #160
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 23 Octobre 1936 – 9-9-â.l.

    Y lệ, sanh khí nặng nề, ra phơi nắng. Samdhen lo đi tính việc. Bần đạo đang lúc xem sách ngoài nắng, bỗng Choundouss trong nhà bước ra, lại ngồi gần và rằng : Thầy ơi ! Tuyết lập Đông một ngày một tới, hàn khí một ngày một gắt gao, chúng ta ngồi không ăn lụn nơi xứ Tây-tạng mà chờ công việc Quốc Vương cúng dường cho Phật-đà-gia đó, giấy tờ cho rồi, sắc sớ cho hườn cuộc, thì thế không mau, vì là việc nước. Samdhen than phiền sự tốn kém tại xứ nầy, món món đều mắc mỏ và cứ ngồi không mà ăn xài, dầu của kho cũng phải tiêu tận. Vậy huỷnh tính, muốn cho hai anh em tôi và Issê đi về Phật-đà-gia trước nhưng không đủ số tiền cho đi, vậy xin thầy làm ơn xuất tiền cho mượn trước, chừng về tới Phật-đà-gia sẽ tính hườn lại, hoặc tới Kalimpong lấy tiền tại đó trả cho thầy cũng đặng. Bần đạo nghe qua rất vui lòng, vì tiền cất trong lưng mà về sớm không đặng, ở chờ hoài hao phí của Đàn na, công sự của mình đã phỉ nguyện rồi, ngày nào về cũng đặng, chỉ còn chờ công chuyện của huỷnh. Lòng muốn về đã lâu nhưng không lẽ tách bọn mà về coi không đặng. Nay nghe qua, lòng đã nghĩ ngợi rất phỉ sở ước ao, bèn nói : Nếu huynh Samdhen muốn sao thì nói, bần đạo xuất tiền trước giúp huỷnh cũng đặng. Choundouss rằng : Thầy tôi bàn tính như vậy, song nói : Cứ cậy mượn của thầy hoài, nên ngại lòng hổ miệng không dám nói, bảo tôi tỏ ý cho thầy tính giùm… – Đặng, đặng, tiền để không đây làm gì… Bỗng Sam-dhen ngoài ngõ bước vào, thì bần đạo kêu lại và nói chuyện Choundouss mới nói vân vân. Samdhen nói y vậy lòng tôi muốn. Vậy xin mời thầy vào đơn, đoạn huỷnh nói chuyện rằng : Sớ, sắc nhà vua đã xong, chỉ còn một tờ sắc cáo số tiền chia ra từ quận thì chưa rồi. Việc nhà nước không mau đặng, mà bọn tôi nhiều người cứ ngồi không ăn lụn tốn kém quá, xứ nầy mắc mỏ mà cả đám cứ ăn ăn uống uống thật tốn hao cũng nhiều, thầy đã thấy cũng biết giùm. Vậy tôi tính cho Choundouss và Issê về Phật-đà-gia trước, đi với thầy, nhưng tiền chưa lãnh, vậy xin thầy hoan hỉ giúp trước, sau về tới Kalimpong sẽ có tiền hườn lại, hay về Phật-đà-gia cũng đặng. Tự ý thầy muốn nơi nào cũng đặng. Bần đạo rằng : Huynh tính như vậy tốt lắm, tôi thấy huynh tốn kém lung quá thì rất buồn giùm, nhưng không lẽ nói ra, nay huynh sáng tính, thì bần đạo cũng hoan hỉ theo ý huynh. Tiền để không làm chi, lúc hữu sự thì dùng. Đoạn lấy ra 20 rupee trao cho huỷnh, huỷnh thâu và cám ơn. Huỷnh bèn lo đi xin quan giúp ngựa Quốc gia. Mười một giờ lo ngọ cúng dường bột và khoai chiên. Mười hai giờ rưỡi về nói ngựa nhà nước lúc nầy không có. Huỷnh tính mướn ngựa ba con cho ba người. Chiều y lệ.

    Samdhen tính bữa 19 tháng 9 nầy cho Choundouss và Issê về trước, bần đạo cũng tháp chưn theo đó về trước đặng sắp đặt công sự cho xuôi xếp, phòng lo năm tới đi chư quốc Phật độ với Samdhen.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •