Ngày 4 Octobre 1936 – 19-8-â.l.
Chỉ trà điểm tâm rồi, 8 giờ mượn áo của Méchen mặc, sắm sửa như bực đại nhơn Tây-tạng đặng đi yết kiến Quốc Vương cầu Pháp. Tám giờ rưỡi cùng nội bọn Samdhen làm đầu, đi đến Thơ ký Lama Quốc gia, đợi một chập, đoạn người cho Lại quan dẫn lộ lại Ngự điện, đợi chập lâu, quan Lama hầu cận xuống cho hay rằng : Lịnh cho yết kiến. Huynh đệ đồng thượng ngự điện, lễ yết như hai lần trước. Bần đạo dưng anh lạc, Quốc Vương thủ hữu ma đầu rồi ban niệt, đoạn quan mời lui xuống phòng trà. Quốc vương cho Samdhen ở lại chầu tâu mọi việc. Chập lâu Samdhen xuống điện, mặt mày coi hớn hở, nội bọn ra đi lại Quốc gia thơ phòng đội. Samdhen rằng : Đợi lấy Passeport của bần-đạo, Quốc vương nhận ấn rồi sẽ phát lạc. Còn sự cầu Pháp danh nơi Quốc vương Lama rồi cũng sẽ có ngự bút ban lạc. Về ăn ngọ sơ sài bột và cải củ bào cà-ri, bần đạo nấu nhiều hộ nội bọn. Chiều Samdhen đi lấy giấy tờ về, Passeport đã ghi và ấn Quốc Vương trao cho bần đạo : Pháp danh : Thubten-Osall. Nay huỷnh đã đặng sắc Quốc Vương phong Lama-quan-chức kiêm vụ Phật sự tại Phật-đà-gia, bần đạo cũng mừng giùm cho huỷnh tùy ý muốn nay đặng như nguyện. Ba huynh đệ họ Isess, Issê và Choundouss mua bánh và lạc làm lễ mừng Tân quan dưng anh lạc. Đoạn Samdhen đáp lễ ít hồ xăng cho ba huỷnh, vui vầy cùng nhau. Bần đạo và Samdhen đàm đạo (sau khi tụng niệm tối rồi), bàn luận sự khi tới Phật-đà-gia. Bần đạo rằng : Nay huynh đã đặng phong chức Lama kiêm vụ Phật-đà-gia Phật sự cho đi khắp xứ có Phật đạo hành phước Đàn na, nay vưng lệnh đến Phật-đà-gia tấn vụ Phật sự lo lập nhà thiền tại đó, vậy phải ở lâu, chẳng phải năm, bảy tháng một năm mà rồi, ít nữa ba năm bốn năm mới rồi phận sự công quả. Vậy chẳng nên ở nhà hội Đại-bồ-đề, phải làm theo kiểu Tây-tạng Lama quan cho khỏi tồi tệ, khỏi hổ, phải sắm một cái nhà vải bố, y kiểu Lama quan, khi đến Calcutta thì mướn may hai cái, một cái cho huynh, một cái cho Lại quan giúp sự và chỗ nấu ăn cũng trong đó. Vậy tiện bề cho huynh ăn ở bao lâu cũng đặng khỏi xin phép chìu lụy hội Đại-bồ-đề và cũng ra vẻ nhà Lama quan xứ Tây-tạng. Nghe qua huỷnh vui lòng hết sức và cám ơn ý tứ bần đạo và nói rằng : Thầy lớn tuổi trí hóa đầy đủ ngó xa hiểu nhiều, lời bàn luận rất đáng, tới khuya huynh đệ nghỉ.
Có hỏi về Ngọc Phật đức Giabô, bảo về giao cho giáo sư, vì người đã có lập tháp sẵn rồi. . . Lạ quá.
Ngày 5 Octobre 1936 – 20-8-â.l.
Sáng điểm tâm bánh của Samdhen hộ hôm qua, rồi lo đi chùa cúng dường và xưng Pháp danh lễ bái bố cáo nơi các điện : “Đệ tử Việt-nam Bí-sô Pháp-danh Thích-tùng-huệ, đến Tây-tạng đã bá nhựt, cầu Pháp danh nơi Đại Thượng tọa Lama Quốc Vương, ngài ngự ý cho Pháp-danh là : Thubten Osall Lama (nghĩa là : Thubten là tên của đức Tả-lê Lama Thái-thượng-hoàng đã băng. Thubten là vòng cứng bền chắc Kim-cang. Còn chữ Osall là : ánh sáng mặt trời, tên của đương kim Quốc Vương Lama, nên bần đạo biết là : Huệ-nhựt). Nay đi chùa lễ bái và bố cáo cho chư Bồ-tát tại tự Thinh-văn thánh hiền cập Lịch đại Tổ-sư đẳng đồng ủng hộ.”
Cúng dường rồi về, ghé tiệm bánh mua 5 trăng nga, ra quán mua nho khô và chà là khô 2 trăng nga, đậu phộng rang 1 trăng nga, sữa khô và bonbon đường 2 trăng nga. Về nhà mượn Isess đi mua một bình lạc 2 trăng nga và 1 trăng nga đường cộng là : 13 trăng nga 8A.2P, đoạn gói 2R và 1 săng, một sợi anh lạc, khi Samdhen đi lại dinh Thừa tướng về, bèn bày lễ mừng tân quan, huỷnh vui lòng và nói : Tôi cùng thầy là huynh đệ, lễ vật long trọng quá như vầy, thật lạ quá. Bần đạo rằng : tuy khác nước mà đồng đạo, lại cùng nhau sáu, bảy tháng trời chen vai, hiệp mặt ăn ở cùng nhau, thương nhau như ruột thịt, nay huynh đặng phong quan, bần đạo mừng, ấy là tốt huynh là tốt tôi, xấu huynh là xấu tôi, vậy chẳng phải lễ vật là trọng, chỉ hưởng tấm lòng của bần đạo là đạo bạn cùng nhau. Huỷnh nghe qua rưng nước mắt, vui cười…
Đoạn 11 giờ ăn ngọ bột với cà-ri cải bắp, khoai lang. Hai giờ huynh Samdhen đáp lễ lại bằng trà sữa, vui vẻ đàm đạo. Bốn giờ cùng huỷnh dạo phường ghé tiệm quen của huỷnh, coi tay giùm cô chủ tiệm. Thương ôi ! gia đạo nhiều sự phiền não, tình nghĩa lợt lạt . . . . Cô hỏi vậy phải làm sao ?. . . . Bần đạo chẳng hứa chi hết, chỉ bảo cúng dường cầu vái nơi chùa. Về. . . . . Tối lại y lệ. . .