DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 3/21 ĐầuĐầu 1234513 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 21 tới 30 của 202
  1. #21
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    Ngày hôm sau có một vị tăng tên là Tissadatta từ Tích lan vượt biển tìm đến cũng mong được học tạng Kinh bằng ngôn ngữ Magadha. Khi được hỏi, vị tỳ kheo này cho biết là đã học thuộc nằm lòng tạng Kinh bằng tiếng Lankà, nay muốn học thêm tạng Kinh bằng tiếng Magadha để tiện bề so sánh, đối chiếu. Tôn giả Dhammarakkhita và tỳ kheo Tissadatta nói chuyện với nhau bằng tiếng Tích lan. Khi trao đổi xong, tỳ kheo Tissadatta quỳ xuống đảnh lễ tôn giả Dhammarakkhita.

    Buổi chiều, tôn giả Dhammarakkhita nói với Na-tiên:

    - Bắt đầu từ ngày mai, ông cùng học chung với tỳ kheo Tissadatta!

    Na-tiên lắc đầu:

    - Đệ tử không muốn học chung với vị ấy.

    - Tại sao?

    - Thưa , người xứ Sàgala không thích ngôn ngữ Lan-kà, nên đệ tử chỉ muốn học tạng kinh bằng tiếng Magadha thôi!

    Tôn giả Dhammarakkhita chợt nghiêm mặt:

    - Dĩ nhiên là ta dạy bằng tiếng Magadha! Nhưng ông đã hiểu lầm ta và có ý nghĩ xấu về tỳ kheo Tissadatta, ông có thấy thế không?

    Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, Na-tiên quỳ mọp xuống xin sám hối, nghĩ thầm trong tâm rằng: "Những ý nghĩ xấu quấy của ta như thế nào, ngài đều biết rõ cả, vậy hãy cố gắng sống đời tỉnh thức, chánh niệm trong mỗi hơi thở."

    Thế rồi họ lần lượt học năm bộ kinh Nikàya bằng tiếng Magadha, ấy là: Dìgha, Majjhima, Samyutta, Angutta-ra và Khuddaka. Trí nhớ của Na-tiên thật phi thường, chưa tới mười hôm đã học thuộc lòng bộ Dìgha Nikàya, trong lúc ấy Tissadatta chưa học xong được một nửa!

    Ban đầu, tôn giả Dhammarakkhita muốn dìm bớt tính khí kiêu ngạo của tỳ kheo Na-tiên bằng cách không dạy tiếp nếu tỳ kheo Tissadatta chưa thuộc. Nhưng sau thấy Na-tiên không tỏ vẻ nóng nảy, vẫn lặng lẽ chờ đợi, thì giờ rảnh rỗi, ngài thấy Na-tiên tìm chỗ khuất vắng để tìm hiểu nghĩa kinh, hay ngồi thiền định, nên ngài lại đổi ý. Lại nữa, trong lúc này Phật giáo đang gặp nạn, các tôn giả Rohana và Assagutta đã ân cần gởi gắm; vậy sự thành toàn pháp học cho Na-tiên sớm chừng nào sẽ tốt chừng ấy. Vì nghĩ vậy nên tôn giả Dhammarakkhita dạy tiếp cho Na-tiên. Và chỉ vỏn vẹn có ba tháng, Na-tiên đã thuộc nằm lòng năm bộ kinh. Ba tháng sau đó nữa, Na-tiên thuộc lòng luôn cả năm bộ chú giải.

    Vô cùng bằng lòng về người đệ tử thông minh tuyệt hảo, không để mất thì giờ, tôn giả Dhammarakkhita dạy luôn tạng Luật cho người học trò yêu. Thế rồi, trải qua bốn tháng nữa, Na-tiên thông suốt thêm tạng Luật và luôn cả chú giải.


  2. #22
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    Hôm kia, tôn giả Dhammarakkhita dẫn Na-tiên đi dạo qua một vùng đồi, chỉ tay vào một khu rừng xa, ngài nói:

    - Có lần, Phật tổ nói gì về nắm lá trong tay so với lá cây trong rừng kia?

    - Thưa, ngài bảo rằng, nhiều như lá cây trong rừng kia là hiểu biết của ngài; nhưng những gì ngài chỉ dạy, thuyết ra chỉ bằng nắm lá trong tay của ngài thôi.

    - Vậy là thế nào nhỉ?

    - Thưa, Đức Thế Tôn chỉ nói những điều đáng nói, cần thiết, điều lợi ích cho chúng sanh; ngoài ra, những điều vô bổ, phù phiếm, những điều rỗng không nhằm thỏa mãn kiến thức, không đưa đến giác ngộ, giải thoát, ngài không nói.

    - Đúng thế! Ngay chính những điều mà ngài nói ra, được ghi lại trong Tam Tạng, chúng có phải là Sự thật chăng? Là chân lý chăng?

    - Thưa, không phải, chúng chỉ là ngón tay trỏ chỉ mặt trăng, chứ chẳng phải mặt trăng!

    Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu:

    - Con hiểu vậy là chính xác!

    Lúc ấy, một người chăn bò đang lùa một đàn bò đi ngang qua. Đợi cho đàn bò đi khuất, ngài Dhammarakkhita nói:

    - Con có liên tưởng gì về người chăn bò và đàn bò này?

    - Thưa, người chăn bò kia có lẽ biết rất rõ đàn bò ấy có mấy trăm con, bao nhiêu đực cái, bao nhiêu bê con, con nào già yếu, con nào sắp sinh v.v... Y lại còn rất rành cách chăm sóc, nuôi dưỡng đàn bò sao cho mập, mau phát triển; nhưng vị ngon, vị ngọt của sữa bò như thế nào... thì có lẽ là người khác được hưởng còn y không được hưởng!

    - Đúng như vậy.

    - Thưa, cũng dường thế ấy, người làu thông Tam tạng, rành rẽ giáo pháp, có thể giảng nói kinh nghĩa, kệ ngôn thao thao bất tuyệt, tháng này qua tháng nọ; phân tích chi ly từng mục, đoạn, phần..., các chi pháp rất rạch ròi, phân minh...; nhưng nếu y chưa nếm được hương vị của Pháp, chứng nghiệm Pháp, sống trong Pháp... thì so với người chăn bò có khác gì đâu?

    - Đúng như vậy! Này con, con đừng làm người chăn bò tội nghiệp kia nhé!

    Tỳ kheo Na-tiên nghe rúng động cả châu thân, thầm cảm kích sâu xa sự giáo giới, nhắc nhở của vị thầy siêu việt, ngài quỳ xuống ôm chân bụi bậc tôn trưởng:

    - Làu thông Tam tạng cũng trở nên rỗng không, vô ích nếu chưa chứng ngộ Pháp mầu. Đệ tử biết là đệ tử phải làm gì rồi.

    Sau buổi đàm đạo ấy, Na-tiên rút vào một cốc vắng để chuyên tu thiền định và thiền quán. Ngài nhất mực tinh tấn theo đuổi pháp hành. Ngoài việc khất thực để nuôi mạng, thì giờ còn lại ngài gia công chuyên niệm ngày đêm, chỉ nghỉ nghiêng lưng vào canh cuối. Hôm kia, tuệ giác bừng sáng, thấy rõ Diệt đế, ngài đắc A-la-hán quả, luôn cả 4 tuệ phân tích (Patisambhidanana) và thần thông. Ngay khi ấy trời đất có những hiện tượng phi thường như địa cầu chấn động, biển cả sóng dâng cao, núi Tu-di rung rinh, chư thiên hoan hỷ và hoa trời rơi xuống cúng dường v.v...

    Tôn giả Dhammarakkhita xuất hiện, mỉm nụ cười hoa sen:

    - Ta chúc mừng con việc lớn đã thành. Hiện giờ các đại tôn giả ở đỉnh núi Himalaya đang chờ con để giao phó công việc đấy!

    Xiết bao cảm kích, tỳ kheo Na-tiên lạy tạ từ biệt thầy, tức khắc biến mất khỏi chỗ và có mặt ngay tại hang động Rakkhita trước mặt hội chúng Thánh nhân A-la-hán. Sau khi đảnh lễ các vị đại tôn giả, tỳ kheo Na-tiên nhìn quanh không thấy đại trưởng lão Assagutta, biết ngay là ngài đã Niết-bàn rồi. Đại đức Rohana biết ý, nói rằng:

    - Bậc đại tôn trưởng Assagutta trước khi diệt độ có dạy lại rằng, con phải tìm cách phục hưng Chánh Pháp.

    - Đệ tử phải làm như thế nào? Và đây có phải là thời mà tôn trưởng sẽ xá tội xưa của đệ tử?

    - Phải rồi! Mọi nhân mọi duyên đều đã đầy đủ. Các vị tôn túc trưởng lão đã phải khổ công thành toàn Pháp học và Pháp hành cho con. Trước mắt, con phải làm hai công việc.

    - Đệ tử xin nghe!

    - Việc thứ nhất là phục hưng tất cả các chùa chiền hoang phế, quy tụ Tăng lữ trở về, cho xuất gia thêm, đào tạo Tăng tài, tổ chức các buổi thuyết pháp ở nhiều nơi để cận sự nam nữ có cơ hội trở lại với những sinh hoạt y như trước đây!

    - Thưa, một mình đệ tử sợ không kham nổi.

    - Con chớ lo lắng, ở đâu cần sự giúp đỡ, chư tôn túc trưởng lão ở đây sẽ xuất hiện kịp thời!

    - Vậy đệ tử xin hoan hỷ nhận lãnh trách nhiệm mà quý ngài đã giao phó.

    - Việc thứ hai là sau khi việc thứ nhất đã đi vào nề nếp, con hãy đến tại kinh đô Sàgala chùa Sankheyya, có vị đại đức tên là Ayupàla ở đấy, con chuẩn bị để gặp gỡ đức vua Mi-lan-đà và khôn khéo sử dụng tất cả mọi khả năng trí tuệ của mình. Con phải nhiếp phục đức vua ấy, đấy là mệnh lệnh tối hậu.

    - Đệ tử có nhiếp phục được chăng?

    - Hãy quán nhân duyên, con sẽ thấy!

    Nghe lời, tỳ kheo Na-tiên nhiếp tâm, theo dõi tiến trình sinh tử của chính mình từ kiếp này sang kiếp kia; lâu sau, ngài thấy một ngôi chùa lớn ven sông, thời Phật Ca diếp, ngài làm một vị tỳ kheo như thế, vua Mi-lan-đà hiện nay, trước kia làm một vị sa di như thế. Vì lời nguyện của cả hai như vậy nên bây giờ có nhân có duyên như vậy. Xúc động Chánh Pháp, tỳ kheo Na-tiên qùy xuống dưới chân các bậc tôn trưởng:

    - Quý ngài đã khổ tâm vì đệ tử , vì nhân duyên của chính đệ tử mà từ lâu đệ tử không thấy, không biết. Vậy xin quý ngài tha thứ tất cả lỗi lầm của đệ tử dù cố ý hay vô tình mà xâm phạm đến quý ngài!

    Tiếng "lành thay, lành thay" vang lên. Khi Na-tiên ngửng đầu thì chẳng còn ai ở đấy nữa, hang động vắng tanh, lạnh lùng... dường như chỉ còn thoảng mùi hoa hương vi diệu mà chư thiên rải xuống cúng dường.

    Ngơ ngẩn, xuất thần, Na-tiên đảnh lễ hang động Rakkhita lần cuối cùng rồi sửa lại y bát xuống núi theo con đường hạnh nguyện.


  3. #23
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    2.3. Thấp thoáng bóng SƯ TỬ


    Nhắc lại chuyện vua Mi-lan-đà.

    Sau khi đi hỏi đạo, vấn đạo, tất cả các bà-la-môn, sa môn hữu danh trong quốc độ, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thất vọng vì chẳng ai thỏa mãn được cho ngài vài câu, huống hồ là đi sâu vào giáo pháp! Chán nản, ngài đành vùi đầu vào chính sự, rảnh rỗi, ngài lại xem kinh, đọc sách, suy tư. Đức vua thấy rằng, tư tưởng của đạo Phật rất uyên thâm, hầu như nói ra được tòan bộ về đời sống con người, sự vui khổ cũng như sự sống chết của nó. Nhưng giáo pháp ấy cũng hàm tàng biết bao nghi vấn mà tri thức của ngài không với tới được, không kiến giải được. Ôi! hỏi ai bây giờ? Các bậc A-la-hán thật sự vắng mặt trên cuộc đời này rồi sao?

    Đã bao năm, nhốt mình trong cung cấm, đức vua cũng không nhớ nữa. Hết xuân khứ rồi đông lai, tuổi già lại đến mà vấn đề "tử sinh đại sự" không giải quyết được thì phỏng đời sống này còn có tích sự gì!

    Hôm kia, khi nhà vua đang dạo chơi trong vườn thượng uyển thì có một vị đại thần tìm đến xin được ra mắt ngài. Đức vua cho phép viên đại thần cùng ngồi dưới bàn đá bên gốc cây sàla tỏa bóng xanh mát.

    - Tâu đại vương! Hạ thần thấy một hiện tượng rất lạ lùng.

    Đức vua ưu ái ban cho viên lão thần một chung ngự tửu rồi phán:

    - Khanh cứ nói đi!

    - Hạ thần thu lượm rất nhiều nguồn tin khác nhau, đều là những nguồn tin đáng tin cậy. Rằng là các chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện trước đây hoang tàn, đổ nát ở nhiều nơi, bây giờ đang được xây dựng lại quy mô hơn, tráng lệ hơn!

    Đức vua thóang nhăn mày, nhưng lại nói:

    - Điều ấy tốt thôi! Bản tâm của trẫm cũng thấy rõ đạo Phật xứng đáng được như vậy.

    - Rồi Tăng lữ không biết từ đâu xuất hiện mà đông đúc thế không biết!

    - Còn các sinh hoạt khác?

    - Cận sự nam nữ hai hàng trở lại chùa sinh hoạt còn đông đảo hơn trước đây, với những lễ như: cầu an, cầu siêu, an vị Phật, trai tăng, để bát, thọ bát quan trai giới, nghe thuyết pháp v.v...

    - Khanh còn nghe gì nữa chăng?

    - Tâu, nghe đâu hiện có rất nhiều bậc Thánh nhân xuất hiện, họ đều là các bậc A-la-hán có nhiều thần thông; ngoài ra còn có hằng chục vị pháp sư siêu việt có mặt đó đây để chủ trì các buổi thuyết giảng, có nơi đông đến hằng chục ngàn người nghe.

    Đức vua nghe đến đây bỗng thấy rạo rực trong người, hưng phấn nói:

    - Thế là hay lắm! Vậy trong kinh đô ta thì thế nào? Đã mấy năm nay trẫm không hề ra ngoài.

    - Tâu, ngôi chùa Sankheyya to lớn, hùng vĩ ở kinh đô bao năm nay chỉ có mấy vị sư già kinh kệ, nhang khói; mấy tháng nay có vị trưởng lão tên là Àyupàla dẫn Chư Tăng từ đâu về đông hơn cả một trăm vị. Thiện nam tín nữ lục tục kéo tới cúng dường, nghe pháp.

    Đức vua Mi-lan-đà chợt đứng dậy, niềm vui vỡ òa theo với lời nói:

    - Hay lắm ! Vậy trẫm lại được dịp đi hỏi đạo nơi vị đại đức Àyupàla ấy. Ôi! Hạnh phúc thay!

    Thế rồi, hôm sau đức vua cho người đến chùa Sankheyya thông báo trước rồi cùng với tùy tùng xa mã, ngự giá lên đường. Rất kính trọng chốn Phật điện, đức vua ra lệnh ngừng xe ở ngoài cổng, rồi cùng với năm trăm tùy tùng, thị vệ chậm rãi đi bộ vào chốn thiền môn. Các vị sư thị giả lịch thiệp dẫn đức vua vào gặp đại đức Àyupàla, đang chờ ngài ở giảng đường mênh mông, rộng lớn, có khả năng dung chứa cả hằng vạn người.

    Sau khi chào hỏi cung kính, xã giao, yên vị chủ khách rồi, đức vua hỏi:

    - Bạch đại đức! Sự xuất gia của ngài đây có lợi ích như thế nào? Cao quý như thế nào?

    Trưởng lão Àyupàla đáp:

    - Tâu đại vương! Người xuất gia có ba điều lợi ích và cao quý như sau: nhờ thọ trì giới, người ấy thường lánh xa điều ác, thành tựu điều lành, tăng trưởng điều lành, người ấy sẽ trở thành một con người đức hạnh. Đấy là sự lợi ích và cao quý thứ nhất. Thứ hai, nhờ thực hành thiền định, người ấy tìm được sự quân bình và yên tĩnh tâm hồn, người ấy sẽ không còn bị tham sân nung đốt, quấy nhiễu nữa. Thứ ba, nhờ thực hành thiền quán mà người ấy phát sanh trí tuệ, viên mãn trí tuệ... để lần lượt chứng đắc đạo quả Thánh nhân, chấm dứt khổ đau, phiền não...

    Đấy là ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn của người xuất gia, tâu Đại vương!



  4. #24
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hài lòng rồi nói:

    - Trẫm rất hoan hỷ về cách đáp vắn tắt nhưng đầy đủ của đại đức. Nhưng trẫm còn thắc mắc rằng, là người cư sĩ tại gia có thể thực hành để gặt hái ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn ấy chăng?

    - Có thể được, tâu đại vương !

    - Xin đại đức từ bi chỉ giáo cho !

    - Người xuất gia nhờ tu tập theo giới định tuệnên gặt hái được ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn. Còn người cư sĩ tại gia dù họ tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền, nhưng họ còn có cơ hội nghe Pháp mà tăng trưởng trí tuệ. Bố thí có công năng tạo trữ phước báu, mở rộng tấm lòng và học hạnh xả ly. Thọ trì ngũ giới hoặc bát quan trai giới làm cho con người trở nên hiền thiện, đức hạnh. Tham thiền có công năng làm cho tham sân lặng yên. Và nghe pháp có thể khai mở trí tuệ, chứng đắc các đạo quả Thánh nhơn . Như vậy, người cư sĩ tại gia cũng có thể thực hành và thành tựu ba điều lợi ích, cao quý ấy, tâu đại vương !

    - Đại đức nói vậy thì có gì làm bằng chứng?

    - Có chứ, tâu đại vương! Lúc Đức Thế Tôn thuyết về Túc sanh truyện, nhất là truyện kể về thái tử Vessantara với 700 đại thí, ở gần cửa thành Sankassa, hằng chục ngàn cư sĩ dự nghe đều đắc được quả Thánh, tâu đại vương!

    Đức vua Mi-lan-đà chợt cất lời tán thán:

    - Ôi! Thật là vi diệu! Hôm nay nhờ đại đức khai mở kiến thức cho trẫm thấy rõ răng: chỉ nghe Pháp thôi cũng có thể thành tựu được đạo quả Thánh nhân, không kể là xuất gia hay tại gia!

    - Đúng thế, tâu đại vương!

    Bất ngờ nhất, đức vua Mi-lan-đà hỏi vặn lại:

    - Thế thì, thưa đại đức! Sự xuất gia của ngài và của hơn trăm vị tỳ khưu trong ngôi chùa Sankheyya này, trong khắp quốc độ này, quả thật là vô ích, rỗng không, chẳng lợi ích gì ráo, chẳng cao thượng gì ráo. Vì sao vậy? Vì làm một tại gia cư sĩ cũng có thể thành tựu ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn? Thưa, có phải vậy chăng?

    Trưởng lão Àyupàla Phật học uyên thâm nhưng không sở trường về tranh luận, không nắm rõ những câu hỏi nom có vẻ bình thường nhưng ẩn dấu nhiều gút mắc, nên ngài đã không trả lời được, nín lặng.

    Đức vua Mi-lan-đà còn tấn công tiếp, không khoan nhượng:

    - Như vậy, giống dòng của sa môn Thích tử xuất gia, giữ gìn trai phạn nghiêm cẩn, không dùng quá ngọ là vì đã tạo trữ những việc làm xấu xa từ trước, nghiệp còn dư sót nên kiếp này phải bị trả quả ăn mỗi ngày một bữa, có phải thế chăng? Có phải các vị xuất gia ấy trước đây đã cướp đoạt món ăn của kẻ khác, bỏ đói kẻ khác nên kiếp này phải ăn ít lại để trả nợ mình đã gieo?

    Có một số các vị xuất gia khác, theo hạnh đầu đà sống đời không nhà cửa, ngụ ở cội cây, rừng, nghĩa địa, chỗ không có mái che ... trông rất là tội nghiệp. Tại sao thế? Các vị ấy trước đây lỡ gây nhân trộm cướp, đốt phá xóm làng, dỡ nhà cửa của kẻ khác, cướp đoạt nhà cửa của kẻ khác làm cho người ta không có mái che trên đầu, chẳng còn nhà để ở; nên kiếp này, suốt đời phải bị trả quả xấu do nghiệp mình đã làm, chứ cao thượng cái nỗi gì?

    Có rất nhiều vị thọ đầu đà bậc thượng, suốt đời ngăn oai nghi nằm, họ cũng chẳng cao thượng gì đâu! Tại sao? Vì họ đã từng làm trộm cướp, sau khi đón đường tước giật của cải, tài sản của kẻ lữ hành còn bắt trói họ, buộc hai cánh tay vào sau, bắt họ ngồi không cho họ nằm! Thế đấy, gây nhân sao thì gặt quả vậy chẳng sai trật tí nào.

    Thưa đại đức! Vậy những giới, những định của các bậc sa môn xuất gia chẳng hơn gì người tại gia, mà trái lại, còn tệ hơn nữa vậy. Sống đời tại gia được phước báu nhiều hơn; được thọ hưởng ngũ dục nhưng rồi cũng đắc đạo quả Thánh nhân như ai. Có phải thế không, đại đức hãy trả lời cho trẫm nghe đi?

    Trưởng lão Àyupàla thấy lập luận của nhà vua không đúng với sự thật, không đúng với vận hành nhân quả qua các kiếp sống, nhưng vì không có biện tài nên ngài không đáp được, đành ngồi giữ im lặng của bậc Thánh.

    Một vị lão thần trong năm trăm người tùy tùng tâu rằng:

    - Thưa Đại vương! Theo hạ thần được biết, ngài đại đức trưởng lão thâm uyên Phật học, từng thuộc lòng năm bộ kinh Nikàya, nhưng vì do không được lợi khẩu, lợi trí nên không đáp được đấy thôi. Ngưỡng mong đại vương mở lượng hải hà dung thứ!

    Lòng cao ngạo chợt khởi lên, đức vua Mi-lan-đà nói to, giọng như sấm động:

    - Chẳng phải chỉ riêng có đại đức đây không đáp được, mà toàn cõi châu Diêm-phù-đề này cũng thế, chẳng có sa môn nào đáp được đâu. Tất cả đều rỗng không, điêu tàn, hoang phế... là kiến thức và trí óc của các sa môn Thích tử đời nay! Cho dẫu họ có tự xưng mình là bậc A-la-hán, là bậc Chánh Đẳng Giác đi chăng nữa thì cũng ngồi mà toát mồ hôi vì những câu hỏi của trẫm đưa ra!

    Trưởng lão Àyupàla tự nghĩ: "Đúng là ta chẳng thể nào soi sáng vấn đề cho đức vua dầu kinh điển ta nắm vững. Các vị đại tôn túc đã nói rất rõ rằng, lúc cần thiết, tỳ kheo Na-tiên sẽ có mặt ở đây, sẽ dùng trí tuệ biện tài để khuất phục đức vua này. Trách nhiệm bước đầu của ta thế là xong."

    Từ giã chùa Sankheyya, đức vua vô cùng buồn bã. Ba hôm sau lại có vị đại thần tên là Nemittiya vào tâu với đức vua:

    - Mấy năm nay hạ thần có nghe danh một vị Thánh tăng tên là Na-tiên, còn đang độ thanh xuân nhưng sức học bao trùm thiên hạ. Vị ấy xuất thân trong gia đình bà-la-môn, thuở mới bảy tuổi đã thông suốt Tam Phệ-đà luôn cả chú giải cùng năm bộ sách truyền thống của tôn giáo này. Thế rồi, vị ấy từ bỏ truyền thống, bao năm tu học trong nhiều hang động ở tuyết sơn và các thảo am dưới chân ngọn Hymalaya. Vị ấy đã thọ giáo chân truyền từ các bậc đại ẩn sĩ. Sau đó, mới hơn hai mươi tuổi đầu, vị ấy đã được các bậc đại sư phụ cho xuống núi. Từ đó, suốt từ miền đông đến miền nam, chùa chiền được chỉnh tu, am thất, tự viện mọc lên, Tăng chúng từ đâu đổ về, những chiếc y vàng chói lọi dày đặc khắp các thành phố, thị trấn, hang cùng ngõ hẻm...

    Tâu đại vương! Vị ấy quả thật có thần cơ diệu toán, phục hưng Phật giáo rất có chiến lược và chiến thuật. Vị ấy đánh ngoài vào trong và hiện đang bao vây kinh đô của đại vương! Cuộc luận chiến cách đây mấy hôm ở ngôi chùa Sankheyya mà đại vương đã gặp, đấy chỉ là một đội quân "tiền trạm", thăm dò thực lực của đại vương đấy thôi!



  5. #25
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    Đại thần Nemittiya vốn là viên võ tướng nên cách trình bày, ngôn ngữ nhuốm mùi trận mạc. Vừa nghe đến tên Na-tiên, đức vua đã cảm thấy xao xuyến, rúng động cả châu thân, không biết tại sao!

    Vị đại thần vô tình không hay biết, cứ thao thao bất tuyệt:

    - Vị Thánh Tăng Na-tiên ấy từ nơi này sang nơi khác, lần lượt luận thắng các danh sĩ bà-la-môn, lần lượt khai đàn thuyết giáo độ cho rất nhiều tu sĩ và thiện nam tín nữ. Đi đâu, vị Thánh Tăng ấy cũng rất đông đảo đệ tử tùy tùng cùng đồ chúng. Người ta nói rằng dung mạo vị ấy đẹp như đức Ànanda, là vị thị giả của Đức Phật thời sinh tiền, đạo hạnh và trí tuệ thì đúng là tôn giả Sariputta, đại đệ tử trí tuệ đệ nhất của Phật tổ hóa sanh!

    Tâu đại vương! Hiện tại, vị Thánh Tăng ấy với đông đảo tùy tùng vừa đến chùa Sankheyya sáng nay, kinh đô Sàgala của đại vương đã bị hằng trăm ngàn tu sĩ áo vàng đánh chiếm mất rồi!

    Bần thần, đức vua đứng dậy làm rơi vỡ một tách trà, trong lúc ấy, viên đại thần tên là Devamantiyà xuất hiện:

    - Tâu đại vương!

    - Cứ nói - đức vua phán.

    - Vị Thánh Tăng Na-tiên mà quan thượng thư vừa trình bày là đúng sự thật. Vị ấy thông suốt Tam Phệ-đà, thông suốt Tam Tạng là chuyện không phải ngoa truyền. Không kể vị ấy, chính những đệ tử của vị ấy, mới xuất gia tỳ kheo hai, ba năm mà cũng rất nhiều vị thuộc lòng một tạng, hai tạng. Họ chẳng sợ hãi một ai cả, chia nhau từng người đi hoằng pháp đó đây.

    Đức vua Mi-lan-đà đã lấy lại bình tĩnh, chậm rãi hỏi:

    - Các khanh có nghe nói đến sở học và trí tuệ của vị ấy chăng?

    - Tâu, đại vương thông suốt mười tám môn học nghệ, thì nghe đâu vị ấy còn thuộc vào loại tổ sư! Như vậy mọi kiến thức về triết học, thắng luận, thiên văn, địa lý, toán học, văn chương, sử truyện, ngữ ngôn, cú pháp, cổ văn, tử vi, chiêm tinh v.v... thì đại vương chớ nên đụng đến làm gì! Còn Phật học thì kiến thức của vị ấy nghe đâu được một trăm lẻ tám vị Thánh Tăng A-la-hán trên Hy mã lạp sơn trao truyền. Vị ấy còn là bậc lợi khẩu, lợi trí, lợi tuệ; ăn nói lại du dương, trầm bỗng, lưu loát; quần chúng như bị mê hoặc bởi từ nhiều vẻ đẹp: kiến thức, tâm hồn cùng tướng mạo của vị ấy nữa.

    Tâu đại vương! Nghe đâu, các vị chư thiên, Tứ đại Thiên vương, Đế thích Thiên vương cũng bị vị ấy nhiếp phục, thâu làm đệ tử. Nếu thế, vị ấy muốn làm thầy không những chỉ cõi người mà còn làm thầy cả cõi trời nữa!

    Vị ấy hiện giờ đang ở trong kinh đô của đại vương, chùa Sankheyya; Tăng chúng và thiện nam tín nữ từ mười phương đang kéo nhau về đấy để nghe pháp, cúng dường. Năm con sông đổ tuôn về biển như thế nào thì mọi ngã đường người ta đổ tuôn về chùa Sankheyya cũng dường thế ấy!

    Đức vua Mi-lan-đà đi tới đi lui, đi lui rồi đi tới, trời không nóng mà ngài chảy mồ hôi. Đức vua đã cảm thấy sợ hãi thật sự, mọi biện pháp trấn an, làm chủ cảm xúc chợt trở nên vô ích khi nghe kể về vị Thánh Tăng tên là Na-tiên!

    Thật lâu sau, đức vua mới nói:

    - Các khanh hãy đến chùa Sankheyya, nói với đại đức Na-tiên rằng, là hoàng đế Mi-lan-đà sẽ đến thăm đại đức và Tăng chúng ngay ngày mai.

    Thế rồi hôm sau, đức vua sửa soạn long xa cùng với thị vệ tùy tùng năm trăm người, ngự giá đến chùa Sankheyya. Khi ấy, ngài Na-tiên đã chuẩn bị sắp xếp đâu vào đó sẵn sàng: ngài đang ngồi giữa giảng đường to lớn cùng với tám mươi ngàn tỳ khưu! Sở dĩ ngài Na-tiên tập trung số Tăng chúng đông đảo như vậy là muốn đánh mạnh vào tâm lý của đức vua; vì uy lực của Tăng thường làm cho cả loài chúa sơn lâm kiêu hùng nhất cũng phải cụp đuôi!

    Và quả thật như vậy, vừa bước vào, ngó lên giảng đường, tóc đức vua đã dựng ngược! Tăng chúng lớp lớp uy nghi, trang nghiêm ngồi bất động, trầm mặc tạo nên một uy lực làm cho đức vua run sợ thật sự!

    Đức vua hỏi nho nhỏ vị đại thần thân tín:

    - Này Devamantiya! Tăng chúng ở đâu mà đông đúc kinh khiếp như thế?

    - Tâu, hạ thần cũng không biết nữa, chắc là họ dùng thần thông biến hóa ra!

    - Hoang đường!

    - Vậy thì hạ thần xin tâu rõ: bốn mươi ngàn vị ngồi ở đằng sau đều là tân tỳ kheo, thọ đại giới từ một hạ đến sáu hạ! Bốn mươi ngàn vị ngồi đằng trước cao hạ hơn, từ tám hạ đến hai mươi hạ.

    Tuy nhiên, dầu nhỏ, dầu lớn, họ đều là tùy tùng, đang theo học với vị Thánh tăng Na-tiên cả thảy! Đại vương đã khiếp chưa, họ đều quy giáo, khâm phục ngài Na-tiên!

    - Sao khanh biết rõ vậy?

    - Tâu, vì khâm phục và sợ hãi vị ấy nên hạ thần đã điều tra tận tường!

    Đức vua Mi-lan-đà lúc ấy như con voi bị vây khổn giữa bầy tê ngưu, như loài rồng nằm co lại trước móng vuốt của những con chim đại bàng, như con chó chóc bị con trăn quấn chặt và sắp nuốt, như con gấu ngựa bị trâu rừng bao vây, như con ếch bị con rắn rượt đuổi, như con nai bị sập bẫy thợ săn, như con chuột run sợ trước oai lực của mèo, như loài tà tinh quỷ mị ở trong tay ông thầy pháp, như mặt trăng bị nhật thực ăn nuốt... Hoặc như rắn bị bắt trong giỏ, chim bị nhốt trong lồng, cá bị dính lưới, như trẻ đi lạc trong rừng sâu nhiều thú dữ, như dạ xoa có tội gặp mặt Tỳ sa môn Thiên vương (Vessavanna), như vị trời hết thọ mạng rời thiên cung v.v... Cũng như thế ấy là sự sợ hãi của đức vua khi đối diện với tỳ kheo Na-tiên cùng với Tăng chúng của ngài. Tuy nhiên, vốn là người trí dũng song toàn, văn võ toàn tài, đức vua đã vội trấn an bằng ý nghĩ như vầy: "Đại đức này dầu có ghê gớm đúng như lời đồn đãi, với khí thế uy mãnh, hùng lực hôm nay, cũng không làm gì nỗi ta đâu!"

    Rồi ngài mỉm cười nói với viên đại thần thân tín:

    - Khanh khỏi cần giới thiệu. Giữa tám mươi ngàn vị tỳ kheo, trẫm có thể nhận ra ngay ai là Na-tiên đại đức.

    Và quả đúng như vậy, tỳ kheo Na-tiên ngồi giữa như một vầng trăng sáng bởi diện mạo uy nghi và cốt cách tỏa ra, chẳng thể lầm lẫn được.

    Quan đại thần Devamantiya gật đầu:

    - Đúng thế, tâu đại vương! Ngài đã nhận ra chúa sư tử lông vàng rồi vậy.

    Dầu đã tự trấn áp, tâm của đức vua vẫn bị chao đảo, như bị sóng đánh, nó không thể lặng yên: ngài đã không làm chủ được mình trước cuộc luận tài vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người!

    Cuộc vấn đáp giữa vua Mi-lan-đà và tỳ kheo Na-tiên bắt đầu!



  6. #26
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP

    (Gồm 244 Câu Hỏi)

    001-020

    1. Danh


    Đức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện:

    - Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng?

    Tỳ kheo Na-tiên đã quan sát vị vua hữu danh đã từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, vì ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn gì khi nhiếp phục đức vua này.

    Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp:

    - Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe.

    - Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hãy nghe đi.

    - Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hãy nói đi!

    - Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi.

    - Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi.

    - Ngài đáp như thế nào?

    - Đại vương hỏi như thế nào?

    Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường... đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô "lành thay" vang rền như sấm dội.

    Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp:

    - Bạch đại đức, ngài tên gì?

    - Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. Còn cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên gì đi nữa thì nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ gì đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có gì là "tôi" là "của tôi" như ngã chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rõ!

    Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh:

    - Xin tất cả các vị hãy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-tiên vừa nói rằng, cái tên Na-tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái gì là Na-tiên ở đấy, chẳng có gì là "tôi" và "của tôi" cả. Mọi người nghe rõ rồi đấy chứ?



  7. #27
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    Rồi quay sang tỳ kheo Na-tiên , đức vua phản vấn:

    - Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là "ta" và "của ta" thì những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v... thì ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai trì giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm gì cả! Và như vậy thì nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, hòa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-tiên là gì đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rõ rồi đấy chứ.

    - Tâu đại vương! Bần tăng nghe rõ rồi!

    - Người nghe đó có phải là Na-tiên chăng?

    - Tâu, không phải.

    - Chẳng có gì là Na-tiên cả sao?

    - Vâng, chính thế!

    - Tóc, lông, móng, răng da... kia là Na-tiên sao?

    - Tâu, đại vương, không phải.

    - Thịt, tủy, gân, xương là Na-tiên chăng?

    - Thưa, không phải!

    - Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-tiên chăng?

    - Tâu, Đại vương, không phải.

    - Hay lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Na-tiên?

    - Tâu, không phải thế.

    - Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-tiên?

    - Tâu, cũng chưa chắc là vậy.

    Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn:

    - Bạch đại đức! Hồi nãy giờ trẫm đã cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v... có phải là Na-tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. Vì khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, thì chẳng có cái gì được gọi là Na-tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quý vị hãy làm chứng cho trẫm đấy nhé!

    Đại đức Na-tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, lòng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói gì ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng lòng từ.



  8. #28
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-tiên mới chậm rãi nói:

    - Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng vì tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt?

    - Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không!

    - Thế ra đại vương tới đây bằng xe.

    - Vâng, trẫm đến bằng xe.

    Đại đức Na-tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người:

    - Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hãy xác nhận cho: đức vua đã nói rằng ngài đến đây bằng xe!

    Rồi quay sang đức vua, ngài Na-tiên hỏi lại:

    - Đại vương bảo rằng đại vương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ?

    - Chắc chắn là thật.

    - Vậy đại vương hãy nói cho rõ về cái xe ấy! Cái gì gọi là xe? Cái gọng chăng?

    - Không phải.

    - Hay cái trục, cái bánh là xe?

    - Cũng không phải.

    - Cái thùng, cái mui là xe chăng?

    - Chẳng phải đâu.

    - Hoặc roi, dây cương là xe?

    - Chẳng phải.

    - Thế chắc cái ách, căm xe?

    - Không phải nốt.

    - Vậy cái gì là xe?

    Đức vua Mi-lan-đà im lặng.

    Đại đức Na-tiên cất giọng chậm rãi:

    - Tâu đại vương! Bần tăng đã đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái gì là xe thì đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái gì được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đại vương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hãy làm chứng cho!

    Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng thì cung thỉnh đức vua tìm cách luận thắng đối phương.

    Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói:

    - Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hãy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v... nếu nằm riêng lẻ thì không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại thì giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối?

    - Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn... nếu chúng nằm riêng lẻ thì làm sao được gọi là Na-tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại thì giả danh gọi là Na-tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-tiên thì đâu phải lời nói dối?

    Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết lòng tán thán đại đức Na-tiên:

    - Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng?

    Cả đại giảng đường vang lên tiếng "lành thay, lành thay" làm chấn động cả kinh đô Sàgala.



  9. #29
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    2. Con số hạ lạp


    Để cho không khí im lắng lại một lúc, đức vua hỏi tiếp:

    - Đại đức năm nay được bao nhiêu hạ lạp rồi?

    - Thưa, bần tăng tu mới được bảy hạ.

    - Con số 7 ấy là đếm luôn cả đại đức vào trong, hay là chỉ đếm cái hạ không thôi? Con số 7 ấy là con số của đại đức hay con số của hạ?

    Khi ấy, đức vua đang mặc y phục vương giả với những đồ trang sức quý báu, cái bóng sáng rỡ của ngài rọi vào trong chai đựng nước ai cũng trông thấy rõ ràng. Đại đức Na-tiên đưa tay chỉ, rồi hỏi ngược lại rằng:

    - Tâu đại vương! Cái bóng với đồ trang sức rực rỡ trong chai nước kia là đại vương, hay người đang đối thoại với bần tăng đây là đại vương?

    - Trẫm đây mới thật là trẫm, còn cái bóng kia nương nơi trẫm mà có. Nó có là bởi trẫm.

    - Cũng thế, tâu đại vương! Số 7 kia là số hạ lạp chứ không phải bần tăng, nhưng nó có được là do nương gá nơi bần tăng. Nó có là bởi bần tăng.

    - Hay lắm! Quả thật đúng như vậy! Cục đá quăng qua thì cục chì ném lại. Thật thú vị làm sao!



  10. #30
    NỤ Avatar của hoamacco
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    706
    Thanks
    395
    Thanked 305 Times in 189 Posts


    3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả?



    Sau hai câu hỏi mở đầu, đức vua biết là gặp được bậc trí tuệ, nên ngài muốn đi sâu vào giáo pháp, bèn ướm lời:

    - Bạch đại đức! Trẫm rất thích đàm đạo với đại đức về nhiều vấn đề khác nữa, nhưng không rõ đại đức có hoan hỷ không?

    - Tâu đại vương! Cái đó còn tùy thuộc nơi đại vương! Nếu đại vương đàm thoại mà lấy tư cách một Trí giả (Panditavàda), thì bần tăng sẵn sàng hầu đáp. Nhưng nếu đại vương đứng trên tư cách mình là bậc Vương giả (Ràjavàda), thì xin thưa thẳng, bần tăng sẽ không thể hầu đối được.

    - Tư cách một Trí giả là như thế nào?

    - Tâu đại vương! Phàm là Trí giả nói chuyện với nhau, bao giờ cũng nói lời ngay thật, muốn trao đổi hiểu biết, soi sáng hiểu biết cho nhau. Trong câu chuyện, nếu có những lý lẽ đưa ra, dù đúng, dù sai, dù cao, dù thấp, dù phải, dù trái v.v... các bậc Trí giả không bao giờ vì thế mà phiền lòng hay nóng giận. Họ tôn trọng nhau, dù ý kiến, tư tưởng có bất đồng chăng nữa. Thắng, bại không hề làm cho họ chau mày, mà chính chân lý, sự thật mới thuyết phục được họ. Nếu gặp phải đối phương là tay lợi trí, lợi khẩu, hùng biện đại tài, bậc Trí giả không vì thế mà tìm cách cản ngăn, áp chế, bắt ngừng nói, đuổi ra khỏi chỗ ngồi; hoặc lươn lẹo dùng những xảo thuật miệng lưỡi, ngụy biện nhằm tranh thắng cho kỳ được! Đấy là cốt cách, phong thái đầy hiểu biết của bậc Trí giả, tâu đại vương!

    Đức vua gật đầu mỉm cười:

    - Đúng bậc Trí giả là vậy! Còn tư cách của bậc Vương giả là thế nào, thưa đại đức?

    - Tâu đại vương! Bậc Vương giả vì quen sống trong quyền lực, nhất hô bá ứng, nên khi đối thoại thường quen áp đảo, bắt buộc kẻ khác chấp thuận quan điểm của mình. Nếu có ai đó nói một câu không vừa ý, hoặc đối nghịch với tư kiến của mình; bậc vương giả sẽ không hài lòng, sẵn sàng dùng quyền uy của mình mà bắt tội, chẳng dựa vào lẽ phải và công bằng. Những cuộc nói chuyện như thế rồi chẳng đi đến đâu, vì thái độ và lối xử sự của các bậc Vương giả đã tự ngăn chặn con đường về với sự thật, đốt cháy mối cảm thông và cắt đứt sự hiểu biết. Đối thoại trong tư thế bậc Vương giả thường rơi vào một chiều, phiến diện và ngõ cụt như vậy đấy, tâu đại vương!

    Đức vua Mi-lan-đà lại gật đầu nữa:

    - Hay lắm, thưa đại đức, trẫm đã hiểu rõ rồi. Trẫm chẳng thích cách nói chuyện của người Vương giả, trái lại, trẫm sẽ cố gắng xem mình là người Trí giả để hầu chuyện với đại đức. Khi đối thoại, đại đức hãy quên cái hào nhoáng cao sang bên ngoài của trẫm đi, mà hãy tiếp xúc với chính con người của trẫm thôi. Đại đức cứ nói chuyện một cách tự nhiên, bình thường như đại đức nói chuyện với chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni, cận sự nam, nữ v.v...; thậm chí như nói chuyện với người hộ tự, người quét rác, người nấu ăn trong ngôi chùa này cũng được vậy, trẫm không bắt lỗi gì đâu!

    - Tâu đại vương! Ngài đã phán những lời rất cao quý, rất hay, rất đúng đắn, đúng là lời của một bậc minh quân vĩ đại nhất trên thế gian. Bần tăng rất khâm phục, và bần tăng sẽ rất hoan hỷ, thoải mái để hầu chuyện với Đại vương như là một bậc Trí giả

    - Vậy đại đức hãy nghe Trẫm hỏi.

    - Tâu, xin ngài cứ hỏi đi?

    - Bạch, trẫm đã hỏi xong rồi.

    - Thưa, bần tăng đã đáp rồi.

    - Đại đức đáp như thế nào?

    - Đại vương hỏi như thế nào?

    Đức vua Mi-lan-đà vì vui thích mà thử trí tuệ của đại đức Na-tiên đó thôi, các câu hỏi này chỉ lặp lại, nhưng giảng đường thì mọi người hoan hô, tán thán vang rân.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 5 người đọc bài này. (0 thành viên và 5 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •