Một là, bảo vệ, giữ gìn thân thể được khang kiện.
Hai là, công năng tăng tuổi thọ.
Ba là, tăng sức mạnh.
Bốn là, đóng hẳn tội lỗi.
Năm là, không cho mất danh dự, danh vọng.
Sáu là, đem lại danh dự, danh vọng.
Bảy là, làm cho tiêu mất sự "không hoan hỷ".
Tám là, làm cho phát sanh sự hoan hỷ.
Chín là, dứt hẳn sự sợ hãi.
Mười là, tăng lòng dũng cảm.
Mười một là, dứt trừ lười biếng.
Mười hai, phát sanh tinh tấn.
Mười ba, dứt trừ tham luyến.
Mười bốn, dứt trừ sân hận.
Mười lăm, dứt trừ si mê.
Mười sáu, dứt trừ ngã chấp.
Mười bảy, dứt trừ suy nghĩ.
Mười tám, làm cho tâm nhứt hành (định).
Mười chín, làm cho tâm ưa thích nơi thanh vắng.
Hai mươi, làm cho phát sanh sự tươi vui.
Hai mươi mốt, phát sanh phỉ lạc.
Hai mươi hai, làm tăng thêm sự tôn kính.
Hai mươi ba, làm cho phát sanh lợi lộc (lợi lộc phát sanh quả).
Hai mươi bốn, làm cho vừa lòng.
Hai mươi lăm, giữ gìn đức nhẫn nhục.
Hai mươi sáu, dứt hẳn lậu hoặc hữu vi.
Hai mươi bảy, không cho tạo nhân tái sanh trong tam giới.
Hai mươi tám, được kết quả của sa môn.
Hai mươi tám ân đức của thiền đầy đủ là như thế đó, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là to lớn và quảng đại vậy thay! Nhưng trẫm còn một hoài nghi: Tại sao không nghe nói tới ân đức vô lậu, vô vi mà ở đấy dường như chỉ là hữu lậu, hữu vi, thưa đại đức?
- Đã gọi là thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả thì đều là hữu vi, tâu đại vương!
- Thế thì chư Phật không nhập thiền để thọ hưởng hạnh phúc giải thoát sao?
- Có chứ, nhưng nếu đã giải thoát thì không còn dính cả hai mươi tám ân đức hữu vi ở trên, tâu đại vương!
- Ồ, thật là thâm diệu dường bao!
- Tuy nhiên, tâu đại vương! Các chư Phật xuất hiện ở đời là vì sự lợi lạc cho chư thiên và loài người - nên các ngài thường nhập thiền, thường lui tới cõi thiền còn vì bốn nguyên nhân khác nữa. Bốn nguyên nhân này là nhằm để nêu gương tốt, nhằm giáo hóa chúng sanh, tâu đại vương!
- Xin đại đức bi mẫn cho nghe bốn nguyên nhân ấy?
- Thứ nhất, các ngài thường thân cận với thiền, vui thích với thiền vì thiền đem đến sự an lạc. Thứ hai, thiền thường tăng trưởng những đức tính tốt, cao quý, các tội lỗi không có cơ hội dấy sinh. Thứ ba, nếu có đắc một vài tầng thánh đạo rồi thì nhập thiền thường có công năng tiến hóa thêm trong các thánh đạo cao hơn. Bốn là, chư Phật hay ngợi khen những ai thường an trú trong thiền!
Tâu đại vương! Nếu đại vương lãnh hội hai mươi tám ân đức và bốn nguyên nhân của thiền như trên rồi - thì đại vương sẽ không còn nghĩ rằng Đức Phật là còn tu tập, còn rèn luyện, còn tự huấn luyện nữa. Chư Phật đã là bậc thầy trong tam giới, các ngài đã giác ngộ và giải thoát trọn vẹn rồi, công hạnh đã viên mãn rồi; các cấu uế phiền não đã tận diệt rồi thì mọi phận sự đã được buông bỏ xuống, mọi bổn phận với chính mình đã được giải quyết xong! Đại vương đã liễu thông điều ấy chưa?
- Thưa, liễu thông rồi! Nghĩa là vì còn thân tứ đại, còn ở trong hữu y dư nên chư Phật phải nuôi dưỡng thân tâm này trong thiền lạc, thiền quả vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người, phải vậy không đại đức?
- Thật là chính xác, cảm ơn đại vương!
- Không dám, cảm ơn đại đức!
--------------
[*] Ghi chú của Dịch giả: Thật ra, không phải ba tháng mà chỉ có 7 tuần:
- Tuần 1: Đức Phật thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, ngày cuối tuần Ngài suy niệm về thập nhị nhân duyên, chiều xuôi và chiều ngược.
- Tuần 2: Đức Thế Tôn đứng nhìn cây bồ đề suốt một tuần lễ không chớp mắt: Ngài tri ân cây bồ đề!
- Tuần 3: Ngài dùng thần thông tạo một con đường bằng ngọc giữa hư không rồi đi kinh hành suốt cả tuần trên ấy.
- Tuần 4: Ngài suy niệm về tạng Vi điệu pháp.
- Tuần 5: Ngài thọ hưởng hạnh phúc giải thoát. Cuối tuần, gặp một người Bà-la-môn ngã mạn và Ngài đã thuyết giáo đến cho người Bà-la-môn ấy. Theo chú giải Túc sanh truyện, trong tuần này, ba người con gái của Ma vương là Tanhà, Aratìvà, Ragà dùng nhan sắc quyến rũ Phật, nhưng thất bại.
- Tuần 6: Chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Có trận mưa rất lớn và Mãng xà vương quấn xung quanh Đức Phật 7 vòng để che mưa cho Ngài.
- Tuần 7: Chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát.