KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA.................................................. .....................................Quyển 54
__________________________________________________ _____________________________________
Quyển 54
XV. PHẨM BIỆN ĐẠI - THỪA 04
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải xa lìa mười pháp. Những gì là mười? Một là phải xa lìa nhà ở, hai là phải xa lìa Bí-sô-ni, ba là phải xa lìa nhà keo kiệt, bốn là phải xa lìa chúng hội tranh cãi, năm là phải xa lìa sự khen mình chê người, sáu là phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, bảy là phải xa lìa sự tăng thượng kiêu mạn ngạo nghễ, tám là phải xa lìa sự điên đảo, chín là phải xa lìa sự do dự, mười là phải xa lìa tham, sân, si.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải thường xa lìa mười pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa, hai là phải viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa, ba là phải viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa, bốn là phải viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa, năm là phải viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa, sáu là phải viên mãn Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Lại phải xa lìa sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải xa lìa tâm Thanh-văn, hai là phải xa lìa tâm Độc-giác, ba là phải xa lìa tâm nhiệt não, bốn là thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng bực bội lo lắng, năm là bỏ vật sở hữu tâm không lo buồn hối tiếc, sáu là đối với kẻ đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp như vậy và phải xa lìa sáu pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy, hai là phải xa lìa chấp đoạn, ba là phải xa lìa chấp thường, bốn là phải xa lìa chấp tướng, năm là phải xa lìa chấp nhơn kiến, sáu là phải xa lìa chấp danh sắc, bảy là phải xa lìa chấp uẩn, tám là phải xa lìa chấp xứ, chín là phải xa lìa chấp giới, mười là phải xa lìa chấp Thánh đế, mười một là phải xa lìa chấp duyên khởi, mười hai là phải xa lìa chấp trụ trước ba cõi, mười ba là phải xa lìa chấp tất cả pháp, mười bốn là phải xa lìa chấp như lý và chẳng như lý của tất cả pháp, mười lăm là phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật, mười sáu là phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp, mười bảy là phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng, mười tám là phải xa lìa kiến chấp nương vào giới, mười chín là phải xa lìa sự sợ hãi pháp không, hai mươi là phải xa lìa sự trái chống tánh không. Lại phải viên mãn hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải viên mãn sự thông đạt cái không, hai là phải chứng đắc sự viên mãn vô tướng, ba là phải viên mãn sự hiểu biết vô nguyện, bốn là phải viên mãn ba luân thanh tịnh, năm là phải viên mãn tâm bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước, sáu là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả các pháp và ở trong đó không có sự chấp trước, bảy là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước, tám là phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước, chín là phải viên mãn cái trí Vô-sanh-nhẫn, mười là phải viên mãn cái thuyết tất cả pháp đều qui lý nhất tướng, mười một là phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt, mười hai là phải viên mãn sự xa lìa các tưởng, mười ba là phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp, mười bốn là phải viên mãn sự xa lìa phiền não, mười lăm là phải viên mãn sự Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na (chỉ quán), mười sáu là phải viên mãn sự điều phục tâm tánh, mười bảy là phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh, mười tám là phải viên mãn tánh vô ngại trí, mười chín là phải viên mãn sự không ái nhiễm, hai mươi là phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.