DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 5/6 ĐầuĐầu ... 3456 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 41 tới 50 của 58

Chủ đề: Kinh Pháp Bảo Đàn

  1. #41
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Hành Tư Thiền Sư, họ Lưu, sanh ở An Thành, tỉnh Kiết Châu. Nghe nói Tào Khê giáo pháp thịnh hành, bèn đến tham lễ, hỏi: “Nên làm việc gì để khỏi lọt vào giai cấp?”

    Sư hỏi: “Ngươi đã từng làm việc gì?”

    Đáp: “Thánh đế cũng chẳng làm”.

    Sư hỏi: “Lọt vào giai cấp nào?”.

    Đáp: “Thánh đế còn chẳng làm, giai cấp nào mà có!”.

    Sư rất trọng, cho là pháp khí, cho làm quản chúng. Một hôm Sư nói: “Ngươi nên hóa độ một nơi, chớ cho đoạn dứt giáo pháp đốn ngộ này”.

    Hành Tư Thiền Sư đã đắc pháp, bèn về núi Thanh Nguyên ở Kiết Châu hoằng pháp, sau được vua sắc phong, hiệu là Hoàng Tế Thiền Sư.

    *
    * *


    Hoài Nhượng Thiền Sư, họ Đỗ ở Kim Châu. Lúc ban đầu đến lễ An Quốc Sư ở Tung Sơn, An Quốc Sư sai đến Tào Khê tham vấn. Nhượng đến lễ bái. Sư hỏi: “Từ đâu đến ?”.

    Đáp: “Tung Sơn”.

    Sư hỏi: “Cái vật gì mà đến như vậy?”.

    Nhượng trả lời chẳng được, nổi nghi tình trải qua tám năm, sau nói với Sư: “Nói tựa như một vật thì chẳng đúng”.

    Sư hỏi: “Còn có thể tu chứng chăng?”.

    Đáp: “Tu chứng thì chẳng phải không, ô nhiễm thì chẳng thể được”.

    Sư ấn chứng rằng: “Chỉ cái chẳng ô nhiễm này chư Phật đều hộ niệm, ngươi đã như vậy, ta cũng như vậy”. Nhượng hoát nhiên đại ngộ, bèn làm thị giả bên Sư mười lăm năm, ngày càng thấu triệt huyền chỉ thâm sâu. Sau đến núi Nam Nhạc, rộng truyền Thiền Tông, được vua sắc phong, hiệu Đại Huệ Thiền Sư.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  2. #42
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền Sư, họ Đới quê ở Ôn Châu. Thuở nhỏ tu học Kinh Luận, chuyên về pháp môn chỉ quán của Thiên Thai Tông, nhân xem Kinh Duy Ma Cật phát minh tâm địa (Kiến tánh). Bỗng gặp đệ tử của Sư là Huyền Sách đến thăm, luận đàm với nhau; thấy lời nói của Huyền Giác khế hợp với Chư Tổ, Huyền Sách hỏi: “Thượng Tọa đắc pháp nơi Thầy nào?”.

    Đáp: “Tôi nghe giảng Kinh Luận Đại Thừa, mỗi mỗi đều có Thầy truyền thừa, sau xem Kinh Duy Ma Cật ngộ tự tâm Phật, nhưng chưa có Thầy ấn chứng”.

    Huyền Sách nói: “Trước thời Phật Oai Âm Vương thì được, sau thời Phật Oai Âm Vương, không Thầy mà tự ngộ, ấy đều là thiên nhiên ngoại đạo”.

    Giác nói: “Vậy xin nhờ Thượng Tọa vì tôi ấn chứng”.

    Sách nói: “ Lời tôi chẳng đáng kể ở Tào Khê nay có Lục Tổ Đại Sư, các nơi đều tụ tập đến đó để thọ pháp, hễ đi thì cùng nhau đi”.

    Huyền Giác bèn cùng với Huyền Sách đến tham vấn. Khi đến gặp Sư, Huyền Giác đi nhiễu ba vòng rồi đứng lại chống tích trượng.

    Sư nói: “Bậc Sa Môn phải đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, Đại Đức từ đâu đến mà sanh đại ngã mạn!”.

    Giác đáp: “Sanh tử việc lớn, vô thường nhanh chóng”.

    Sư nói: “Sao chẳng thể cứu (tham cứu) cái pháp vô sanh, liễu ngộ cái chẳng nhanh chóng ấy ư?”.

    Đáp: “Thể tức vô sanh, liễu vốn chẳng chóng?”.

    Sư bèn ấn chứng: “Đúng thế, đúng thế!”. Lúc bấy giờ Huyền Giác mới trang nghiêm lễ bái, giây lát sau liền từ giã.

    Sư nói: “Sao về chóng thế?”.

    Đáp: “Tự vốn chẳng động há có chóng sao?”.

    Sư hỏi: “Ai biết chẳng động?”.

    Đáp: “Hòa Thượng tự sanh phân biệt”.

    Sư nói: “Ngươi thật được ý vô sanh”.

    Đáp: “Vô sanh há có ý sao?”.

    Sư hỏi: “Không ý ai biết phân biệt?”.

    Đáp: “Phân biệt cũng chẳng tác ý”.

    Sư nói: “Lành thay! Hãy ở lại một đêm”.

    Người thời ấy tôn Huyền Giác là “ Nhất Túc Giác”. Về sau Giác soạn bài “Chứng Đạo Ca” thịnh hành khắp thế gian. Sau được sắc phong là Vô Tướng Đại Sư, người đời tôn là Chơn Giác.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  3. #43
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Thiền Giả Trí Hoàng, tham học với Ngũ Tổ, tự cho mình đã được chánh thọ (chánh định), bèn chấp ngồi mãi trong am hơn hai mươi năm. Đệ tử của Sư là Huyền Sách hành cước đến Hà Bắc, nghe tên Trí Hoàng, liền đến am hỏi thăm. “Ông ở đây làm gì?”. Hoàng nói: “Nhập định”.

    Sách hỏi: “Ông nói nhập định, là có tâm nhập hay là không tâm nhập? Nếu nói không tâm nhập thì tất cả loài vô tình, cây cối ngói đá đều phải được định; nếu nói có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình cũng đều được định”.

    Hoàng nói: “Ta đang lúc nhập định chẳng thấy có cái tâm CÓ và KHÔNG”.

    Sách nói: “Chẳng thấy có cái tâm CÓ và KHÔNG tức là thường định, đâu có xuất nhập? Hễ có xuất nhập thì chẳng phải đại định”.

    Hoàng không trả lời được, một lúc sau mới hỏi: “Thượng Tọa nối pháp ai?”.

    Sách nói: “Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ Đại Sư”.

    Hoàng hỏi: “Lục Tổ lấy gì làm thiền định?”.

    Sách nói: “Thầy tôi nói: Tự tánh huyền diệu trạm nhiên, viên tròn tịch diệt, thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục trần phi thật, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền vô trụ, chẳng trụ nơi thiền tịch, tánh thiền vô sanh, chẳng khởi thiền tưởng (chẳng tác ý cho là thiền), tâm như hư không, cũng chẳng có cái số lượng của hư không”.

    Hoàng nghe nói như vậy bèn đến lễ Sư. Sư hỏi: “Thượng Tọa từ đâu đến?”. “Hoàng thuật lại nhân duyên gặp Huyền Sách”. Sư nói: “Thật đúng như Huyền Sách nói. Ngươi hễ tâm như hư không, chẳng chấp vào không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ý), Thánh phàm đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng như như, thì không lúc nào chẳng phải định vậy”.

    Trí Hoàng do đó đại ngộ, cái tâm sở đắc từ hai mươi năm đến nay đều tan rã chẳng còn hình bóng. Sau từ giã Sư về Hà Bắc hoằng pháp, khai hóa tứ chúng.

    *

    * *

    Có một đồng tử tên là Thần Hội, họ Cao, ở Tương Dương. Lúc mười ba tuổi từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ. Sư nói: “Tri thức từ xa đến khổ nhọc, có đem theo cái bản lai đến chăng? Nếu có bản lai thì phải biết chủ nhơn, thử nói xem!”.

    Hội đáp: “Lấy vô trụ làm bản, cái thấy tức là chủ”.

    Sư nói: “Sa di này hay nói càn!”.

    Hội lại hỏi: “Hòa Thượng tọa thiền thấy hay chẳng thấy?”.

    Sư cầm cây gậy đánh ba cái, hỏi : “Ta đánh ngươi có đau hay chẳng đau ?”.

    Đáp: “Cũng đau cũng không đau”.

    Sư nói: “Ta cũng thấy cũng chẳng thấy!”.

    Hỏi: “Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?”.

    Sư nói: “Cái thấy của ta thường thấy lỗi của tự tâm, chẳng thấy phải quấy tốt xấu của người cho nên cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu chẳng đau thì đồng với cỏ đá, nếu đau thì đồng với phàm phu, liền khởi sân hận. Ngươi vừa hỏi “Thấy, không thấy” là nhị biên (đối đãi), nói “đau, không đau” là sanh diệt, tự tánh ngươi còn chẳng tự thấy mà dám đùa người khác!”.

    Thần Hội bèn lễ bái cầu xin sám hối. Sư lại nói: “Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy cần phải hỏi thiện tri thức để chỉ đường, ngươi nếu tâm ngộ tức tự thấy tánh, phải y pháp tu hành. Nay ngươi mê chẳng thấy tự tâm, lại đến hỏi ta thấy hay không thấy, ta thấy tự ta biết, chẳng dính dáng cái mê của ngươi, ngươi nếu tự thấy, cũng chẳng dính dáng cái mê của ta, sao chẳng tự thấy tự biết, mà lại hỏi ta thấy hay chẳng thấy!”.

    Thần Hội lạy lễ thêm hơn trăm lạy, xin sám hối tội lỗi, ân cần hầu hạ bên Sư chẳng rời. Một hôm Sư bảo chúng: “Ta có một vật, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng chẳng mặt, các ngươi có biết chăng?”.

    Thần Hội bèn ra nói: “Ấy là bổn nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội”.

    Sư nói: “Đã nói với ngươi là chẳng danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi”.

    Sau khi Lục Tổ viên tịch, Thần Hội vào trong kinh thành Lạc Dương, rộng truyền đốn giáo của Tào Khê, soạn bộ Hiển Tông Ký, thịnh hành nơi đời, hiệu là Hà Trạch thiền Sư.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  4. #44
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Có vị Tăng hỏi Sư: “Ý chỉ của Huỳnh Mai người nào được?”.

    Sư đáp: “Người hiểu Phật pháp được”.

    Hỏi: “Hòa Thượng có được chăng?”.

    Đáp: “Ta chẳng hiểu Phật pháp”.

    Một hôm, Sư muốn giặt cái y của Ngũ Tổ truyền thọ mà xung quanh không có suối tốt, nên đi đến cách sau chùa năm dặm, thấy có núi rừng xanh biếc, thoại khí vòng quanh (Thoại khí là triệu chứng tốt lành hiện trên không khí, nhưng phải là người có pháp nhãn mới thấy được). Sư dộng tích trượng xuống đất, nước suối ngay đó trào ra, chảy thành cái ao. Sư quỳ trên đá mà giặt y.

    Có vị Tăng ở Tây Thục tên là Phương Biện đến lễ Sư, Sư hỏi: “Thượng Tọa làm nghề gì?”. Đáp: “Thợ đắp tượng”. Sư nghiêm mặt lại nói: “Ngươi thử đắp ta xem!”. Biện ngơ ngác, qua mấy ngày sau đắp xong chơn tượng, cao bảy tấc, nét mặt tánh tình đều tỏ bày khéo léo. Sư cười nói: “Ngươi khéo tánh đắp tượng mà chẳng hiểu tánh Phật”. Sư rờ đầu thọ ký, dặn phải làm phước điền cho trời người; rồi lấy y mà trả công. Biện chia y làm ba phần: một phần đắp lên pho tượng, một phần tự giữ lấy, một phần lấy lá cây kè gói lại, xong chôn dưới đất, nguyện rằng: “Cho tôi đời sau được y này, làm trụ trì nơi đây, xây dựng lại chùa chiền”.

    Đến năm thứ tám, niên hiệu Gia Hựu đời Nhà Tống (1056 -1063, cách đó 380 năm), có vị Tăng tên là Duy Tiên đến đó tu sửa lại chùa chiền, đào đất được Y còn như mới. Pho tượng của Sư còn giữ ở chùa Cao Tuyền.

    *

    * *

    Có vị Tăng đem bài kệ của Ngọa Luân Thiền Sư lập lại với Sư. Kệ rằng:

    Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,

    Năng đoạn bá tư tưởng.

    Đối cảnh tâm bất khởi,

    Bồ Đề nhựt nhựt trưởng.


    Dịch nghĩa:

    Ngọa Luân có bản lãnh,

    Dứt được trăm tư tưởng.

    Đối cảnh tâm chẳng khởi,

    Bồ Đề luôn luôn trưởng.


    Sư nghe nói xong: “Kệ này chưa rõ tâm địa, nếu theo đó mà tu hành thì lại thêm trói buộc”. Do đó khai thị một bài kệ:

    Huệ Năng một kỹ lưỡng,

    Bất đoạn bá tư tưởng.

    Đối cảnh tâm số khởi,

    Bồ Đề tác ma trưởng.

    Dịch nghĩa :

    Huệ Năng không bản lãnh,

    Chẳng dứt trăm tư tưởng.

    Đối cảnh tâm cứ khởi,

    Bồ Đề làm sao trưởng!



    ([1]) :Chớ nên chấp ở ngữ ngôn, Vô Ngôn : Phật thuyết pháp 49 năm mà tự nói chẳng thuyết một chữ

    ([2]) : Chớ nên chấp vào im lặng

    ([3]): Dê, nai, trâu = tiểu, trung, đại thừa

    ([4]): Ba đoạn thiện quét sạch : Mới phát thiện tâm là sơ thiện, chẳng chấp thiện tâm là trung thiện, không trụ nơi chẳng chấp là hậu thiện, luôn cả cái tri giải biết về sự “Không trụ nơi chẳng chấp” cũng tiêu là quét sạch.

    ([5]) : 62 kiến chấp: Tứ cú x ngũ uẩn = 20; 20 x tam tế = 60; 60 + thêm Hữu và Vô (Nguồn gốc của tất cả nhị biên đối đãi) = 62. Tất cả kiến chấp đều không ở ngoài 62 kiến chấp này.

    ([6]) : Nhị biên: Đối đãi biên kiến; tam tế : Quá khứ, hiện tại, vị lai.

    ([7]): Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng:Thường ứng là tả sự dụng cuả tự tánh chẳng tác ý, như bóng hiện trong gương, luôn luôn như thế. Ví như dùng cơm chỉ là dùng cơm, chẳng có năng sở, nên nói “Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng”. Còn “dụng tưởng” thì có tác ý, nên có năng sở, cho ta là năng dùng, cơm là sở dùng.

    ([8]): Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng: Phân biệt tất cả pháp mà chẳng tác ý ví như cơm chỉ là cơm, nước chỉ là nước, còn “phân biệt tưởng” là có tác ý, nên có cơm ngon cơm dở, nước trong nước đục.


    Lần sửa cuối bởi minh thức; 01-20-2016 lúc 03:51 PM
    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  5. #45
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm Đốn Tiệm _ Thứ Tám


    Lúc Sư hoằng pháp tại chùa Bửu Lâm, Tào Khê, ở miền Nam, thì Thần Tú Đại Sư tại chùa Ngọc Tuyền, Kinh Nam, ở miền Bắc. Thời ấy hai tông thịnh hành, người đời xưng là Nam Năng, Bắc Tú, nên có Nam Bắc đốn tiệm hai tông, mà người học đạo chẳng biết tông chỉ của Nam Bắc như thế nào. Sư bảo chúng: “ Pháp vốn một tông mà người có Nam Bắc; pháp chỉ một thứ nhưng sự thấy có nhanh chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp chẳng đốn tiệm, theo căn tánh con người thì có lợi độn, nên gọi đốn tiệm”.

    Nhưng đồ chúng của Thần Tú thường hay khinh chê Tổ Sư ở miền Nam là người chẳng biết chữ, đâu có gì hay? Thần Tú nói: “ Lục Tổ đắc Vô Sư Trí, triệt ngộ pháp Tối Thượng Thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại được Thầy ta Ngũ Tổ thân truyền y pháp, đâu phải khi không mà được! Ta tiếc chẳng thể đi xa được thân cận, uổng chịu quốc ân. Các ngươi chớ bị kẹt nơi đây, nên đi đến Tào Khê để tham học”.

    Một hôm, Thần Tú sai môn đồ Chí Thành: “Người thông minh có trí, hãy thay ta đến Tào Khê nghe pháp, tận tâm ghi nhớ các điều thấy nghe, về lập lại cho ta”.

    Chí Thành vâng lời, bèn đến Tào Khê, theo chúng tham học mà chẳng nói từ chỗ nào đến. Lúc đó Sư bảo chúng: “Nay có kẻ trộm pháp đang ẩn trong hội này”. Chí Thành bèn bước ra lễ bái, bạch rõ nguyên do. Sư nói: “Ngươi từ Ngọc Tuyền đến tức là mật thám vậy”.

    Đáp: “Chẳng phải”.

    Sư nói: “Sao lại chẳng phải?”.

    Đáp: “Lúc chưa nói ra thì phải, nói ra rồi thì chẳng phải”.

    Sư hỏi: “Thầy ngươi lấy gì để dạy chúng?”.

    Đáp: “Thầy tôi thường khuyên dạy chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm”.

    Sư nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi lâu là trói thân, với đạo có ích lợi gì?” Hãy nghe kệ đây:

    Sanh lai tọa bất ngọa,

    Tử khứ ngọa bất tọa.

    Nguyên thị xú cốt đầu,

    Hà vi lập công khóa?

    Dịch nghĩa:

    Lúc sống thì ngồi chẳng nằm,

    Lúc chết thì nằm chẳng ngồi.

    Vốn là đống xương hôi thúi,

    Đâu thể thành lập công phu?

    Chí Thành lại lễ Sư: “Đệ tử ở nơi Thần Tú Đại Sư học đạo chín năm mà chẳng được khế ngộ nay nghe Hòa Thượng một lời liền khế ngộ bản tâm. Sanh tử của đệ tử là việc lớn, xin Hòa Thượng từ bi chỉ dạy thêm”.

    Sư nói: “Ta nghe nói Thầy ngươi dạy người học pháp: Giới, định, huệ, chẳng biết hành tướng giới định huệ như thế nào, hãy nói thử xem”.

    Chí Thành nói: “Thần Tú Đại Sư nói: Những điều ác chớ làm gọi là giới, những điều lành phụng hành gọi là huệ, ý căn tự trong sạch gọi là định. Đại Sư dạy như thế, chưa biết Hòa Thượng lấy pháp gì để dạy người?”.

    Sư nói: “Nếu nói có pháp dạy người ấy là dối ngươi, ta chỉ tùy theo căn cơ để mở trói, giả danh tam muội. Như giới định huệ của Thầy ngươi thật là bất khả tư nghì, giới định huệ của ta lại khác”.

    Hỏi: “Giới định huệ chỉ nên có một, sao lại có khác?”.

    Sư nói: “Giới định huệ của Thầy ngươi độ người Đại thừa, giới định huệ của ta tiếp người Tối thượng thừa, chỗ ngộ giải chẳng đồng nên sự thấy có nhanh chậm. Hãy nghe ta nói, xem có giống Thầy ngươi chăng! Ta thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, lìa tánh thuyết pháp, khiến cho tự tánh thường mê, ấy là tướng thuyết. Nên biết tất cả pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là chơn pháp của giới định huệ vậy. Hãy nghe kệ đây:

    Tâm địa vô phi tự tánh giới,

    Tâm địa vô si tự tánh huệ.

    Tâm địa vô loạn tự tánh định.

    Bất tăng bất giảm tự kim cang,

    Thân khứ thân lai bổn tam muội.


    Dịch nghĩa:

    Tâm địa chẳng quấy tự tánh giới,

    Tâm địa chẳng si tự tánh huệ,

    Tâm địa chẳng loạn tự tánh định.

    Chẳng thêm chẳng bớt tự như như,

    Thân đến thân đi vốn tam muội.

    Chí Thành nghe xong cảm tạ, trình kệ rằng:

    Ngũ uẩn huyễn thân,

    Huyễn hà cứu cánh.

    Hồi thú chơn như.

    Pháp huờn bất tịnh.

    Dịch nghĩa:

    Ngũ uẩn thân huyễn hóa,

    Huyễn đâu có cứu cánh.

    Trở về với chơn như,

    Vẫn là chẳng tịnh.

    Sư cho là đúng, lại bảo Chí Thành: “Giới định huệ của Thầy ngươi dạy người căn khí nhỏ, giới định huệ của ta dạy người căn khí lớn. Nếu ngộ được tự tánh, cũng chẳng lập Bồ Đề Niết Bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, chẳng có một pháp có thể đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Nếu thấu lý này cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người kiến tánh lập cũng được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại, cần dùng liền làm, cần nói liền đáp (làm và nói đều chẳng tác ý), khắp hiện hóa thân chẳng lìa tự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội, gọi là kiến tánh”.

    Chí Thành lại bạch: “Thế nào là nghĩa chẳng lập?”.

    Sư nói: “Tự tánh chẳng quấy chẳng si chẳng loạn, niệm niệm quán chiếu Bát Nhã, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, thuận nghịch đều được, có gì để lập ? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, cũng chẳng thứ tự cho nên chẳng lập tất cả pháp, các pháp tịch diệt, đâu có thứ lớp?”.

    Chí Thành lễ bái, nguyện làm thị giả hầu hạ sớm chiều.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  6. #46
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Tăng Chí Triệt, họ Trương tên Hành Xương, người ở Giang Tây, thuở nhỏ tánh hào hiệp. Lúc ấy Nam Bắc chia ra hai tông, tuy Lục Tổ và Thần Tú Đại Sư không phân chia bỉ thử, nhưng đồ chúng lại cạnh tranh với nhau sanh lòng ưa ghét, mà môn đồ bên Bắc Tông tự lập Thần Tú làm Tổ thứ sáu, lại sợ người đời biết được sự truyền y của Ngũ Tổ, nên sai Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Sư Tâm Thông đã biết việc này, bèn lấy mười lượng vàng để nơi ghế ngồi. Lúc tối Hành Xương lén vào thất muốn ám sát. Sư đưa cổ cho chém. Hành Xương cầm kiếm chém ba lần, chẳng gây vết thương. Sư nói: “Chánh kiến (kiếm) chẳng tà, tà kiến (kiếm) chẳng chánh (Theo Hán tự, chữ “kiến” với chữ “kiếm” khác chữ đồng âm, ở đây là một lời hai nghĩa), chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng”. Hành Xương kinh sợ ngã xỉu, một hồi lâu mới tỉnh dậy, ăn năn cầu xin sám hối, bèn xin xuất gia. Sư đưa vàng và dặn: “Ngươi hãy đi, sợ đồ chúng biết được sẽ sát hại ngươi, để ngày khác ngươi thay đổi hình dạng rồi trở lại, ta sẽ cho thỏa nguyện”.

    Hành Xương nghe lời, nửa đêm trốn đi, sau ở nơi khác xuất gia.

    Một hôm nhớ đến lời dặn của Sư, bèn từ xa đến tham lễ. Sư nói: “ Ta chờ ngươi đã lâu, sau đến trễ vậy?”.

    Hành Xương nói: “Ngày trước được Hòa Thượng xá tội, nay dù xuất gia khổ hạnh, nhưng khó mà báo ơn, chỉ mong được Hòa Thượng truyền pháp để độ chúng sanh. Đệ tử xem Kinh Niết Bàn, chưa hiểu cái nghĩa thường và vô thường, xin Hòa Thượng từ bi giải thích sơ lược”.

    Sư nói: “Vô thường tức Phật tánh, có thường tức cái tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy”.

    Hành Xương nói: “Lời của Hòa Thượng rất nghịch lời văn trong Kinh”.

    Sư nói: “Ta được truyền tâm ấn Phật, đâu dám nghịch ý Kinh!

    Hành Xương nói: “Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa Thượng lại nói là vô thường. Các pháp thiện ác cho đến Bồ Đề tâm đều là vô thường, Hòa Thượng lại nói là thường, ấy là trái nghịch nhau, khiến đệ tử lại thêm nghi ngờ”.

    Sư nói: “Xưa kia ta nghe Ni Vô Tận Tạng tụng qua một lần Kinh Niết Bàn, bèn vì Ni giải thuyết, chẳng có một chữ một nghĩa không đúng với lời văn trong kinh, cho đến nay vì ngươi mà thuyết, trước sau chẳng khác”.

    Hành Xương nói: “Đệ tử căn tánh ngu muội, xin Hòa Thượng khai thị tỉ mỉ”.

    Sư nói: “Ngươi biết chăng, Phật tánh nếu thường còn nói gì về các pháp thiện ác; cho đến tận kiếp cũng chẳng một người phát Bồ Đề tâm, nên ta nói “vô thường”, ấy chính là cái đạo chơn thường do Phật thuyết vậy. Hơn nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì mỗi mỗi đều có tự tánh riêng biệt để lãnh thọ sanh tử, vậy thì tánh chơn thường khắp nơi lại có chỗ thiếu sót, nên ta nói “thường”, ấy chính là nghĩa chơn vô thường của Phật. Phật vì kẻ phàm phu tà đạo chấp nơi tà thường, những người Nhị thừa từ nơi thường, suy ra vô thường, cộng thành tám thứ điên đảo nên trong Kinh Niết Bàn liễu nghĩa phá những thiên kiến của họ để to bày tứ đức của Niết Bàn: Chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Ngươi nay theo lời trái nghĩa, lấy đoạn diệt vô thường và chấp thường là cố định, mà hiểu lầm lời nói sau cùng viên tròn vi diệu của Phật, dẫu cho xem Kinh ngàn lần, có ích gì đâu?”.

    Hành Xương hoát nhiên đại ngộ, nói kệ rằng:

    Nhân thủ vô thường tâm.

    Phật thuyết hữu thường tánh.

    Bất tri phương tiện giả,

    Du xuân trì thập lịch.

    Ngã kim bất thi công,

    Phật tánh nhi hiện tiền.

    Phi Sư tương thọ dữ,

    Ngã diệc vô sở đắc.


    Dịch nghĩa:

    Vì giữ tâm vô thường,

    Phật nói tánh có thường.

    Kẻ chẳng biết phương tiện,

    Như mò sỏi tưởng vàng,

    Nay ta chẳng tác ý,

    Phật tánh tự hiện tiền,

    Chẳng phải do thầy cho.

    Ta cũng vô sở đắc.


    Sư nói: “Ngươi nay đã triệt ngộ, nên đổi tên Trí Triệt”. Trí Triệt lễ tạ lui ra.



    LƯỢC GIẢI:

    Lời của chư Phật, chư Tổ chỉ tạm dùng để phá chấp: Nói “thường” là để phá chấp “vô thường”, nói “vô thường” là để phá chấp “thường”, chớ không có nghĩa thật. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: “Hễ là lời nói thì đều chẳng có nghĩa thật.”

    Phẩm tựa đã chỉ rỏ “Phật tánh phi thường phi vô thường”, do đó mặc dù lời Tổ với lời Phật trái nghịch nhau, nhưng ý Tổ với ý Phật chẳng khác là nghĩa này vậy.

    *

    * *

    Sư thấy môn đồ các tông tụ tập dưới pháp tòa, đều khởi ác ý vấn nạn. Sư thương xót cho họ nên bảo rằng: “Người học đạo cần phải dứt trừ cho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên, rồi lại gắn tên nơi tự tánh; Tự tánh vốn bất nhị, gọi là thật tánh. Từ nơi Phật tánh mới kiến lập tất cả giáo môn. (Như vậy, Pháp môn của các tông dù có khác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn chẳng cao thấp, người học đạo chớ nên tranh giành hơn thua mà trái nghịch với đạo). Còn pháp đốn giáo này thì cần phải ngay đó (chẳng tác ý) tự ngộ tự thấy mới được.

    Đại chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, thờ Sư làm thầy.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  7. #47
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm Pháp Hội Thứ Chín


    Ngày rằm tháng giêng niên hiệu Thần Long Nguyên Niên, vua Trung Tôn và Võ Tắc Thiên ban chiếu rằng:

    “Trẫm mời An Quốc Sư và Thần Tú Thiền Sư hai vị vào cung cúng dường, thừa lúc muôn việc nhàn rảnh để nghiên cứu đạo Nhất thừa. Hai Sư khiêm nhượng rằng: “Ở miền Nam có Huệ Năng Thiền Sư được Ngũ Tổ mật phó y pháp, truyền Phật tâm ấn, xin mời Sư đến để hỏi”. Nay sai nội thị Tiết Giản lãnh chiếu đến rước thỉnh, nguyện Sư từ bi thương xót, mau đến kinh thành”.

    Sư dâng biểu cáo bệnh khước từ và xin được trọn đời ở trong núi rừng.

    Tiết Giản hỏi: “Các thiền đức nơi kinh thành đều nói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà mong được giải thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách dạy bảo của Sư như thế nào?”.

    Sư nói: “Đạo do tâm ngộ chẳng phải tọa. Kinh nói: “Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻ hành tà đạo” (*). Tại sao vậy? Vì tự tánh chẳng có chỗ đến cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Chư pháp không tịch là Như Lai Thanh Tịnh Tọa, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi!”.

    Tiết Giản nói: “Đệ tử về Kinh, Hoàng Đế ắt hỏi, xin Sư từ bi chỉ thị tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và người học đạo ở Kinh thành, thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng, dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết”.

    Sư nói: “Đạo chẳng sáng tối, sáng tối là nghĩa sanh diệt. Sáng mãi chẳng hết, cũng chẳng có lúc hết, vì sáng tối là đối đãi lập danh, nên Kinh Duy Ma Cật nói: “Pháp chẳng thể so sánh, vì chẳng đối đãi vậy.”

    Tiết Giản nói: “Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ cho phiền não, người tu đạo nếu không lấy trí huệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để ra khỏi?”.

    Sư nói: “Phiền não tức Bồ Đề, chẳng hai chẳng khác. Nếu nói lấy trí huệ để chiếu phá phiền não, ấy là kiến giải của kẻ Nhị Thừa, người đại căn thượng trí thì chẳng như vậy”

    Hỏi: “Thế nào là kiến giải của người đại thừa?”

    Sư nói: “Sáng với chẳng sáng, phàm phu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thật tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, nơi Thánh hiền mà chẳng thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi là đạo”.

    Hỏi: “Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu khác với ngoại đạo!”.

    Đáp: “Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng sanh để tỏ diệt, sanh nơi chẳng sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyết chẳng sanh chẳng diệt là: Tự vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khác với ngoại đạo. Nếu ngươi muốn biết tâm yếu, nên đối với các pháp thiện ác đều chớ suy lường, tự nhiên được tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch, dịu dụng hằng sa”.

    Tiết Giản được chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ bái từ giã về kinh, dâng biểu tâu thuật lại lời nói của Sư.

    Ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua ban chiếu khen ngợi rằng:

    “Thiền Sư cáo bệnh khước từ, đã vì Trẫm tu hành, làm phước điền cho chúng sanh. Sư như Ngài Duy Ma Cật, cáo bệnh ở thành Tỳ Da để xiển dương Đại thừa, truyền Phật tâm ấn, thuyết pháp bất nhị. Tiết Giản truyền đạt lại tri kiến Như Lai của Sư chỉ dạy, cũng là do Trẫm tích tụ phước đức, kiếp trước đã gieo trồng thiện căn, nên gặp được Sư xuất hiện cùng đời, đốn ngộ pháp Tối Thượng Thừa, cảm đội ơn Sư chẳng thể nào quên. Nay dâng chiếc Cà Sa và bình bát thủy tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu sửa lại chùa chiền, sắc phong cho nơi ở cũ của Sư (ở Tân Châu) là Quốc Ân Tự.”



    *. _ (Kinh Kim Cang : "Tu Bồ Đề ! Nhược hữu nhân ngôn 'Như Lai nhược lai nhược khứ nhược tọa nhược ngọa', thị nhân bất giải ngã sở thuýêt nghĩa)


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  8. #48
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts
    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  9. #49
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm Phó Chúc Thứ Mười


    Một hôm Sư gọi các đệ tử như Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như nói:

    “Các ngươi chẳng như người khác, sau khi ta viên tịch, mỗi người làm Thầy một nơi. Nay ta dạy các ngươi cách thuyết pháp chẳng đánh mất bản tông. Trước tiên phải y theo pháp môn TAM KHOA, dùng ba mươi sáu pháp đối, ra vào (khai thị bằng lời nói hay cử chỉ) thường lìa nhị biên, thuyết tất cả pháp chẳng lìa tự tánh. Thí như có người hỏi pháp, ý nghĩa lời nói song song, đến đi làm nhân với nhau, đều dùng pháp đối. Nếu không có đối đãi thì ba pháp “nhị biên và trung đạo” đều dứt, chẳng còn chỗ để nương tựa”.

    Pháp môn Tam Khoa là gì? Là ẤM - NHẬP - GIỚI

    - ẤM là ngũ ấm: gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

    - NHẬP có mười hai: Bên ngoài lục trần, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; bên trong lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

    - GIỚI có mười tám: Gồm lục căn, lục trần, lục thức.

    Tự tánh bao hàm vạn pháp, gọi là Hàm Tạng Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, niệm ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách nào? Là do tự tánh lập ra pháp đối:

    - Ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt, sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm đối.

    - Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: Ngữ đối pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ, ấy là mười hai đối.

    Tự tánh khởi mười chín đối: Dài đối ngắn, tà đối chánh, si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai đối bằng phẳng, phiền não đối Bồ Đề, thường đối vô thường, bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hóa thân đối báo thân, ấy là mười chín đối vậy.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  10. #50
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Sư bảo: “Ba mươi sáu pháp đối này nếu biết dùng thì thấu đạo và tất cả kinh pháp, ra vào thường lìa nhị biên. Dụng của tự tánh chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài thì ở nơi tướng lìa tướng, trong thì nơi không lìa không. Nếu trọn chấp tướng thì sanh trưởng tà kiến, nếu trọn chấp “không” thì sanh trưởng vô minh. Kẻ chấp “không” hay phỉ báng kinh Phật, cho là “chẳng cần văn tự”, đã nói chẳng cần văn tự thì con người cũng không nên có lời nói, cái lời nói tức là tướng văn tự. Lại nói “Đạo ngay thẳng chẳng lập văn tự”, thật ra hai chữ “chẳng lập” cũng là văn tự vậy! Vừa nghe người thuyết pháp, liền phỉ báng cho là dính mắc văn tự, các ngươi phải biết, tự mê còn đỡ, lại phỉ báng kinh Phật. Chớ nên phỉ báng kinh, để tạo nhiều tội chướng.

    Nếu chấp tướng bên ngoài mà vọng lập phương pháp để cầu chơn, hoặc rộng lập đạo tràng, nói các lỗi lầm của CÓ và KHÔNG, những người như vậy nhiều kiếp chẳng thể kiến tánh. Các ngươi phải dạy người theo pháp tu hành, chớ nên trăm điều chẳng nghĩ, làm cho đạo tánh bị ngăn ngại. Nếu thuyết pháp dạy người, chớ nên nói “tự tánh vốn chẳng cần tu chứng”, nói như vậy e rằng kẻ mê chẳng hiểu, lại sanh tà kiến. Chỉ nên dạy người theo pháp tu hành, hành pháp thí mà chẳng trụ nơi pháp tướng. Các ngươi nếu ngộ thì thuyết như vậy, dụng như vậy, hành như vậy, tác như vậy tức không đánh mất bản tông.

    Nếu có người đến hỏi nghĩa, hỏi “có” thì đáp “không”, hỏi “không”thì đáp“có”, hỏi thánh đáp phàm, hỏi phàm đáp thánh, nhị biên làm nhân với nhau, sanh nghĩa trung đạo. Hỏi nào đáp nấy, tất cả các câu hỏi khác đều đáp như thế thì chẳng mất cái chánh lý vậy. Như có người hỏi “thế nào là tối?” thì đáp “sáng”, hỏi thế nào là “sáng?” thì đáp “tối”. Vì sáng mất thì tối, tối mất thì sáng, dùng sáng để tỏ sự tối, dùng tối để tỏ sự sáng, trở đi trở lại làm nhân với nhau thành nghĩa trung đạo, tất cả câu hỏi đều phải như thế. Về sau các ngươi truyền pháp, phải y theo đây mà dạy bảo, chớ đánh mất tông chỉ.

    Vào tháng bảy năm Nhâm Tý, niên hiệu Thái Cực – Diên Hòa (712), Sư sai môn đồ đến Quốc Ân tự nơi Tân Châu để xây tháp, đốc thợ làm gấp, đến mùa hè năm sau khánh thành.

    Ngày mùng một tháng bảy, Sư tựu tập đồ chúng bảo: “Đến tháng tám ta sẽ rời thế gian, các ngươi có nghi cứ hỏi sớm đi, ta sẽ phá nghi, khiến các ngươi hết mê hoặc, nếu ta đi rồi thì chẳng ai dạy bảo”.

    Các môn đồ nghe nói thảy đều rơi lệ, chỉ có Thần Hội bình tỉnh chẳng động, cũng chẳng rơi lệ. Sư nói: “Chỉ có tiểu sư Thần Hội được sự thiện bất thiện đồng nhau, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra các người đều chẳng được, bấy lâu nay ở trên núi lại tu đạo gì? Nay các ngươi rơi lệ là lo buồn cho ai? Nếu nói lo cho ta chẳng biết sẽ đi về đâu, ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì làm sao dự báo trước cho các ngươi? Các ngươi rơi lệ vì chẳng biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi thì chẳng nên rơi lệ. Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt tới lui. Các ngươi hãy ngồi, ta nói với các ngươi một bài kệ, gọi là “CHƠN GIẢ ĐỘNG TỊNH KỆ”, các ngươi giữ lấy kệ này, theo đó tu hành, chẳng đánh mất tông chỉ, thì cùng ta đồng một ý chí”. Đại chúng đảnh lễ, xin Sư làm kệ, kệ rằng:


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •