Mặc dù tuổi tác đã cao nhưng U khanti đã qùy ngay xuống làm lễ trước mặt đại đức Nyanatiloka. Ông cho biết vì bận rộn công việc trùng tu, xuất bản kinh sách nên đã không nhập Hạ. (Theo luật Phật, các tăng ni mỗi năm phải nhập Hạ ba tháng tại một tu viện để trau dồi giới đức. Mỗi lần nhập Hạ là được một tuổi hạ và ai nhiều tuổi hạ là được tôn kinh hơn. Do đó mặc dù lớn tuổi đời nhưng vì không nhập Hạ nên U khanti vẫn phải tôn kính Đại Đức Nyanatiloka).
U khanti cung kính mời chúng tối ghé vào chùa để ông có dịp hầu chuyện. Sự khiêm tốn của một bậc chân tu, dầy công đức như ông đã làm tôi hết sức kinh phục. chúng tôi theo ông vào một căn phòng nhỏ, bầy biện giản dị sau chùa, ông tự tay rót nước trà mời chúng tôi uống và ngỏ ý rất hân hạnh được chúng tôi đến thăm.
Mặc dù tiếp chuyện chúng tôi nhưng cứ mỗi chốc lại có một tu sĩ bước vào nhận chỉ thị. Tôi hết sức ngạc nhiên khả năng chỉ huy lãnh đạo của U khanti, tuy tuổi tác đã cao nhưng đầu óc ông ta vô cùng bén nhậy, chỉ cần liếc qua một tấm giấy, lắng nghe vài câu là ông đã có thể quyết định tức thì. Ông vừa ký giấy tờ, vừa ra những chỉ thị ngắn và gọn. Trông ông có nét oai vệ như một vị đại tướng cầm quân ra trận hay một giám đốc điều hành xí nghiệp hơn là một tu sĩ. Ông luôn miệng xin lỗi vì vừa phải đích thân trông nom việc trùng tu đồi Mandalay, lo xuất bản kinh sách và chịu trách nhiệm điều hành một tu viện với hàng trăm tăng sĩ. Ông tỏ ra hết sức chú ý đến việc thành lập một tổ chức Phật giáo quốc tế mà Đại Đức Nyanatiloka đang vận động. Ông cũng hết sức quan tâm đến việc xây cất một trung tâm phiên dịch kinh sách ra ngoại ngữ mà tôi đã khởi công tại tu viện Dodanduwa, Tích Lan. Ông đưa ra nhiều nhận xét xác đáng, những đề nghị xây dựng mà về sau chúng tôi đã áp dụng làm căn bản cho Hội Phật giáo thế giới.
Khi tôi ngỏ muốn có một bộ Luật nguyên bản bằng tiếng Sanscrit để đối chiếu với bộ Luật bằng tiếng Pali thì ông quay qua nói nhỏ với một tăng sĩ hầu cận. Một lúc sau tu sĩ này đã đêm đến cho tôi một bộ Luật dầy gồm mấy chục quyển in rất đẹp, ngoài ra còn có mấy cuốn kinh trong bộ Trường A Hàm đóng bìa cẩn thận. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả là tôi vẫn có bộ kinh này tại tu viện Dodanduwa nhưng thiếu mất mấy cuốn và tu sĩ đã đem đến đúng cho tôi những quyển kinh mà tôi còn thiếu sót. U khanti mỉm cười một cách bí mật:
– Bây giờ thì Đại Đức không phải lo nữa, ngài đã có đầy đủ trọn bộ kinh Trường A Hàm rồi.
Tại sao U khanti biết tôi thiếu mấy cuốn kinh này? Cho đến nay nó vẫn là một câu hỏi mà tôi không sao tìm được câu trả lời.
Mặc dù rất vui mừng nhận món qùa biếu qúy giá nhưng chúng tôi còn định du lịch thăm viếng một số thắng tích, việc mang theo bên mình mấy trăm cuốn kinh dầy cộm vẫn có phần bất tiện. Như đọc được ý nghĩ, U khanti đề nghị cho người đem những bộ kinh này về tận tu viện Dodanduwa để chúng tôi khỏi phải xách nặng trong khi du lịch.
Khi về đến Tích Lan, chúng tôi vui mừng khôn xiết khi thấy hàng trăm cuốn kinh mới tinh vừa in xong đã được gửi đến tận nơi . Chỉ nội tiền cước không cũng lên đến hơn 3000 rupies, một món tiền khổng lồ lúc đó.
Về sau khi gặp Hòa thượng Tomo tôi có kể cho ngài nghe về câu chuyện này. Hòa thượng Tomo mỉm cười:
– Thế mà con không đoán ra ư? U khanti chính là hoàng đế Mindon Min đầu thai trở lại để hoàn tất tâm nguyện còn dở dang.
Quả thật tôi đã không nghĩ ra điều này nhưng tôi không nghi ngờ một chút nào hết. Cái dáng dấp lịch sự, cử chỉ oai nghiêm của vị tăng sĩ đó không phải dễ ai mà có được. Một đứa trẻ sinh nơi miền thôn dã, đi tu từ nhỏ không thể có cái phong cách oai nghi như một vị vua, trừ khi nó chính là một hoàng đế tái sinh. Cái cung cách làm việc vô cùng hiệu quả với những quyết định nhanh chóng, những mệnh lệnh ngắn, gọn và chính xác là điều không phải ai cũng có thể học được, trừ khi đó là một thói quen từ tiền kiếp, một thói quen chỉ có ở những bậc chỉ huy, lãnh đạo hay một vị hoàng đế.