Kinh Đại Bát Niết BànPHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20__________________________________________________ ______________________________________
Tâm vô lượng nầy có bốn loại, nên nói là bốn.
Luận về người tu lòng từ có thể dứt tham dục. Người tu lòng bi có thể dứt sân khuể. Người tu lòng hỷ có thể dứt sự chẳng vui. Người tu lòng xả có thể dứt tham dục và sân khuể.
Nầy Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên được gọi là bốn, chẳng phải một, hai cũng chẳng phải ba.
Nầy Thiện nam tử ! Như lời ông nói lòng từ có thể dứt được sân, lòng bi cũng như vậy nên nói là ba đó, ông chẳng nên nạn như vậy. Sân khuể có hai thứ : Một là giết chết, hai là đánh đập. Tu lòng từ thời dứt được sự giận giết chết. Tu lòng bi thời dứt được sự giận đánh đập. Do nghĩa đó há lại chẳng phải là bốn ư !
Sân lại có hai thứ : Một là sân với chúng sanh, hai là sân với chẳng phải chúng sanh. Người tu lòng từ dứt được sự sân với chúng sanh. Người tu lòng bi dứt được sự sân với chẳng phải chúng sanh.
Sân lại có hai thứ : Một là có nhơn duyên, hai là không nhơn duyên.
Tu lòng từ dứt được sự sân có nhơn duyên. Tu lòng bi dứt được sự sân không nhơn duyên.
Sân lại có hai thứ : Một là tập quán quá khứ, hai là tập quán hiện tại, tu lòng từ dứt được sân quá khứ. Tu lòng bi dứt được sân hiện tại.
Sân lại có hai thứ : Một là sân thánh nhơn hai là sân phàm phu. Tu lòng từ dứt được sân thánh nhơn. Tu lòng bi dứt được sân phàm phu.
Sân lại có hai thứ : Một là thượng hai là trung. Tu lòng từ dứt được sân hạng thượng. Tu lòng bi dứt được sân hạng trung.
Nầy Thện nam tử !Do nghĩa nầy nên gọi là bốn, đâu đặng nạn rằng : Nên ba chẳng nên bốn. Thế nên tâm vô lượng nầy loại của nó đối nhau phân biệt làm bốn.
Lại do vì căn khí nên thành bốn : Căn khí nếu có tâm từ thời chẳng đặng có tâm bi, hỷ, xả. Vì do nghĩa nầy nên phải là bốn không bớt được.