DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 9/20 ĐầuĐầu ... 789101119 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 81 tới 90 của 196
  1. #81
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Bạch Hòa Thượng, cái người lăn từ trên đỉnh núi xuống, máu me đẫm mình, họ tạo tác tội gì, xin nói cho con được rõ?

    Người này ở thành Vương Xá, là một ông Đại Tướng đi tiên phong sát hại nhân dân, giết người không gớm tay, vì thế phải tội báo này, sau phải đọa vào đại địa ngục chịu lấy sự khốn khổ vô thời hạn.

    - Bạch Hòa Thượng, còn cái núi xương đây là gì?

    - Núi xương này là con cá Ma Kiệt, chính nó là tiền thân của ông, vì ngươi còn là phàm phu, cách ấm bị mê, nên không biết đấy thôi!

    Thi Lợi Bí Đề nghe xong tâm hồn thổn thức, sợ hãi thưa rằng:

    - Bạch Hòa Thượng tâm hồn con còn mê tối không hiểu biết, cúi xin Hòa Thượng nói cá nguyên nhân tội gì con phải làm thân cá?

    - Pháp Tử nên biết, sinh tử luân chuyển không có bờ bến, nhưng đối với nghiệp báo của thiện ác thì không sai lạc, không tài nào trốn thoát được, tạo nghiệp gì phải báo nghiệp đó. Đây từ đời quá khứ, có một ông vua ở Châu Diêm Phù Đề, tên là Đàm Ma La Bí Đề (Tàu dịch là Pháp Tăng). Ông chăm làm việc bố thí, giữ giới, nghe kinh, có tâm từ bi, tính không bạo ác, không bao giờ làm tổn thương đến tính mạng của một loài nào. Xứng đáng một ông vua có đạo đức. Ông dùng chánh pháp để trị dân, làm vua đã được hai mươi năm, đương buổi thừa nhàn đánh bạc chơi vui, lúc ấy có người phạm tội sát nhân, quan tòa vào tâu rằng:

    - Tâu Bệ Hạ! Ngoài thành có kẻ phạm tội giết người, trị tội thế nào xin cho hạ thần được rõ?

    Nhà vua mãi chơi không suy xét rõ, đáp rằng:

    - Cứ theo quốc pháp mà trị tội.

    Theo quốc pháp, nếu kẻ nào mà giết người thì bị tử hình, chiếu luật đem người đó ra xử trảm.

    Xong cuộc vui chơi nhà vua hỏi các quan rằng:

    - Kẻ tội nhân ấy nay ở đâu, để ta đoán quyết?

    - Theo quốc pháp, phạm nhân đã đem ra xử tử rồi.

    Nhà vua nghe nói giựt mình! Lo sợ ngã xuống đất, tả hữu đỡ dậy hồi lâu tỉnh lại, thân phiền nói:

    - Các cung tần mỹ nữ, voi ngựa ở lại đây, riêng ta phải vào địa ngục chịu đau khổ một mình. Khi ta chưa làm vua thì cung điện này cũng có người cai trị, chẳng bao lâu ta chết, cung này tiếp tục cũng có người thống ngự, ta làm vua giết hại mạng người, đó là làm vua đồ tể. Chẳng biết đời đời kiếp kiếp nó sẽ đưa ta đến chốn nào? Ta quyết định không làm vua nữa, từ nay quyền chính giao cho các ông ở lại trông coi việc nước, tôi vào núi để tu đạo, cầu giải thoát từ đây.

    Sau một thời gian, ông vua này chết phải đọa sinh làm loài cá Ma Kiệt ở trên bể lớn thân dài bảy trăm do tuần. Các ông vua kế vị và các ông quan đại thần nước ấy, cậy có quyền thế ức hiếp nhân dân làm những điều tàn nhẫn, vợ bỏ chồng, con lìa cha, bóc lột dân đen, sau khi chết bị đọa làm cá Ma Kiệt hết thảy, có những con vi trùng ở trong vẩy rỉa rúc ăn thịt, đau như lưỡi câu sắt móc mình. Lúc bị cắn đau sát mình vào núi pha lê làm cho những con trùng bị giập chết, máu chảy đỏ ngầu trong trăm dặm bể, vì tội ấy chết phải đọa vào địa ngục. Những con cá này, cứ mỗi giấc ngủ là một trăm năm lúc tỉnh dậy đói quá không có thức ăn phải há mồm cho nước biển thuyền bè tôm, cá chảy vào. Giữa lúc há miệng thì có năm trăm người lái buôn trong thuyền vì nước chảy mạnh quá nên chiếc thuyền này theo dòng trôi thẳng vào mồm cá. Mọi người đều khủng khiếp lo sợ! Gào khóc la, kẻ niệm Phật, người cầu kinh, kẻ kêu trời! Người khấn đất! Kẻ cầu thần! Cũng có người kêu gọi cha mẹ vợ con! Rồi kể lể rằng: Hôm nay là phút cuối cùng từ biệt cõi nhân gian thôi! Thôi! Không bao giờ ta được thấy gia đình lần thứ hai nữa. Thuyền sắp tới mồm cá, sự sợ hãi dồn dập vì thế nên nhiều người lớn tiếng niệm "Nam Mô Phật".

    Cá Ma Kiệt nghe tiếng niệm Phật, động lòng từ bi ngậm mồm lại, nước hết chảy, thuyền được yên, mọi người thoát chết trước mồm cá.

    Cũng vì thế nên cá bị chết đói, thần hồn được sinh vào thành Vương Xá. Sau khi cá chết, quỷ Dạ Xoa, La Sát vứt con cá ấy lên bãi biển, trải qua những ngày tháng mưa gió dãi dầu da thịt tiêu tan còn đống xương tại đây. Lắng nghe, ông vua Pháp Tăng thuở đó nay chính là Thi Lợi Bí Đề, bởi tội sát nhân phải đọa làm con cá Ma Kiệt ở dưới bể này, nay đã được làm thân người sao không chán ghét sinh tử để an tâm tu đạo giải thoát hay sao? Lại còn muốn chết ở nơi đây làm chi? Nếu chết sẽ bị đọa vào địa ngục, bấy giờ muốn ra cũng khó.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  2. #82
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Thi Lợi Bí Đề nghe Hòa Thượng giảng thuyết xong biết rõ thân cũ của mình tự xét biết sợ sinh tử, nhớ nghĩ phép tu, để lòng chú ý quan sát đống xương cá là tiền thân của mình, thấu hiểu pháp vô thường, chán lìa sinh tử, giữa giờ phút ấy được trút hết lậu, đắc quả La Hán. Ngài Mục Kiền Liên hoan hỷ nói:

    - Pháp Tử, công việc của người làm đã được thành tựu, người đến đây theo thần lực của ta, giờ người tự dùng lấy thần túc mà đi.

    Nói xong, Ngài rướn mình lên hư không như chim phượng hoàng vô cánh, ông Thi Lợi Bí Đề cũng bay theo sau, như chim mẹ bay trước chim con bay sau, một lát đã tới rừng Trúc từ từ hạ xuống Tinh Xá.

    Các vị niên thiếu Tỷ Khưu chưa biết ông đã đắc đạo, nên các Ngài vẫn coi thường và có khi còn la mắng. Vì ông đắc đạo, tâm đã điều thuận, nên vẫn êm đềm vui vẻ, không nói sao hết.

    Đức Phật thấy thế, muốn ngăn đón tâm ngã mạn của các niên thiếu Tỷ Khưu và muốn hiển dương cái đức của vị lão thành nên giữa trong đại chúng Phật nói:

    - Thi Lợi Bí Đề hôm nay ra biển về phải không?

    - Dạ! Lạy Ðức Thế Tôn có đấy ạ!

    - Ra bể thấy những gì nói cho ta nghe?

    Thi Lợi Bí Đề cung kính trình bày những việc nói trên cho Phật nghe.

    Phật nói: - Quí hóa! Hôm nay thấy sự thật như vậy có lẽ từ nay ngươi được thoát cái khổ sinh tử, chứng đạo Niết Bàn, và có thể nạp thụ sự cúng dàng của người cõi Nhân, cõi Thiên, công việc làm của Tỷ Khưu ngươi đã được đầy đủ.

    Nghe Phật nói xong các niên thiếu Tỷ Khưu vừa lo vừa sợ, hối hận thầm nghĩ:

    - Chính ông lão này là người hiền nhân trí tuệ, lũ ta thực không hiểu biết gì, từ trước đến nay tự cao tự đại, phải tội phạm đến hiền giả, tội ấy không phải nhẹ, ta nên xin sám hối trước là hơn!

    Các niên thiếu Tỷ Khưu đều đứng dậy, tới trước ông Thi Lợi Bí Đề năm thể chạm xuống đất bạch rằng:

    - Bạch Đại Đức ! các thiện nhân sinh lòng từ bi cũng sinh theo! Trước đây chúng tôi đối với Đại Đức lầm lỗi, cúi xin từ bi xá bỏ, được ân triêm công đức.

    - Tôi đối với tất cả mọi người đều có thiện tâm, hối quá có thể được lắm! Hay lắm!

    Ông Thi Lợi Bí Đề thấy các niên thiếu Tỷ Khưu còn có ý sợ sệt, nên ông thuyết pháp xuất ly sinh tử cho các vị nghe, từ đó các Tỷ Khưu gắng tiến tu hành, không lâu đã ngắt bỏ được lậu nghiệp thành ngôi La Hán. Cũng do nhân duyên nay mà tiếng khen đồn khắp thành Vương Xá.

    Thật lạ quá! Ông lão một trăm tuổi mới xuất gia còn thành công đắc quả, thuyết pháp cao siêu thực là chưa từng có!

    Từ đó trong thành nhiều người cho con trai, con gái, đứa ở trai, đứa ở gái đi xuất gia hoặc tự họ đi xuất gia.

    Công đức xuất gia vô lượng vô biên như thế! Ông Thi Lợi Bí Đề đã một trăm tuổi mới xuất gia tu hành còn đắc đạo quả, thành tựu công đức lớn lao, những ai đã luống tuổi tại sao không xuất gia tu đạo, chăm chỉ tinh tiến tu hành để cầu một phúc báo vô biên ấy?

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  3. #83
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XIX. SA DI HỘ GIỚI



    Người đã thọ giới phải giữ giới, dầu cho mất thân mạng cũng không nên phá giới. Tại sao? Giới là nền tảng của người tu Đạo, là một lối đi vững chắc qua Trời Người lên cõi Phật, là một bí pháp hết lậu nghiệp, là con đường thẳng vào thành Niết Bàn, là chốn an lạc giải thoát đời đời.

    Người giữ giới được thanh tịnh, công đức ấy vô lượng vô biên; ví như biển lớn, sâu không đáy, rộng không bờ, thâu nạp muôn loài, như A Tu La Ma Kiệt ngư, cùng tất cả các loài thủy tộc.

    Giới cũng như thế, thâu nạp những người tam thừa, sinh trưởng ở đó.

    Biển lớn kia có rất nhiều vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách.

    Nhân có giới mới sinh ra các pháp lành; bốn phi thường, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thiền, tam muội, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v…

    Bể lớn kia đáy bằng ngọc kim cương, chung quanh bằng núi kim cương, có bốn sông lớn chảy vào luôn luôn, mà nước bể vẫn không đầy vơi.

    Biển giới cũng thế, lấy giới làm đáy, lấy luận làm núi vây quanh, bốn A hàm làm sông, muôn dòng nước chảy vào trong bằng phẳng không thêm bớt.

    Tại sao các sông vẫn chảy vào biển, mà nứơc biển vẫn không đầy? Vì sức lửa ở ngục A Tỳ bốc lên, nên nước biển vẫn không đầy, các sông thường chảy ra biển, nên nước biển không bao giờ vơi.

    Biển giới của Phật Pháp cũng thế, không phóng dật tham lam cảnh dục nên không tăng, đủ công đức nên không giảm. Như thế biết rằng giữ giới là một công đức lớn lao.

    Sau thời Phật vào Niết Bàn, nước An Đà có một vị Tỷ Khưu, tu hạnh Đầu Đà thích ở nơi vắng vẻ, oai nghi đầy đủ, giới đức hoàn toàn.

    Khi Phật còn tại thế, Ngài thường khen các vị tu hành Đầu Đà!

    Những vị Tỷ Khưu tu hạnh Đầu Đà không hay ở chung với Tăng chúng; vì những vị ấy ít lòng dục, tri túc, không bỏn xẻn tham lam tích trữ, thường ngày đi xin ăn ngồi trơ trên mặt đất, không nhà không cửa, ngày chỉ một bữa ăn, với một tấm áo là đủ, lại chăm tọa thiền tụng kinh. Những người như thế rất đáng tôn trọng, mới xưng đáng ngôi Pháp Vương Tử.

    Trái lại những vị Tăng không có một trong đức hạnh nói trên, phần nhiều chỉ đa dục, lòng tham không biết chán, súc tích tiền của, tham lam tật đố, ghen ghét đầy lòng si ái mê muội, bởi thế cho nên mất công đức lớn, khiến cho người dân chán ghét, có khi còn làm cho người ta phỉ báng Tam Bảo là khác.

    Vị Tỷ Khưu nói trên đức hạnh thuận hòa, có đủ lục thông, tam minh và tám phép giải thoát oai nghi đĩnh đạc, tiếng khen vang dội muôn phương, đáng làm một vị Sa Môn.

    Bấy giờ có một người Ưu Bà Tắc tin kính ngôi Tam Bảo, giữ năm điều răn cẩn thận, lại chăm bố thí tu đức, được nhiều người khen ngợi Ưu Bà Tắc nguyện chung thân cúng dàng vị Tỷ Khưu nói trên.

    Phúc cúng dàng theo nhân hưởng quả: Nếu thỉnh Tăng đến nhà cúng dàng các vị phải đi đường xa, hoặc nóng, lạnh, gió, giá, rét, bị mỏi mệt xảy ra thì làm phế bỏ sự hành đạo của chư Tăng. Người thí chủ sau có được hưởng quả báo tốt lành nhưng phải mệt nhọc, còn các vị đi ngoài đường khất thực thì không kể, mới có thể được, phúc báo ấy thì hơn, còn những vị tại chùa mình mang thức ăn lại nơi cúng dàng thì lai sinh được hưởng phúc báo tự nhiên, không khó nhọc mà vật chất tự nhiên đầy đủ tùy ý muốn.

    Ông Ưu Bà Tắc này vì lòng tin chắc chắn, nên ông sai người mang đến tận nơi cúng dàng.

    Sa Môn có bốn thứ hay dở khó nhận xét, cũng như quả Am La xanh chín khó hiểu biết.

    - Cũng có vị Tỷ Khưu coi tướng mạo oai nghi đĩnh đạc, ung dung văn vẻ thế mà trong bụng đầy sân si, làm các hạnh phi pháp phá giới. Tỷ như quả Am La ngoài vỏ coi chín đẹp, nhưng trong lòng sống sượng.

    - Cũng có vị bề ngoài coi thô sơ, oai nghi tầm thường bên trong có đầy đủ đức hạnh nào trí tuệ thiền định đạo đức. Cũng như quả Am La trong chín, ngoài xanh.

    - Cũng có vị hình tướng cục mịch nói năng thô lỗ, không có oai nghi đức độ, phá giới tạo ác, trong lòng dầy sân si, ngã mạn tật đố tham dục. Cũng như quả Am La trong ngoài đều xanh.

    - Cũng có vị oai nghi nghiêm chỉnh giữ giới thanh tịnh, bên trong đầy đủ đạo đức, trí tuệ rộng sâu, thiền định giải thoát, cũng như quả Am La trong ngoài đều chín.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  4. #84
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Tại thành này có ông Trưởng Giả tin kính ngôi Tam Bảo, sinh được cậu con trai, ông muốn cho cậu đi xuất gia và nghĩ rằng:

    - Phải tìm một vị Minh Sư đạo đức học vấn tinh thông, cho con mình nương theo, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, gần người lành, thì phát sinh lòng lành, gần kẻ ác sẽ tập nhiễm thói ác. Ví như gió không có thơm hôi, thổi qua rừng Thiên Đàn thì thấy gió thơm tho, nếu thổi qua Thiêm Bặc thì thấy gió hôi thối, cũng như tấm áo sạch để ở bồ hương, áo ấy sẽ thơm, nếu để chỗ hôi dĩ nhiên bị hôi. Gần bậc thiện trí thức, tính tình cao thượng, gần kẻ hèn hạ lòng dạ xấu xa.

    Nghĩ như vậy rồi ông dẫn con đến vị Tỷ Khưu nói trên thưa rằng:

    - Bạch Đại Đức! Cháu trai này là con của tôi, muốn để xuất gia tu học, kính xin Đại Đức từ bi tế độ!

    Vị Tỷ Khưu dùng đạo nhãn quan sát, xem căn khí có lớn lao không? Có thể làm hưng long cho Phật Giáo được không? Có thể tu trì giới hạnh được không? Mới nhận lời, xem xong đáp:

    - Quý hóa! Ông cho cháu đi xuất gia để nối chí Phật chủng, hay lắm tôi vui lòng tế độ!

    Trưởng Giả vui mừng lễ tạ ra về.

    Đoạn này nói người Ưu Bà Tắc cúng dàng vị Tỷ Khưu: Một hôm Ưu Bà Tắc có người bạn thân rủ đi xem hội, ông muốn cho cả nhà cùng đi, nhưng nghĩ "ai là người coi nhà, nếu bắt buộc một người ở lại thì không đành lòng" ông họp gia đình lại nói rằng:

    - Mai đi xem hội, ai vui lòng ở lại coi nhà?

    Cô con gái của ông đáp: - Thưa cha! Con xin coi nhà để cha mẹ và toàn gia đi xem hội!

    Ông vui vẻ nói: - Hay lắm! Con ở nhà trông nhà cho cha, chớ đi chơi đâu nhé!

    Sáng ngày mai cả nhà đi hết, ông quên không dặn con gái dâng cơm vị Tỷ Khưu, cô đóng chặt cửa ngõ vào nhà ngồi xem sách, đọc chuyện để giải buồn.

    Bữa cơm ngọ đã tới mặt trời chừng xế trưa. Vị Tỷ Khưu không thấy mang cơm đến, thầm nghĩ rằng:

    - Người trần tục bận nhiều công việc, hôm nay có lẽ họ quên dâng cơm?

    Ngài gọi chú Sa Di con ông Trưởng Giả lại bảo:

    Con đi lại nhà ông Ưu Bà Tắc lấy cơm, hôm nay có lẽ họ quên. Theo lời Phật dạy, con phải giữ oai nghi cho cẩn thận, vào các thôn xóm không được sinh tâm tham trước, tỷ như con ong lấy mật, chỉ cốt lấy mật, chứ không làm tổn thương đến sắc hương của hoa. Con cũng phải như thế, đến nhà người ta, chớ sinh lòng tham sắc đẹp v.v…giữ được cấm giới, là giữ được đạo. Ông Đề Bà Đạt Đa tuy tụng được nhiều kinh, vì tạo ác phá giới phải đọa vào địa ngục A Tỳ, ông Cù Ca Lợi tội phỉ báng phá giới phải đọa địa ngục, ông Chu Lợi Bàn Đặc chỉ tụng được câu kệ, vì giữ giới hoàn toàn nên được chứng quả La Hán. Giới là lối vào đạo Niết Bàn, là nhân thụ hưởng khoái lạc, cõi trời cõi người.

    Tỷ như quy chế trường trai ba hoặc bốn tháng, của phái Bà La Môn họ mời những vị cao minh giữ giới trong sạch trước hết họ đưa cho mỗi vị một phong bao, trong để vị ngọt. Bọn ấy có một người tuy học cao nhưng tính tình không được liêm khiết tham mùi ngọt ăn hết, tới ngày nhập hội mọi người xuất trình phong bao để vào, ông này không có phong bao cũng bước vào, người gác cửa hỏi:

    - Phong bao của ông đâu?

    - Có, nhưng đã ăn hết vị ngọt!

    - Thôi! Ông không được vào nữa, ông tham một chút mùi ngọt thiệt hại cho ông bốn tháng các mùi thơm ngon và các trân bảo khác, thôi ông đi ra!

    Cũng thế! Con vào thôn xóm chớ tham một việc nhỏ, lỡ phá giới của tam thế chư Phật, thì mất các sự khoái lạc của năm món dục, vui trong cõi nhân, thiên, và những Pháp Bảo! Vô lậu ba mươi bảy phẩm trợ đạo Niết Bàn v.v…Phải nhớ! Chớ phá giới của tam thế chư Phật, làm ô nhục cho Tam Bảo cha mẹ, Sư Tăng.

    - Dạ! Lạy thầy con xin ghi nhớ!

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  5. #85
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Sa Di lễ tạ lui ra, mang bình đeo bát đến nhà kia, gõ cửa. Cô gái chạy ra hỏi:

    - Ai gõ cửa đấy! Có việc gì?

    - Thưa! Tôi là Sa Di lại lấy cơm về dâng thầy!

    Cô ngó thấy Sa Di đến vui vẻ bụng bảo dạ rằng:

    - Ta hằng mong ước được gặp, hôm nay thật là toại nguyện cho ta lắm!

    Mở cửa chắp tay vái chào:

    - Mô Phật! Mời Ngài vào nhà con!

    Cô này xinh đẹp vô song, dong tư yểu điệu, năm ấy mới mười sáu tuổi, vì tình yêu nồng nhiệt phát động lòng dâm dục mạnh như lửa đốt! Cô làm ra vẻ õng ẹo, chớp mắt giương mi, lườm nguýt cười nói lộ tướng dâm dục.

    Sa Di nói: - Cô này có chứng bệnh phong hay sao? Điên cuồng như vậy hay bệnh dương giản?

    Cô đáp: - Em không có bệnh chi hết!

    Sa Di thầm nghĩ: - Cô gái này ý muốn phá hủy giới đức thanh tịnh của ta đây, ta phải nhớ lời thầy dạy: Cẩn thận giữ oai nghi. Sa Di vốn vững lòng không thay đổi ý chí, cô này lễ dưới chân thưa rằng:

    - Bạch ngài! Em luôn luôn ước nguyện được gặp để ngỏ bày tâm sự, nhưng chưa gặp lúc nào vắng vẻ em tưởng tượng Ngài có tâm thương em, nhà em giàu có vàng bạc đầy kho chẳng khác gì bảo tàng của nhà vua Tỳ Sa Môn Thiên Vương trên thượng giới, nhưng chưa có người làm chủ. Vậy Ngài hãy ném lòng làm chủ nhà em, em cùng Ngài loan phượng trăm năm, suốt đời em xin tôn kính hầu hạ, xin đừng từ chối để mãn nguyện lòng mông ước của em.

    Sa Di thầm nghĩ: - Ta có tội gì gặp các duyên này? Ta thà chết ở đây chứ không chịu phá giới của tam thế chư Phật. Ngày xưa có vị Tỳ Khưu đến nhà dâm nữ, bị cưỡng bách hành dục, còn đâm đầu vào hố lửa chết, quyết không chịu phạm giới, các Tỷ Khưu bị cướp lấy cỏ trói, chịu gió gào, nắng hét, trùng cắn, vì giữ giới không dám dứt cỏ mà đi, con ngang nuốt chuỗi ngọc, Tỷ Khưu nhìn thấy, vì giữ giới bị đánh vỡ đầu mà không nói; thuyền bị ngụp vào biển, Hạ Tọa Tỷ Khưu dâng phao cho Thượng Tọa, còn mình chịu chết chìm nơi biền cả. Các tiền bối đã khinh thân hộ giới mình là kẻ nào mà không giữ giới? Riêng những người đó là đệ tử Phật hay sao? Là vì họ giữ được giới cấm, Ðức Thế Tôn là thầy của họ, không phải là thầy của ta hay sao? Hột hồ ma ép chung với hoa thiềm bặc thì hôi, ta đã gặp được bậc thiện trí thức dạy bảo ta, dắt dìu ta, học đạo vô vi giải thoát an lạc, còn tham chi tình ái, tạo nghiệp luân hồi sinh tử làm gì, thà chết thân nầy quyết không phá giới để ô nhục cho Tam Bảo, phụ mẫu Sư Tăng. Nếu ta ra về, sợ cô tránh sự hổ thẹn, với sự nồng nàn của lòng dâm dục của cô, lôi kéo ta, phỉ báng ta, thôn xóm họ biết thì không tránh được sự ô nhục! Ta sẽ quyên sinh tại đây!

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  6. #86
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Đáp rằng: - Cô hãy cho tôi vào phòng nghỉ, thư thả tôi sẽ thưa chuyện cùng cô.

    - Vâng! Mời Ngài vào phòng khách!

    Vào phòng, Sa Di đóng cửa chặt, cởi áo giắt lên giá hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay hướng về thành Câu Thi Na, nơi Phật nhập Niết Bàn tự thệ nguyện:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con không bỏ Phật, Pháp, Tăng, không bỏ Hòa Thượng A Xà Lê và không bỏ chánh giới của Như Lai, chính con vì hộ trì giới để xin bỏ thân này. Nguyện cho con sinh vào nơi nào cũng được hạnh phùng ngôi Tam Bảo, và được xuất gia học đạo, tu phạm hạnh thanh tịnh tẩy trừ cho hết lậu nghiệp, thành đạo vộ thượng Bồ Đề.

    Khấn nguyện xong rút dao đâm cổ chết! Máu chảy linh láng thân thể đỏ ngầu.

    Cô đứng ngoài chờ lâu quá, nóng ruột bước lên gõ cửa bước vào, nhìn thấy tình nhân Sa Di của mình chết nằm trên mặt đất, coi rất rùng rợn, cô thất sắc, lúc đó lòng dục nguội lạnh, tâm hồn tán loạn hoảng hốt, lấy tay cào lên đầu làm cho tóc rối như tơ, tỏa che khắp mặt, lăn khóc mê hồn, rồi ngất đi.

    Khi cha mẹ cô trẩy hội về đứng ngoài cửa gọi con gái, gọi mãi không thấy trả lời, sai người trèo qua vào trong mở cổng, ông vào phòng thấy con gái như thế, sửng sốt hỏi:

    - Ôi! Con sao thế con? Cha đi vắng ở nhà ai làm phạm đến tiết hạnh con đấy ư? Con nói cho cha hay.

    Cô yên lặng không nói sao cả, và thầm nghĩ:

    - Nếu mình nói thật cho cha nghe thì rất xấu hổ, nếu đổ lỗi cho bác Sa Di, thì vô tình mình đã vu oan cho người lương thiện, tội ấy đọa địa ngục chịu khổ vô cùng, thôi cứ nói rõ cho cha ta nghe là hơn.

    - Thưa cha! Hôm nay Hòa Thượng sai bác Sa Di đến nhà ta lấy cơm, con quá yêu người đòi hỏi lòng yêu cho toại ý muốn, nên con quấy nhiễu người, và bắt theo ý muốn của con. Sư bác Sa Di quyết giữ giới thanh tịnh nên người vào phòng tự sát, con nghĩ thân con nhơ bẩn lại làm hạ thanh tịnh của người, tội ấy không phải nhỏ, con sợ quá, cũng không biết làm thế nào được nữa, xin cha xá tội.

    Ông vẫn thản nhiên không kinh khủng gì, vì ông tự biết đó là do nghiệp báo sử nhiên, ông nói:

    - Tất cả muôn pháp đều thuộc vô thường, con chớ có lo!

    Ông bước vào phòng tới trước thi hài Sa Di, lễ bái khen rằng:

    - Quý hóa thay! Khí cao như trời mây, tri kiến như sắt đá, bỏ mạng để hộ giới của tam thế chư Phật, trên đời có một không hai.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  7. #87
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Luật nước ấy, nếu tu sĩ nào chết ở nhà ai thì nhà ấy phải nộp cho chính phủ một ngàn quan tiền vàng. Theo lệ có một không hai.

    Nhà vua hỏi:

    - Khanh có lỗi gì?

    - Tâu bệ hạ! Có một tu sĩ chết tại nhà hạ thần.

    - Vì lý do gì?

    Ông cứ thực trình bày như trên cho vua nghe.

    Nhà vua nghe xong, cũng cảm phục tâm hồn cao thượng của Sa Di và nói:

    - Sa Di bỏ mạng để họ giới, không có lỗi gì, khanh mang tiền về, ta sẽ đi cùng khanh.

    Nhà vua lên xe đi đến nhà ông Ưu Bà Tắc, thấy Sa Di thân đỏ như cây gỗ chiên đàn, một lòng kính cẩn lễ sát đất, khen lao công đức. Nhà vua đưa một cỗ xe quý nhất rước ông Sa Di ra nơi bằng phẳng cao sạch, lấy các thứ gỗ để đứng trên đài cao cho các người dân xem coi, giữa lúc đó vua tuyên bố rằng:

    - Người con gái này có thể đẹp nhất thời nay, trong hàng nữ lưu, nhưng con người còn chịu ách được dục vọng kìm hãm nơi tâm ai là không yêu quý mê say! Đây ông Sa Di vì chưa đắc đạo, đem thân sinh tử hộ giới bỏ mạng thực là hiếm có trên thế gian này!

    Sau nhà vua mời Hòa Thượng lên đài thuyết pháp, xong cuộc thuyết pháp này có rất nhiều người phát tâm xuất gia trì giới, ai nấy đều cảm mến đức tin cao thượng của Sa Di, cúi đầu lễ Hòa Thượng mà lui.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  8. #88
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XX. NGƯỜI KHÔNG TAI, MẮT, MŨI, LƯỠI



    Khi bấy giờ Ðức Thế Tôn ở nước Xá Vệ tại tinh xá Kỳ Đà giảng thuyết chính pháp cho bốn chúng.

    Nước ấy có ông Trưởng Giả nhà giàu sinh hạ năm cô con gái, không có con trai.

    Giữa lúc vợ ông có mang thì ông chết.

    Luật nước: - Nếu ai không có con trai, sau khi chết tài sản sẽ thuộc về Chánh phủ.

    Sau khi ông Trưởng Giả nầy chết chính quyền địa phương lại tịch biên tài sản. Người con gái lớn của ông đến tâu vua:

    - Tâu Bệ Hạ! Cha con mới chết, không có con trai, nhưng hiện nay mẹ con đương có mang, không rõ trai hay gái. Vậy xin bệ hạ khoan thứ cho một thời gian, để mẹ con ở cữ xong, nếu là con gái, khi đó chính phủ tịch thâu tài sản cũng không muộn, xin Bệ Hạ minh xét.

    Vua Ba Tư Nặc, nghe lời cô tâu rất có lý, khen phải và nói:

    - Con nói có lý, phải lắm, ta sẽ cho quan địa phương biết, không lo.

    Cô bái tạ lui ra.

    Chẳng bao lâu bà Trưởng Giả sinh được đứa con trai nhưng không có chân, tay, tai, mắt, có mồm, không lưỡi cũng như một cục thịt lại có nam căn (buồi) nên họ cho là con trai, đặt tên là Man Từ Tỳ Lê.

    Khi bấy giờ cô gái lớn lên tâu vua và trình bày rõ cho ông nghe.

    Vua nghe xong, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói rằng:

    - Em con tuy thế nhưng cũng có thể là con trai, vậy tài sản này em con có quyền được hưởng hết, chính phủ sẽ không thâu biên nữa!

    - Dạ! Đội ơn Bệ Hạ! Con xin cáo lui!






    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  9. #89
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Tuy thế nhưng cô vẫn buồn, vì sao? Một đứa em chẳng ra giống người được hưởng cả một gia nghiệp, con gái thực là vô ích, luật chi mà luật lạ như vậy?

    Cô giận thân gái đớn hèn, luật nước bất công, từ đó bỏ nhà đi hầu hạ các phu chủ nhà khác, một cách kính trọng từ tốn, khi nấu ăn, khi dâng nước, chẳng khác đứa ở gái nhà họ.

    Gần đấy có ông Trưởng Giả thấy cô như vậy tới hỏi:

    - Con ơi! Nhà con giàu có, đâu con phải đi hầu hạ người, đạo vợ chồng nhà ai, có lễ phép của nhà ấy, tại sao con làm thế?

    - Thưa bác, cha con chết rồi! Của cải đầy kho tài sản rất nhiều, sinh hạ được năm chúng con là gái, gia nghiệp này phải nộp cho chính phủ, chúng con không có quyền an hưởng. May sao mẹ con mới sinh được đứa em trai, lại không có tai, mắt, mũi, lưỡi, tay chân, nên nhà vua cho em con được làm chủ ăn hương của này, con gái thực là vô ích nên con buồn mà làm thế!

    - Thôi con đừng buồn làm chi, muốn thoát thân con gái, đời sau được thân nam tử trượng phu, con đi cùng bác đến yết kiến Phật.

    - Dạ! Bác cho con đi cùng.

    Tới chốn Phật cúi đầu làm lễ xong, ông Trưởng Giả bạch Phật rằng:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Man Từ Tỳ Lê có phước duyên gì, được sinh vào nhà giàu sang, và không biết có tội gì mà không có tai, mắt, mũi, lưỡi, cúi xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được rõ.

    Phật dạy: - Trưởng Giả muốn biết chuyện ấy, ta sẽ vì ông mà nói.

    - Dạ! Con xin chú ý nghe!

    - Trưởng Giả! Việc này về đời quá khứ, có hai anh em con ông Trưởng Giả, người anh tên là Đàn Nhã Thế Chất, người em tên là Thi La Thế Chất.

    Người anh nết na trung chính thành thực và hay làm hạnh bố thí, cứu đỡ kẻ bần cùng cô lộ, bởi thế nên trong nước đều kính nể tôn trọng, sau nhà vua dùng ông làm chức Bình Sự để xử đoán những việc kiện tụng trong nước.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  10. #90
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Luật pháp nước ấy thời đó, những người vay nợ không phải viết văn tự, nếu ai có việc gì chỉ đến quan Bình Sự chứng nhận cho là đủ.

    Ông Thi La Thế Chất nhà giàu hay cho vay nợ lấy lãi, hôm đó có người lái buôn đến vay ông một số tiền lớn để đi buôn, ông đồng ý cho vay. Ngày giao tiền ra tòa Bình Sự, ông đem theo đứa con trai nhỏ của ông, vì ông chỉ có một mình nó.

    Ông thưa rằng: - Thưa anh Bình Sự! Người lái buôn đây, vay em một số tiền ngần này, để ra biển buôn bán, anh chứng nhận cho, nếu tôi không may chết thì số tiền này trả về cho con tôi.

    Bình Sự gật đầu nói: Được, không sao, chú cứ yên tâm cho vay, chỉ cốt sao họ đi buôn được tốt lành trở về là hơn!

    Qua thời gian không lâu Thi La Thế Chất chết, người lái buôn ra bể không may gặp trận bão đánh đắm thuyền mất cả, nhưng anh ta bám được một khúc gỗ trôi giạt vào bờ, thoát chết về nước nhà!

    Người con ông Thi La Thế Chất biềt tin ông lái buôn vay tiền của cha mình, ra biển bị đắm thuyền được thoát chết trở về, song biết rằng bị tổn hại mất cả, nên không đòi nợ.

    Khi đó có một người lái buôn khác thương tình anh buôn bán thất bại, cho anh mượn một số tiền đi buôn chuyến nữa. Lần này đi gặp sự tốt lành trở về được lãi rất nhiều, chở đầy thuyền các quý vật ở hải ngoại về, nào là vàng bạc châu ngọc vân vân.

    Chuyến này anh được phát tài, mời anh em họ hàng thân quen, ăn uống vui mừng trả các món nợ, nhưng món nợ của ông Thi La Thế Chất to quá anh thầm nghĩ rằng:

    - Chuyến trước ta về, không thấy con ông ta đòi hỏi gì, một là lúc ta vay cậu còn bé quá không nhớ, hai là thấy ta buôn thua lỗ mà không hỏi, vậy ta hãy thử xem cậu ta còn nhớ hay không, thì biết.

    Hôm đó anh ta mặc áo mới đẹp cỡi ngựa đi chợ, tới chợ gặp cậu con trai ông Thi La Thế Chất, cậu hỏi:

    - Tát Bạt! Hồi này nghe biết ông buôn bán phát tài, hôm nay mang tiền trả số nợ của cha tôi ngày trước có phải không?

    Anh giả đò, ngẩn ngơ ra một lúc, rồi đáp rằng:

    - Thực thế ư? Tôi không rõ, cậu lầm đấy không phải đâu, hay là ai? Cậu về mở sổ coi?

    Anh dùng mưu để quỵt số tiền nợ, về nhà lấy một viên bảo châu đến nhà ông Bình Sự nói với bà ấy rằng:

    - Thưa bà! Tôi có vay của ông Thi La Thế Chất một số tiền nhỏ, bây giờ con ông ta đòi trả, đối với gia đình tôi không thể trả được, vậy tôi xin biếu bà viên ngọc này, trị giá mười vạn, nếu cậu ấy kiện tôi thì bà nói với quan lớn, bác đơn đi, để tôi không phải trả số nợ ấy!

    Đáp: - Quan lớn nhà tôi trung trực lắm anh ạ, tôi không dám nói đâu!

    Anh ta năn nỉ mãi thí dỗ bà một cách khéo léo, bà bùi tai nói: Thôi anh để đó về đi, mai lại đây tôi trả lời.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •