Đại sư thứ 10: Caurangipa - Đứa trẻ lạc loài
Từ thuở hoang sơ khi chưa có sự bắt đầu
Những cái rễ của cây vô danh
Được vun tưới bằng những cơn mưa
Của thói quen vọng tưởng
Chúng lớn mạnh thành những nhánh vô minh
Hôm nay ta đốn cây vô minh ấy
Bằng chiếc rìu giáo pháp của chân sư
Bạn ơi! Hãy nghĩ suy, cân nhắc mà tu tập
Truyền thuyết
Sư Caurangipa nguyên là hoàng tử con vua Devapala. Khi ngài được 12 tuổi thì hoàng hậu qua đời vì một chứng bệnh nan y.
Trước khi nhắm mắt lìa đời, bà gọi ngài đến để trối trăng: “Này con, tất cả niềm vui hay nỗi buồn đều có căn nguyên. Mỗi mỗi đều lưu xuất từ các nghiệp thiện ác. Con hãy nhớ lời mẹ dạy, cho dù phải gặp nguy nan, con chớ có làm những điều xấu ác.”
Nói xong bà trút hơi thở cuối cùng.
Sau lễ an táng hoàng hậu, triều đình thúc dục vua lập hoàng hậu khác theo tục lệ bà-la-môn. Nhà vua vẫn còn thương tiếc người vợ yêu nên ít hôm sau ngày tái giá, nhà vua đi vào rừng sâu để xua đuổi nỗi buồn trong lòng.
Một ngày kia, sau khi nhà vua rời cung thành, bà hoàng hậu mới trèo lên mái cung điện để ngắm cảnh. Trong tầm mắt bà hiện ra hình bóng của một thanh niên khôi ngô tuấn tú. Đó là hoàng tử Caurangipa.
Bà hoàng lập tức say mê hình ảnh người con trai của chồng. Bà lệnh cho hoàng tử vào hầu nhưng ngài từ chối. Điều này khiến bà tức giận điên cuồng, bèn nghĩ đến chuyện trả thù: “Hắn đã khinh thường ta. Hắn là kẻ thù của ta. Ta cần phải loại trừ hắn.”
Bà liền ra lệnh cho lính canh ám sát hoàng tử. Họ không đồng tình với bà: “Tâu lệnh bà! Hoàng tử không đáng tội chết. Ngài vô tư như trẻ con. Chúng tôi không thể ra tay sát hại trẻ con.”
Vì vậy, bà hoàng nghĩ ra một mưu kế.
Cho đến một hôm, nhà vua trở lại cung điện. Ngài bắt gặp vợ mình trần truồng, áo quần tơi tả và thân thể đầy những vết cào xước.
Vua kêu lên: “Chuyện gì đã xảy ra với nàng?”
Hoàng hậu khóc lóc: “Hoàng tử đã lợi dụng lúc đại vương đi vắng để làm nhục thiếp.”
Nghe qua, nhà vua nổi cơn thịnh nộ: “Nếu vậy, nó phải chết để đền tội.”
Nhà vua lập tức ra lệnh cho thị vệ mang hoàng tử vào rừng chặt bỏ tay chân để trừng phạt. Nhưng những người thị vệ ấy vốn kính trọng và thương yêu hoàng tử, bèn nghĩ cách cứu chàng. Họ quyết định hy sinh một trong những đứa con của họ. Nhưng khi họ đề nghị cách này với hoàng tử thì ngài quyết liệt từ chối: “Không thể như thế được. Ta đã hứa với mẫu hậu dù nguy biến đến đâu ta cũng không làm điều xấu ác. Các ngươi phải thi hành mệnh lệnh của phụ vương.”
Thấy chàng quá cương quyết, họ bèn mang chàng vào rừng chặt bỏ tay chân đem về trình đức vua.
Ngay lúc ấy sư Minapa xuất hiện hỏi han. Hoàng tử đem nỗi oan tình kể cho nhà sư nghe. Ngài thương xót chàng nên đem pháp thuật truyền cho phương pháp thở bụng (Pot-bellid breathing). Sư nói: “Nếu con cố gắng tu luyện, không bao lâu tay chân của con sẽ trở lại đầy đủ.
Kế đó, nhà sư tìm đến chỗ bọn trẻ chăn trâu nhờ chúng chăm sóc hoàng tử (một đứa trong bọn trẻ ấy là sư Goraksa trong truyện trước).
Y theo pháp, hoàng tử tu tập thiền định suốt 12 năm.
Vào một đêm tối, có đám thương nhân đi gần đến chỗ hoàng tử trú ngụ. Để tránh sự dòm ngó của kẻ cướp, họ đem vàng bạc châu báu chôn giấu trong rừng rồi mới ngủ nghỉ.
Tình cờ họ đi ngang qua chỗ của hoàng tử, chàng nghe tiếng chân đi bèn lên tiếng hỏi: “Ai đó vậy?”
Bọn thương nhân nghe tiếng kêu lớn, ngại rằng gặp phải kẻ cướp, bèn đồng thanh trả lời: “Vâng! Chúng tôi là dân làm than, đốn củi.”
“Than à! ” Hoàng tử nói.
Bọn thương nhân quay lại chỗ nghỉ của họ, nhưng khi đào lấy của cải cất giấu dưới đất thì thấy tất cả chỉ toàn là than và than.
Cả bọn kinh sợ, hỏi nhau: “Cớ sao lại thế này?”
Một người có vẻ thông thái nhất trong bọn đoán rằng: “Khi nãy có người kêu hỏi bọn ta. Chắc chắn đó là một bậc thánh nên mỗi lời nói ra đều có khả năng biến thành hiện thực. Tốt nhất, chúng ta nên đến chỗ ấy xem thử.”
Họ dò dẫm từng bước chân trong đêm tối dưới ngọn đuốc bập bùng để đến chỗ hoàng tử. Khi đến nơi, họ nhìn thấy một thân người không có tay chân, đang tựa vào một gốc cây to.
Bọn họ kể cho hoàng tử nghe chuyện lạ và khẩn cầu ngài thu lại pháp thuật. Caurangipa bảo với họ: “Ta thực tình không biết điều ấy. Nếu quả thực như thế xin than trở lại thành vàng bạc như cũ.”
Bọn thương nhân quay về lại thấy vàng bạc như cũ, họ vui mừng nhảy nhót. Sau đó, cả bọn quay lại cúng dường cho Caurangipa và tôn thờ ngài như một bậc thánh.
Qua sự kiện này, Caurangipa nhớ lại lời thầy. Ngài chú nguyện cho tay chân lành lại như cũ. Lập tức điều lạ xảy ra.
Và buổi sáng hôm sau, Goraksa chứng kiến sự bình phục của ngài.
Sau khi đắc pháp, ngài nói: “Nếu đất là mẹ của muôn loài thảo mộc, thì hư không là chất làm nên tứ chi của ta.”
Đoạn ngài bay lượn giữa hư không.
Tương truyền rằng Đại sư Caurangipa là một nhà sư khó tính và không hề truyền pháp cho ai, nhưng người ta nói rằng cây đại thụ chứng kiến sự tu hành giác ngộ của ngài vẫn còn sống đến hôm nay.
Hành trì
Hư không và vũ trụ là hai-trong-một. Đó là một khía cạnh của Pháp thân (Dharmakaya), một thuật ngữ để chỉ trí vô phân biệt. Dharmakaya còn là một sự hợp nhất giữa vũ trụ và ánh sáng tâm linh.
Bằng pháp thở bụng, Caurangipa đột nhiên nếm được vị chung của các pháp. Đó là không - giải thoát. Ngài đã thể nhập vào cảnh giới hư vô không tịch bằng chính pháp thân thanh tịnh (a pure appritional body).
Một đạo sư Mật tông có khả năng biến hoá hình tướng của đối tượng mà ngài thâm nhập. Phép tu căn bản ấy của Caurangipa là quán một thân người với đầy đủ tứ chi, cái thân biến hoá của Caurangipa chính là pháp thân.
Thân ấy không thể hư hoại được, vì đó là tướng của trí huệ và thanh tịnh thức. Tướng này (Pháp thân) bất khả phân ly với các tướng từ tâm của hành giả. Sắc thân ấy được hình thành bằng ý tâm hay niệm tưởng (mental concept).
Cảnh giới bên ngoài chỉ là ảnh chiếu của tâm. Hư không dung chứa tất cả các pháp, vì vậy một khi tâm tương ứng với hư không thì các pháp chịu sự chi phối của tâm hành giả.
Âm thanh và độ rung là phần chung của tưởng và sắc (The plane of sound and vibration is the interface between thought and appearances). Vì vậy, chơn ngôn là âm thanh vi diệu rốt ráo tạo nên cái không gian ba chiều.
Một hành giả Du-già chứng đắc không thể nói dối, vì ngay một niệm mống khởi trong tâm của ngài đều tự nhiên biến thành hiện thực.
Nói rõ hơn, thế giới này được tạo nên bởi vọng tưởng của tất cả chúng sanh, mà trí lực cuả một hành giả tu chứng chỉ có khả năng biến đổi một phần trong tổng thể vọng tưởng ấy.
Vì lý do đó mà chư Phật, Bồ Tát phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh.