PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Tổ sư Liễu Quán



senvang
09-14-2020, 11:28 AM
Tổ sư Liễu Quán


https://hoavouu.com/images/file/4aKVzWQx0QgBAHxP/to-lieu-quan.jpg

Tổ Sư Thiệt Diệu – Liễu Quán

(1667 – 1742)


Thân thế, Khí tiết Và Hiếu sự

Tổ sư họ Lê, húy Thiệt Diệu, tự Liễu Quán, sinh giờ Thìn, ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức ngày 01 tháng 01 năm 1668, tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Mất mẹ năm sáu tuổi, Tổ muốn xuất gia, phụ thân liền đưa đến chùa Hội Tôn ở Phú Yên đảnh lễ Hòa Thượng Tế Viên để cầu thọ giáo.

Hòa Thượng Tế Viên viên tịch, trải qua bảy năm, Tổ đã băng đèo vượt suối từ Phú Yên ra đất Thuận Hóa đến núi Hàm Long tức là chùa Báo Quốc ngày nay đảnh lễ Giác Phong Lão Tổ thỉnh cầu tu học.

Đến năm Tân Mùi, năm 1691, sau khi xuống tóc vừa một năm, Tổ trở lại quê nhà hái củi nấu cháo, phụng dưỡng phụ thân, thắm thoắt bốn năm, thì phụ thân qua đời.

• Con đường hướng thượng và Công án

Năm Ất Hợi, tức năm 1695, Tổ trở lại Thuận Hóa đảnh lễ Hòa Thượng Trường Thọ – Thạch Liêm cầu thọ Sa di giới tại chùa Thiền Lâm do Hòa Thượng Trường Thọ - Thạch Liêm làm đàn đầu.

Năm Đinh Sửu, tức năm 1697, Tổ cầu thọ cụ túc giới tại giới đàn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa do Hòa Thượng Từ Lâm làm đàn đầu.

Năm Kỷ Mão, tức năm 1699, sau hai năm thành tựu giới thể cụ túc, Tổ sống đời đạm bạc và đi tham học với các bậc thạc đức cao tăng chốn Tòng lâm ở Thuận Hóa. Bấy giờ Tổ thường tự nghĩ: “Hà pháp tối vi đệ nhất, ngã quyết xả thân mạng, y pháp tu hành = Pháp nào là vi diệu tối thượng bậc nhất, ta nguyện quyết xả thân mạng, y vào pháp đó tu hành”.

Năm Nhâm Ngọ, tức năm 1702, Tổ nghe danh Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung ở chùa Ấn Tôn, tức Từ Đàm ngày nay, là bậc Thầy số một, khéo dạy người tham thiền và niệm Phật. Tổ liền đến chùa Ấn Tôn đảnh lễ Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung để tham học.

Bấy giờ, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung dạy Tổ tham công án: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ = Vạn pháp về một, một về chỗ nào?”.

Sau khi tiếp nhận công án, trải qua tám, chín năm dồn hết sức lực tham thiền quán chiếu, công án chưa được vỡ tung, tâm bỗng hoang mang, nhân khi đọc “Truyền đăng lục”, tới câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ = Chỉ vật để truyền tâm, ấy là chỗ mà người không lãnh hội”, thì Tổ liền hoát nhiên tự ngộ.

Năm Mậu Tý, tức năm 1708, Tổ liền đến chùa Ấn Tôn trình lên Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung về sự ngộ chỉ của mình.

senvang
09-14-2020, 11:49 AM
Tổ trình chứng: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ = Chỉ vật để truyền tâm, ấy là chỗ mà người không lãnh hội”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung hỏi: “ Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô khi quân bất đắc = Vực thẳm buông tay, tự mình khẳng định thừa đương; chết đi sống lại không thể xem thường” là thế nào?

Tổ vỗ tay cười ha hả.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung bảo: Chưa phải ở đó!

Tổ đáp: “Bình truy nguyên thị thiết = Quả cân vốn là sắt”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung bảo: Chưa phải.

Sáng hôm sau, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung thấy Tổ đi ngang qua, lại liền gọi và bảo: “Công án hôm qua chưa xong, trình lại xem nào?”.

Tổ liền thưa: “Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời! = Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!”.

Bấy giờ, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung mới có lời khen, nhưng chưa ấn chứng.


Từ đó, Tổ ẩn cư ở núi Thiên Thai ăn rong ở hồ, uống nước ở suối, để chuyên sâu thiền quán và thỉnh thoảng đi hành cước để tham vấn lý đạo với các bậc cao đức ở trong chốn Tòng lâm.

Mùa hạ năm Nhâm Thìn, tức là năm 1712, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung đến Quảng, sách tấn an cư toàn viện, Tổ liền trình lên bài kệ “Dục Phật = Tắm Phật”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung hỏi:

“Tổ Tổ tương truyền, Phật Phật thọ thọ, vị thẩm truyền thọ cá thậm ma? = Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhận, vậy các Ngài truyền thọ với nhau cái gì?”.

Tổ đáp:

“Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,

Quy mao phất tử trọng tam cân”.

Nghĩa là:

“Măng đá nhảy ra dài một trượng

Lông rùa phe phẩy nặng ba cân”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung:

“Cao cao sơn thượng hành thuyền

Thâm thâm hải để tẩu mã”.

Nghĩa là:

“Núi cao vời vợi chiếc thuyền chèo

Biển thẳm ngút ngàn con ngựa chạy”.

Tổ đáp:

“Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống

Một huyền cầm tử tận nhật đàn”.

Nghĩa là:

“Trâu đất sừng gãy thâu đêm rống

Cầm tử dây đứt suốt ngày đàn”.

Tổ sư đối ứng trong chớp mắt, lý sự tương dung bất nhất, bất nhị, như nước yên, tức thì trăng hiện không trước không sau, tâm cảnh nhất như không đến không đi, siêu việt niệm tưởng, nên đã được Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung ấn chứng tâm tông.

senvang
09-14-2020, 12:00 PM
• Những ngày cuối cùng

Cuối mùa Thu năm Nhâm Tuất (1742), Tổ chỉ bệnh nhẹ. Vào giữa tháng mười, Tổ gọi đồ chúng mà bảo: “Ngô tương quy hĩ, thế duyên dĩ tận = Duyên đối với thế gian đã hết, Tôi sắp về vậy!”. Mọi người đứng bên đều khóc. Tổ dạy: “Quý vị tại sao lại buồn khóc? Chư Phật xuất thế còn thị hiện Niết bàn. Tôi nay đến đi rõ ràng, về ắt có chỗ. Quý vị hãy vâng hành đừng có buồn khóc!”.

Vào tháng 11 năm Nhâm Tuất, trước khi mất vài ngày, Tổ ngồi ngay thẳng viết thi kệ thị tịch như sau:

“Thất thập dư niên thế giới trung

Không không sắc sắc diệc dung thông

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý

Hà tất bôn man vấn Tổ tông”.

Nghĩa là:

“ Hơn bảy mươi năm giữa cõi đời

Không không sắc sắc thảy dung thông

Sáng nay nguyện mãn về quê cũ

Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông”.

Sau khi viết xong thi kệ thị tịch, Tổ dạy môn đồ rằng: “Câu nói sau cùng của Lão Tăng sống đạo là gì? Lồng lộng nguy nga, huy hoàng rực rỡ. Xưa đến, nay đi. Muốn hỏi chỗ trọng yếu đến đi thế nào? Kìa trời biếc lắng trong, trăng thu vằng vặc, toàn thân hiển lộ nơi sa giới đại thiên. Lời pháp sau cùng của ta, quý vị hãy nghĩ suy, vô thường nhanh chóng, Bát nhã phải tinh cần học tập. Đừng vội quên lời ta, mỗi vị hãy tự mình tinh tấn lên!”.

Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất, tức ngày 18 tháng 12 năm 1742, sau khi uống trà, pháp thoại và hành lễ buổi sáng xong, Tổ hỏi mấy giờ? Môn đồ đáp là giờ Mùi, Tổ liền an nhiên thị tịch.

Tổ hưởng thọ 76 tuổi, ghi theo bia ký; Tổ hưởng thọ 74 tuổi, tính theo niên đại sinh và tịch, 43 năm được truyền y bát, 34 năm thuyết pháp độ sanh, đệ tử xuất gia kế thừa pháp có 49 vị, đệ tử tại gia có đến ngàn, vạn người.

Chúa Võ Vương - Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) quý trọng đạo hạnh của Tổ, cung kính dâng lên Tổ thụy hiệu: “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng” để khắc vào bia.

Sau khi Tổ viên tịch gần ba tháng, nhục thân của Ngài đã được môn đồ cung tiễn đến nhập bảo tháp vào ngày 19 tháng 2 năm Quý Hợi (1743).



https://hoavouu.com/images/file/nEl8zGQx0QgBAHFS/thap-to-lieu-quan.jpg

Tháp Tổ Liễu Quán Tại núi Thiên Thai Thiền Tôn (Huế)