Xem phiên bản đầy đủ : Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 5
lavinhcuong
06-24-2015, 07:34 AM
Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 5
Bài 64.
Kính Quý Đạo Hữu !
Bài viết về đức Lục Tổ Huệ Năng tuy đã từng đăng ở cuối quyển 3 (vì mục đích muốn cho liền mạng mạch 33 vị Tổ), nay vì muốn thuận theo nguyên bản Truyền Đăng Lục nên Cường đăng lại (nhưng nội dung không lặp lại).
Kính báo !
_____________
33. TỔ HUỆ NĂNG ĐẠI SƯ 慧能大師
Họ ngoài đời là Lư. Gốc người Phạm Dương, cha là Hành Thao năm Võ Đức (618 – 626 – Đường Cao Tổ) làm quan bị giáng chức, đày đi Nam Hải, đến Tân Châu rồi làm dân ở đó.
Ba tuổi cha mất, mẹ Ngài thủ tiết nuôi con. Đến lớn gia cảnh càng nghèo khó, Ngài kiếm củi bán
nuôi sống qua ngày. Một hôm gánh củi vào chợ, nghe khách tụng kinh Kim Cang, giật mình hỏi khách:
- Đó là pháp gì? Được từ thầy nào?
Khách đáp:
- Pháp đó tên Kinh Kim Cang, được từ Nhẫn Đại sư ở Hoàng Mai.
Sư bèn thưa với mẹ, bày tỏ ý tìm thầy để cầu pháp. Thẳng đến Thiều Châu, gặp kẻ sĩ cao hạnh Lưu Chí Lược, kết bạn giao hữu. Ni Vô Tận Tạng là cô của Chí Lược, thường tụng kinh Niết Bàn, Sư nghe qua liền giải nghĩa kinh cho nghe. Ni cầm quyển kinh lên hỏi về chữ, Sư nói:
- Chữ thì không biết, nghĩa thì cứ hỏi.
Ni nói:
- Chữ còn không biết, làm sao hiểu nghĩa được?
Sư đáp:
- Diệu lý chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.
Ni nghe hết sức ngạc nhiên, thông báo các cụ lớn tuổi trong thôn xóm rằng "Năng là người hữu đạo, nên thỉnh cúng dường". Từ đó người địa phương đua nhau đến chiêm lễ. Gần đó có nền đất cũ chùa Bảo Lâm, chúng bàn bạc sửa chữa xây cất thêm, mời Sư đến ở. Bốn chúng tụ tập đông đúc, chẳng bao lâu chùa trở thành ngôi bảo phường. Một hôm Sư chợt nghĩ:
- Ta cầu đại pháp đâu được dừng lại giữa đường.
Hôm sau liền đến trong thạch thất, núi Tây Sơn huyện Xương Lạc, gặp thiền sư Trí Viễn. Sư bèn thỉnh ích, Viễn nói:
- Xem ông thần tư sáng sủa hơn hết, có lẽ là người phi thường. Ta nghe Bồ đề Đạt ma từ Tây vực đến đây, truyền tâm ấn ở Hoàng Mai, ông nên đến đó tham quyết.
Sư từ giã, đến thẳng chùa Đông Thiền huyện Hoàng Mai, nhằm năm Đường Hàm Hanh thứ hai (năm 671). Hoằng Nhẫn Đại sư gặp một lần thầm lặng mà biết Sư, sau truyền y pháp và dạy Sư ẩn trong vùng Hoài Tập, Tứ Hội.
Đến ngày mùng 8 tháng giêng năm Nghi Phụng nguyên niên, năm bính tý (676 - Đường Cao Tông), Sư tới Nam Hải gặp pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn ở chùa Pháp Tánh. Sư tạm ngụ dưới chái chùa, chiều tối gió tốc thổi lá phướn chùa, nghe hai ông tăng tranh luận, người thì nói phướn động người thì nói gió động, đối đáp qua lại mãi mà chưa chịu ngã ngũ. Sư nói:
- Cho kẻ dung tục này tham dự cao luận ngay được không ạ? Thật ra gió phướn chẳng động, tâm mình động thôi!
Ấn Tông tình cờ nghe lời nói đó rất ngạc nhiên mà kính sợ, hôm sau mời Sư vào thất hỏi về nghĩa gió phướn. Sư viện lý giảng giải đầy đủ, Ấn Tông bất giác đứng dậy hỏi:
- Nhất định hành giả là người phi thường, thầy của hành giả là ai?
Sư kể lại tự sự nhân do đắc pháp. Từ đó Ấn Tông giữ lễ đệ tử, xin được thọ nhận thiền yếu và báo tứ chúng:
- Ấn Tông thật đáng là phàm phu, nay may gặp được nhục thân Bồ tát.
Liền chỉ Lư cư sĩ đang dưới toà, bảo:
- Chính là người đó.
Nhân mời Sư xuất trình tín y được Ngũ Tổ truyền để mọi người chiêm lễ.
Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông hội các bậc danh đức xuống tóc Sư. Ngày mùng 8 tháng hai, Sư
thọ giới cụ túc ở chùa Pháp Tánh với luật sư Trí Quang. Giới đàn ấy do Ngài Tam tạng Cầu na Bạt đà la dựng nên vào triều Tiền Tống (420 – 479), Ngài Tam tạng huyền ký:
- Sau sẽ có nhục thân Bồ tát thọ giới tại giới đàn này.
Lại cuối triều Lương (502-556), Ngài Tam tạng Chơn Đế tự tay trồng hai cây bồ đề ở gần bên giới đàn, bảo chúng:
- Một trăm hai mươi năm sau, có đại sĩ diễn thuyết vô thượng thừa dưới hai cây này, độ vô lượng chúng.
Sư thọ giới cụ túc rồi, khai diễn pháp môn Đông Sơn dưới hai cây đó, đúng như lời huyền ký.
Năm sau 677, ngày mùng 8 tháng hai, bỗng nhiên Sư báo chúng:
- Ta không muốn ở đây, cần trở lại chỗ ẩn trước.
Bấy giờ Ấn Tông cùng tăng chúng và tại gia cư sĩ hơn nghìn người, tiễn Sư về chùa Bảo Lâm.
Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Sư đến chùa Đại Phạm trong thành, chuyển diệu pháp luân và thọ Vô tướng tâm địa giới. Môn nhân ghi chép các điều mục thành Đàn Kinh lưu truyền thạnh hành ở thế gian. Nhưng Sư lại trở về Tào Khê, ở chùa Bảo Lâm thuyết đại pháp vũ, học giả không dưới số nghìn.
lavinhcuong
06-24-2015, 07:36 AM
Năm Thần Long nguyên niên 705, vua Trung Tông ban chiếu:
“Trẫm đã thỉnh hai thầy An và Tú vào trong cung cúng dường, mỗi khi rỗi rảnh trong muôn một mà tham cứu Nhất thừa".
Hai thầy đều khiêm tốn từ nhượng:
“Phương Nam có thiền sư Huệ Năng mật thọ y pháp từ Nhẫn Đại sư, bệ hạ nên mời người đó đến thưa hỏi”.
Vua sai nội thị Tiết Giản đem chiếu nghênh thỉnh : "Mong Sư thương nghĩ mau phó thượng kinh.”
Sư dâng biểu thác bệnh để từ chối, nguyện được hết đời ở chốn núi rừng.
Tiết Giản thưa:
- Các vị thiền đức ở kinh thành đều nói: “Muốn hội được đạo ắt phải tọa thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà được giải thoát thì chưa có chuyện đó”. Chưa biết Sư nói pháp như thế nào?
Sư nói:
- Đạo do ngộ tâm, há do ngồi đâu? Kinh nói: “Nếu thấy Như Lai hoặc ngồi hoặc nằm, người đó hành tà đạo"(nhược kiến như lai nhược toạ nhược ngoạ thị hành tà đạo). Tại sao vậy? "Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu” (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ). Thế thì, không sanh diệt là Như Lai thanh tịnh thiền, chư pháp không tịch là Như Lai thanh tịnh tọa, rốt ráo không có chứng đắc, huống chi là ngồi ư?
Giản thưa:
- Đệ tử trở về chúa thượng ắt hỏi, xin hòa thượng từ bi chỉ dạy tâm yếu.
Sư nói:
- Đạo không có sáng tối, sáng tối là nghĩa đắp đổi nhau. Sáng, sáng hoài cũng có lúc hết.
Giản nói:
- Sáng dụ cho trí tuệ, tối dụ cho phiền não. Người tu đạo nếu không đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì sanh tử từ vô thủy nhờ đâu mà xuất ly được?
Sư nói:
- Nếu đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì đó là căn cơ nhỏ của hàng nhị thừa, xe dê nai … Hàng đại căn thượng trí đều không như thế.
Giản hỏi:
- Thế nào là kiến giải đại thừa?
Sư nói:
- Minh và vô minh tánh chúng không hai, tánh không hai tức là thật tánh. Tánh thật đó nơi phàm ngu mà không giảm, ở thánh hiền mà không tăng, ở phiền não mà không loạn, trong thiền định mà không lặng. Không đoạn không thường, không đến không đi, không ở trung gian cùng với trong ngoài, chẳng sanh chẳng diệt tánh tướng như như, thường trụ không đổi đời. Đó gọi là đạo.
Giản nói:
- Sư nói chẳng sanh chẳng diệt có khác gì ngoại đạo?
Sư dạy:
- Cái mà ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt ngăn cái sanh, lấy cái sanh làm rõ cái diệt; diệt cũng như chẳng diệt, (cũng như) sanh nói là không sanh. Cái mà ta nói chẳng sanh chẳng diệt, là xưa vốn không sanh nay cũng không diệt, vì thế chẳng đồng ngoại đạo.Ông muốn biết tâm yếu, chỉ cần tất cả việc thiện ác đều chớ nghĩ suy, tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên (trong trẻo) thường tịch mà diệu dụng như hằng sa.
Giản nhờ chỉ dạy hoát nhiên (thông suốt) đại ngộ.
Lễ từ trở về cửa khuyết, dâng biểu tâu lên lời Sư nói. Vua ban chiếu cảm tạ Sư và ban tặng Y ca sa ma nạp, 500 xấp lụa và một bảo bát. Ngày 19 tháng chạp ban sắc đổi tên Bảo Lâm cổ tự thành chùa Trung Hưng.
Ngày 18 tháng 11 năm Thần Long thứ ba 707, vua lệnh thứ sử Thiều Châu (Vi Cừ) sửa sang xây cất và trang trí thêm chùa Trung Hưng, ban biển ngạch là Pháp Tuyền Tự. Và chùa tại quê nhà Sư ở Tân Châu là Quốc Ân Tự.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Này các thiện tri thức, mỗi người các ông hãy tịnh tâm lắng nghe ta thuyết pháp. Tự tâm mỗi người các ông là Phật, chớ nên hồ nghi, ngoài tự tâm không một vật nào có thể kiến lập, muôn thứ pháp đều do bổn tâm sanh. Thế nên Kinh nói: “Tâm sanh các thứ pháp sanh, tâm diệt các thứ pháp diệt”. Nếu muốn thành tựu chủng trí, phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Nếu đối với tất cả chỗ mà không trụ tướng, nơi tướng ấy chẳng sanh ưa ghét cũng không lấy bỏ, không nghĩ đến các việc lợi ích thành hoại … mà an nhàn điềm tĩnh hư dung đạm bạc, đó gọi là nhất tướng tam muội. Nếu ở mọi nơi đi đứng nằm ngồi, hành trực tâm thuần nhất thì chỗ nào cũng là đạo tràng bất động, mới thành chơn tịnh độ, đó gọi là nhất hạnh tam muội.Nếu người gồm đủ hai thứ tam muội này, tợ như đất có sẵn hạt giống, chỉ hay gìn giữ trưởng dưỡng sẽ thành tựu cái thật kia, nhất tướng và nhất hạnh cũng giống như vậy. Nay ta thuyết pháp như trời mưa thấm nhuần khắp cả đại địa, Phật tánh các ông dụ như những hạt giống, gặp mưa thấm ướt đều được phát sanh. Ai theo ý chỉ ta quyết định được bồ đề, y theo ta dạy mà hành nhất định chứng diệu quả.
Năm Tiên Thiên nguyên niên (cuối năm 712 – Đường Huyền Tông), Sư báo đồ chúng:
- Ta luống thẹn thọ y pháp Nhẫn Đại sư, nay thuyết pháp cho các ông mà không truyền y. Bởi vì tín căn các ông đã thuần thục, nhất định không nghi, kham nhận đại sự. Hãy nghe ta nói kệ:
心地含諸種
普雨悉皆生
頓悟華情已
菩提果自成
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai sanh.
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ đề quả tự thành.
(Tâm địa chứa các giống,
Gặp mưa ắt nảy mầm.
Đốn ngộ hoa tình rồi,
Quả Bồ đề tự thành).
Sư thuyết kệ xong, lại nói:
- Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng, các ông cẩn thận đừng quán tâm ấy là tịnh và không ngơ. Tâm vốn tịnh đó không thể lấy hay bỏ được. Mỗi người hãy tự nỗ lực tùy duyên đi nhé.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/8a/Luc_To_Hue_Nang.jpg/200px-Luc_To_Hue_Nang.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 07:42 AM
Bài 65.
(Tiếp theo)
Sư thuyết pháp lợi sanh trải qua bốn mươi năm. Ngày mùng 6 tháng bảy năm đó 712, Sư bảo các đệ tử đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, lo xây tháp Báo Ân và lại sai gia công đôn đốc.
Lại có vị tăng xứ Thục tên Phương Biện, đến yết kiến Sư, thưa:
- Chuyên đắp tượng.
Sư nghiêm sắc mặt, bảo:
- Đắp thử xem!
Phương Biện không lãnh hội yếu chỉ. Rồi đắp chơn tướng Sư, cao khoảng 7 tấc, đường nét rất tinh xảo. Sư nhìn Biện, nói:
- Ông khéo đắp tính chất, không khéo đắp tính Phật.
Sư lấy y vật đền đáp cho, tăng lễ tạ rồi đi.
Năm Tiên Thiên thứ hai 713, ngày mùng một tháng bảy, Sư báo môn nhân:
- Ta muốn về Tân Châu, các ông mau chuẩn bị thuyền chèo phương tiện.
Lúc đó, đại chúng thương mến xin Sư tạm ở lại. Sư nói:
- Chư Phật ra đời còn thị hiện niết bàn, có đến tất phải đi, lý ấy cũng thường nhiên. Hình hài ta đây về tất phải có chỗ.
Chúng thưa:
- Từ đây thầy đi, sớm muộn gì xin thầy cũng trở về.
Sư nói:
- Lá rụng về cội, không hẹn ngày về.
(Diệp lạc quy căn, lai thời vô nhật)
Lại hỏi:
- Chánh pháp nhãn tạng thầy truyền trao cho ai?
Sư đáp:
- Người có đạo thì được, người vô tâm thì thông.
Lại hỏi:
- Ngày sau có tai nạn gì chăng?
Sư đáp:
- Năm sáu năm sau khi ta nhập diệt, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy nghe ta nói sấm ký:
Đầu thượng dưỡng thân,
Khẩu lý tu xan.
Ngộ Mãn chi nạn,
Dương Liễu vi quan.
頭上養親
口裏須餐
遇滿之難
楊柳為官.
(Dốc lòng nuôi thân,
Miệng cần phải ăn.
Gặp nạn tên Mãn,
Dương, Liễu làm quan).
Sư lại nói:
- Ta tịch rồi, bảy mươi năm sau có hai vị Bồ tát từ phương Đông đến, một người tại gia một người xuất gia, đồng thời kiến lập tông ta giáo hóa hưng thạnh, sáng lập già lam, pháp tự đông đúc.
Nói xong Sư đi đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, tắm gội xong ngồi kiết già mà hóa. Khi ấy có mùi thơm xông người, cầu vồng trắng liên giao giáp đất, nhằm ngày mùng 3 tháng tám năm đó 713.
Bấy giờ hai quận Thiều Châu và Tân Châu đều tu tạo tháp linh, người đạo kẻ tục hai quận không quyết định được sẽ rước chơn thân Sư đi đâu. Thứ sử hai quận cùng thắp hương khấn vái:
- Khói nhang bay đi đâu thì ý Sư muốn về đó.
Khi đó hương trong lò bốc lên cao, bay thẳng đến Tào Khê. Chúng chọn ngày 13 tháng 11 rước chơn thân về Tào Khê nhập tháp. Sư thọ 76 tuổi. Bấy giờ Vi Cừ là thứ sử Thiều Châu soạn văn bia. Môn nhân nhớ lại lời sấm ký, có kẻ lấy đầu Sư, mới lấy lá sắt bọc vải sơn quấn chặt cổ Sư.
Trong tháp có tín y do Đạt ma truyền (loại vải co giãn sáng nhấp nháy, may từ bông cứng thêu hoa ở giữa mỗi phần, người sau dùng lụa bích lót trong), áo ma nạp bảo bát vua Trung Tông ban, chơn thân do Phương Biện đắp, đạo cụ … do thị giả chủ tháp chủ quản.
Năm Khai Nguyên thứ 10, ngày mùng 3 tháng tám năm nhâm tuất 722, nửa đêm bỗng nghe trong tháp như có tiếng kéo sắt. Tăng chúng sợ hãi thức dậy, thấy một người mặc đồ tang từ trong tháp chạy ra, rồi thấy cổ Sư có vết thương. Đem việc trộm tường trình đầy đủ lên châu huyện, huyện lệnh Dương Khản và thứ sử Liễu Vô Thiểm được đơn tố giác, cấp bách truy nã kẻ trộm.
Ngày mùng 5 tìm bắt được kẻ trộm ở thôn Thạch Giác, giải đến Thiều Châu tra hỏi. Khai rằng: Họ Trương tên Tịnh Mãn, người huyện Lương, Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên Hồng Châu, y nhận 20.000 đồng của vị tăng nước Tân La tên Kim Đại Bi, mướn y lấy đầu Lục Tổ Đại sư đem về Hải Đông để cúng dường.
Liễu thái thú nghe lấy lời khai, chưa vội gia hình, bèn thân đến Tào Khê hỏi ý Linh Thao, cao đệ của
Sư, xem nên xử đoán thế nào? Thao nói: “Nếu luận theo phép nước mà nói thì đáng lý phải tru di. Nhưng Phật giáo từ bi, kẻ thù người thân đều bình đẳng, huống nữa kẻ kia cầu mong để cúng dường, nên tha tội vậy”. Liễu thái thú vui lòng, khen: “Thế mới hay cửa Phật thật rộng lớn”, rồi tha kẻ trộm.
http://zerokun.com/wp-content/uploads/2010/02/LucToHueNang.jpg
Năm Thượng Nguyên nguyên niên 760, Đường Túc Tông sai sứ đến thỉnh y bát Sư về nội cung cúng dường. Đến năm Vĩnh Thái nguyên niên 765, ngày mùng 5 tháng 5 vua Đại Tông mộng thấy Lục Tổ Đại sư đến đòi y bát. Ngày mùng 7 vua lệnh thứ sử Dương Giam rằng:
“Trẫm mộng thấy thiền sư Huệ Năng đến, bảo đưa ca sa truyền pháp trở về Tào Khê. Nay trẫm nhờ Trấn quốc Đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh kính cẩn đưa đi, trẫm xem đó là quốc bảo, các khanh nên an trí tại bổn tự đúng pháp tắc, đặc biệt lệnh tăng chúng có nhiệm vụ giữ gìn tông chỉ Sư phải bảo hộ nghiêm túc, chớ để cho thất lạc hư hỏng”.
Thế mà về sau có người lấy trộm y bát, nhưng mang đi không xa rồi cũng được lấy lại, bị mất như vậy đến bốn lần.
Vua Đường Hiến Tông ban thụy hiệu Đại Giám Thiền Sư, tháp tên Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Những năm đầu Khai Bảo (968 – 975 – Tống Thái Tổ), quân triều đình (Bắc Tống) bình định vùng Nam Hải, nơi tàn binh của họ Lưu (Nhà Nam Hán) chống lại vào năm 971, tháp miếu thờ Sư nhiều lần bị nạn binh lửa tàn phá, nhưng chơn thân được tăng giữ tháp bảo hộ không hề hư hao, về sau có người sửa chữa lại mà chưa xong. Gặp lúc Tống Thái Tông tức vị, lưu tâm đến thiền môn, tháp có phần tráng lệ hơn.
Đại sư từ năm Đường Tiên Thiên thứ hai, nhằm năm Quý Sửu 713, nhập diệt đến nay, Cảnh Đức nguyên niên năm Giáp Thìn 1004, gồm khoảng 292 năm. Trừ phái Ấn Tông, số người đắc pháp là 33, mỗi vị giáo hóa một nơi, tiêu biểu cho việc kế thừa chánh thức, ngoài ra số người mai danh ẩn tích không thể ghi hết.
hoatihon
06-24-2015, 07:52 AM
Mưa pháp.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Muaphap_zps1f3cbbcb.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 07:58 AM
Bài 66.
1. QUẬT ĐA 堀多 TAM TẠNG TÂY VỰC.
Người Thiên Trúc. Đông du đến Thiều Dương gặp Lục Tổ, ngay lời nói Sư khế ngộ.
Sau du phương Ngũ Đài, đến thôn Lịch huyện Định Tương, gặp một tăng kết am ngồi tọa thiền, Tam Tạng hỏi:
- Ông ngồi một mình ở đây làm gì?
Đáp:
- Quán tịnh.
Tam Tạng hỏi:
- Quán đó là ai quán? Tịnh đó là vật gì?
Tăng ấy làm lễ, hỏi:
- Lý đó ra sao?
Tam Tạng hỏi:
- Sao ông không tự quán tự tịnh?
Tăng ấy mờ mịt, không biết đối đáp.
Tam Tạng hỏi:
- Ông xuất thân từ pháp môn của ai vậy?
Đáp:
- Thần Tú Đại sư.
Tam Tạng nói:
- Ở Tây Vực tôi, ngoại đạo căn cơ thấp nhất cũng không hỏng với kiến giải đó. Ngồi không trơ trơ như vậy, với đạo có ích lợi gì?
Tăng ấy lại hỏi Tam Tạng:
- Thầy ông là ai?
Tam Tạng đáp:
- Thầy tôi là Lục Tổ. Sao ông không mau đến Tào Khê để quyết nghi yếu chỉ chơn thật?
Tăng ấy liền rời am đi tham Lục Tổ, thuật đầy đủ việc trước. Lời Lục Tổ dạy phù hợp với Tam Tạng, tăng ấy tin theo.
Về sau không biết Tam Tạng mất ở đâu.
lavinhcuong
06-24-2015, 08:00 AM
Bài 67.
2. THIỀN SƯ PHÁP HẢI 法海 Ở THIỀU CHÂU.
Người Khúc Giang. Ban đầu tham kiến Lục Tổ, hỏi:
- Tức tâm là Phật, xin thầy rủ lòng chỉ dạy.
Tổ nói:
- Trước niệm không sanh là tâm, sau niệm không diệt là Phật. Tạo thành tất cả tướng là tâm, lìa tất cả tướng là Phật. Nếu ta nói đầy đủ cùng kiếp không hết. Hãy nghe ta nói kệ:
Tức Tâm danh huệ,
Tức Phật nãi định.
Định huệ đẳng trì,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do nhữ tập tánh.
Dụng bổn vô sanh,
Song tu thị chánh.
即心名慧
即佛乃定
定慧等持
意中清淨
悟此法門
由汝習性
用本無生
雙修是正
Tâm là huệ đó,
Phật là định đó.
Định huệ đồng tu,
Thanh tịnh trong ý.
Ngộ pháp môn này,
Do ông tập quen.
Dụng vốn không sanh,
Song tu mới đúng.
Pháp Hải tin nhận, dùng kệ tán thán:
Tức Tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất.
Ngã tri định huệ nhân,
Song tu ly chư vật.
即心元是佛
不悟而自屈
我知定慧因
雙修離諸物
Tâm vốn là Phật,
Chẳng biết nên tự mê.
Tôi nay biết cái gốc của định huệ,
Song tu hết dính mắc.
(Đàn Kinh ghi “Môn nhân Pháp Hải”, đó là thiền sư vậy)
hoatihon
06-24-2015, 08:02 AM
Định Huệ vốn sẵn.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/dinhhuedangtri_zps41e97cea.jpg
hoatihon
06-24-2015, 08:03 AM
Tâm mình vốn là Phật.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamminhvonphat_zpsd6a35c83.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 08:06 AM
Bài 68.
3. THIỀN SƯ CHÍ THÀNH 志誠 Ở KIẾT CHÂU.
Người Thái Hòa, Kiết Châu. Lúc còn nhỏ theo phụng sự thiền sư Thần Tú ở chùa Ngọc Tuyền, núi Đương Dương, Kinh Nam. Sau nhân hai Tông giáo hóa thạnh hành, đồ chúng của Thần Tú thường hay chê Nam Tông:
- Đại sư Huệ Năng không biết một chữ, có tài năng đặc biệt nào?
Tú nói:
- Người đó được trí vô sư, thâm ngộ thượng thừa, ta chẳng bằng. Vả thầy ta Ngũ Tổ đích thân truyền y pháp, há phải hồ đồ đâu? Ta hận không thể đi xa được thân cận, ở đây luống thọ quốc ân. Những người các ông không nên trì trệ nơi đây, nên đi Tào Khê hỏi lại những chỗ còn nghi ngờ, ngày kia trở về nói lại cho ta nghe.
Sư nghe thầy mình nói như vậy, lễ từ đi đến Thiều Dương, theo chúng tham thỉnh mà không nói từ đâu đến. Bấy giờ Lục Tổ bảo chúng:
- Bữa nay có người trộm pháp, trà trộn trong pháp hội này.
Sư bước ra lễ bái trình đầy đủ sự việc. Tổ hỏi:
- Thầy ông dạy chúng như thế nào?
Đáp:
- Thường chỉ bảo đại chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi hoài không nằm.
Tổ nói:
- Trụ tâm quán tịnh là bệnh đâu phải thiền. Ngồi hoài câu thúc thân, với lý thiền có ích gì? Hãy nghe ta nói kệ:
Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa.
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công quá?
生來坐不臥
死去臥不坐
元是臭骨頭
何為立功過
Khi sống ngồi không nằm,
Chết rồi nằm không ngồi.
Vốn là khúc xương hôi,
Làm sao lập công quá ?
Sư hỏi:
- Chưa biết Đại sư dùng pháp gì dạy người?
Tổ đáp:
- Nếu ta nói có pháp cho người tức là dối gạt ông. Chỉ tạm tùy phương tiện cởi trói, tạm gọi là Tam muội. Hãy nghe ta nói kệ:
Nhất thiết vô tâm tự tánh giới,
Nhất thiết vô ngại tự tánh huệ.
Bất tăng bất thoái tự Kim cang,
Thân khứ thân lai bổn Tam muội.
一切無心自性戒
一切無礙自性慧
不增不退自金剛
身去身來本三昧
Vô tâm tất cả, tự tánh giới,
Vô ngại tất cả, tự tánh huệ.
Không tăng không giảm, tự Kim cang,
Thân đến thân đi, vốn Tam muội.
Sư nghe kệ bèn sám hối tạ lỗi, xin được trở về nương theo. Rồi trình một bài kệ:
Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu cánh?
Hồi thú chơn như,
Pháp hoàn bất tịnh.
五蘊幻身
幻何究竟
迴趣真如
法還不淨
Thân huyễn ngũ uẩn,
Huyễn đâu cứu cánh?
Hướng tới chơn như,
Pháp còn bất tịnh.
Tổ thừa nhận, sau đó Sư trở về Ngọc Tuyền.
hoatihon
06-24-2015, 08:07 AM
Ngồi Thiền.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngoithien6_zpsd8f62f93.jpg
hoatihon
06-24-2015, 08:10 AM
Thân như mây nổi.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thannhumaynoi_zpsa8debfe0.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 08:12 AM
Bài 69.
4. THIỀN SƯ HIỂU LIỄU 曉了 NÚI BIỂN THIỀM.
Truyện ký không ghi, chỉ có môn nhân Bắc Tông là Hốt Lôi Trừng viết văn bia ở tháp Sư, được truyền thạnh hành ngoài đời.
Tóm lược:
Sư trụ núi Biển Thiềm, pháp hiệu Hiểu Liễu, là đích tự (pháp tự chánh truyền) của Lục Tổ.
Sư được cái tâm vô tâm,
Thấy rõ cái không tướng nơi các tướng;
Không tướng đó là tất cả sum la vạn tượng này,
Vô tâm là phân biệt rõ ràng,
mà không hề một lời vang vọng.
Cái vang không thể truyền, cái để lại cho hậu thế là gương sống (thân giáo) của sư.
Không thể dùng lời ca tụng hết về sư, nếu nói cạn được là chẳng đúng rồi !
Sư tự được Không, Không là không tất cả;
Ta nay đang Có, Có là có tất cả.
Thiệt chẳng có mà Có, nên dầu Sư đến, thế gian chẳng tăng.
Thiệt chẳng không mà Không, nên dầu Sư có nhập Niết bàn, thế gian này chẳng giảm.
Sư đắc vô tâm chi tâm,
Liễu vô tướng chi tướng,
Vô tướng giả sâm la huyễn mục,
Vô tâm giả phân biệt sí nhiên,
Tuyệt nhất ngôn nhất hưởng.
Hưởng mạc khả truyền, truyền chi hành hĩ,
Ngôn mạc khả cùng, cùng chi phi hĩ .
Sư tự đắc vô, vô chi vô bất vô ư vô dã .
Ngô kim dĩ hữu hữu chi hữu bất hữu ư hữu dã
Bất hữu chi hữu khứ lai phi tăng.
Bất vô chi vô Niết bàn phi giảm .
師得無心之心,
了無相之相,
無相者森羅眩目,
無心者分別熾 然.
絕一言一響
響莫可傳傳之行矣,
言莫可窮窮之非矣.
師自得無無之無不無於無也
吾今以有有之有不有於有也
不有之有去 來非增
不無之無涅槃非減.
Than ôi!
Sư trụ thế chừ Tào Khê tỏ,
Sư tịch diệt chừ thuyền pháp nghiêng.
Sư nói hay nín chừ hoàn vũ đầy,
Sư dạy chúng mê chừ thừa liễu nghĩa.
Màu núi Biển Thiềm phô sắc thắm,
Hang không còn mãi Hiểu Liễu danh.
嗚呼 !
師住世兮曹谿明,
師寂滅兮法舟傾.
師譚無說兮寰宇盈,
師示迷徒兮了義乘.
匾擔山色垂茲色,
空谷猶留曉了名.
Ô hô !
Sư trụ thế hề Tào Khê minh,
Sư tịch diệt hề pháp chu khuynh.
Sư đàm vô thuyết hề hoàn vũ doanh,
Sư kì mê đồ hề liễu nghĩa thừa.
Biển đam sơn sắc thùy tư sắc,
Không cốc do lưu Hiểu Liễu danh.
hoatihon
06-24-2015, 08:13 AM
Kim cang Tam muội.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Kimcangtammuoi_zps5ce7da04.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 08:15 AM
Bài 70.
5. THIỀN SƯ TRÍ HOÀNG 智隍 Ở HÀ BẮC.
Ban đầu tham học nơi pháp tịch Ngũ Tổ, tuy thường thưa hỏi nhờ quyết nghi nhưng lại thuận theo đường tiệm. Về sau đến Hà Bắc kết am chuyên tọa thiền, trên hai mươi năm không hề biếng nhác.
Khi gặp môn nhân Lục Tổ là Thiền sư Huyền Sách du phương đến đó, khích lệ Sư phải đi cầu pháp yếu. Sư bèn bỏ am đi tham vấn Lục Tổ.
Tổ thương ông từ phương xa đến mà rủ lòng khai mở. Qua lời Tổ dạy Sư hốt nhiên khế ngộ, tâm sở đắc 20 năm trước không còn ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc, đàn việt sĩ thứ bỗng nghe có tiếng nói trong không trung: “Thiền sư Hoàng hôm nay đắc đạo”.
Sau Sư về Hà Bắc khai hóa tứ chúng.
lavinhcuong
06-24-2015, 08:16 AM
Bài 71.
6. THIỀN SƯ PHÁP ĐẠT 法達 Ở HỒNG CHÂU.
Người ở Phong Thành, Hồng Châu. Bảy tuổi xuất gia tụng kinh Pháp Hoa. Sau khi thọ giới cụ túc, đến lễ Tổ Sư mà đầu không chấm đất, Tổ quở:
- Lễ mà đầu không sát đất chi bằng đừng lễ. Trong tâm ông ắt có một vật tích chứa đã lâu, việc gì vậy?
Sư đáp:
- Tôi tụng Kinh Pháp Hoa đã tới 3.000 bộ.
Tổ nói:
- Ông nếu tụng đến muôn bộ, liễu đạt ý kinh mà không cho là hơn, thì cùng ta đồng hành. Nay ông mang sự nghiệp đó, "u u minh minh" không biết lỗi. Hãy nghe ta nói kệ:
Lễ bổn chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa ?
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phước vô tỉ.
禮本折慢幢,
頭奚不至地.
有我罪即生,
亡功福無比
Bày ra Lễ để đốn gẫy cờ mạn (lòng kiêu mạn)
Cớ sao đầu không chấm đất?
Chấp Ta tội liền sanh,
Làm mà không thấy mình có công, phước vô cùng.
Tổ lại hỏi:
- Ông tên gì?
Đáp:
- Dạ ! Con tên Pháp Đạt.
Tổ nói:
- Ông tên Pháp Đạt, đâu từng đạt pháp?
Tổ lại nói kệ:
Nhữ kim danh Pháp Đạt,
Cần tụng vị hưu hiết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết.
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tòng khẩu phát.
汝今名法達
勤誦未休歇
空誦但循聲
明心號菩薩
汝今有緣故
吾今為汝說
但信佛無言
蓮華從口發
Ông nay tên Pháp Đạt,
Siêng tụng chưa bỏ sót.
Nhưng chỉ tụng suông theo tiếng mà thôi,
Nếu do đây mà nhận ra ý Phật nói thì gọi là Bồ tát.
Ông nay có duyên đó,
Cho nên ta sẽ vì ông mà nói :
Hãy tin rằng : xưa nay Phật không nói một lời,
thì mỗi lời ta nói ra, sẽ là một hoa sen.
Sư nghe kệ hối lỗi, thưa:
- Dạ ! Từ nay về sau con sẽ khiêm cung tất cả. Chỉ mong Hòa thượng đại từ lược nói nghĩa lý trong kinh.
Tổ hỏi:
- Ông tụng kinh này lấy gì làm tông?
Sư đáp:
- Học nhân ngu độn, từ nào đến giờ chỉ y theo văn tụng niệm, đâu biết tông thú.
Tổ nói:
- Ông thử tụng một biến cho ta nghe, ta sẽ giải thuyết cho ông.
Sư liền cất tiếng tụng kinh đến phẩm Phương Tiện. Tổ bảo dừng:
- Kinh này hóa ra lấy nhân duyên xuất thế làm tông, dù cho có nói nhiều thứ thí dụ cũng không ngoài ý này: Cái gì là nhân duyên? – Chỉ có một đại sự thôi, một đại sự đó tức là tri kiến Phật.
Ông thận trọng chớ hiểu sai ý kinh. Thấy kinh nói khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, thì hiểu tất nhiên là tri kiến của Phật, chúng ta lại vô phần. Nếu hiểu như thế lại là báng kinh hủy Phật, kia đã là Phật đã đầy đủ tri kiến, cần gì khai nữa? Ông nay phải tin tri kiến Phật chỉ là tự tâm ông, không còn cái thể nào khác nữa.
Bởi vì tất cả chúng sanh tự che đậy quang minh, tham ái trần cảnh duyên bên ngoài, rối loạn bên trong, đành chịu rong ruổi. Làm nhọc đến Phật kia, phải rời tam muội, mỏi miệng lắm mà đinh ninh khuyên bảo “Hãy thôi nghỉ đi, đừng hướng ngoại tìm cầu nữa thì cùng Phật không hai”. Thế nên nói khai tri kiến Phật. Ông chỉ khư khư chấp tụng, gọi đó là công khóa, có khác gì con trâu ly mến cái đuôi của nó?
祖曰止 : 此經元 來以因緣出世為宗, 縱說多種譬喻. 亦無越於此, 何者因緣, 唯一大事, 一大事即佛知見也. 汝慎勿錯解經意, 見他道。開示悟入自是佛之知見. 我輩無分, 若作此解乃是謗經毀佛也. 彼既是佛已具知見. 何用更開, 汝今當信. 佛知見者, 只汝自心更無別體, 蓋為一切眾生自蔽光明. 貪愛塵境外緣內擾甘受驅馳, 便勞他從三昧起, 種種苦口勸令寢息, 莫向外求與佛無二. 故云開佛知見, 汝但勞勞執念謂為功課者, 何異犛牛愛尾也.
Sư thưa:
- Như vậy chỉ cần hiểu được nghĩa, khỏi phiền tụng kinh ư ?
Tổ nói:
- Kinh có lỗi gì, đâu không cho ông tụng? Chỉ là mê ngộ bởi người, lợi hại do ông. Hãy nghe ta nói kệ:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng cửu bất minh kỷ,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà.
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
心迷法華轉
心悟轉法華
誦久不明己
與義作讎家
無念念即正
有念念成邪
有無俱不計
長御白牛車
Tâm mê bị Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng lâu không rõ mình,
Với nghĩa thành oan gia.
Vô niệm thì nghĩ gì cũng được,
Có Niệm thì dầu không nghĩ gì cũng sai.
Có Không đều chẳng kể,
Ngồi mãi xe trâu trắng.
Sư nghe kệ xong, lại thưa:
- Kinh nói: “Chư đại thanh văn cho đến bồ tát đều cùng nhau hết sức nghĩ lường, còn không thể lường nổi trí Phật”. Nay muốn cho phàm phu chỉ cần ngộ tự tâm thì gọi là tri kiến Phật, tự họ chẳng phải hạng thượng căn ắt khó tránh nghi báng. Hơn nữa kinh nói ba xe: xe dê, nai, trâu với xe trâu trắng khác nhau như thế nào? Xin Hòa thượng rủ lòng tuyên thuyết lại.
Tổ nói:
- Ý kinh rõ ràng, tự ông mê thành trái. Các người tam thừa không thể đo lường trí Phật, lỗi họ tại đo lường, dù cho họ hết sức cùng nhau nghĩ suy thì trái lại họ càng cách xa. Phật vốn thuyết cho phàm phu nghe, chẳng thuyết cho Phật, vì không tin nhận lý này nên họ thối tịch theo kia mà mơ mơ hồ hồ không biết mình đã ngồi xe trâu trắng rồi, còn tìm ba xe ở ngoài cửa. Huống nữa kinh văn nói rõ ràng với ông rằng không có hai cũng không có ba, sao ông không xét rõ ?
Ba xe là giả lập vì việc trước, nhất thừa là thật vì việc bây giờ, chỉ cần dạy ông bỏ giả về thật, sau khi về thật rồi thì thật cũng không tên. Nên biết tài sản quý báu sở hữu đều thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi nghĩ đến cha, cũng không khởi nghĩ đến con, tất cả không cần nghĩ.
Như thế gọi là trì kinh Pháp Hoa từ kiếp này đến kiếp kế, tay không rời quyển kinh, suốt ngày lẫn đêm không lúc nào không tụng.
經意分明, 汝自迷背. 諸三乘人不能測佛智者, 患在度量也, 饒伊盡思共推轉加懸遠. 佛本為凡夫說不為佛說, 此理若不肯信者從他退席, 殊不知坐却白牛車, 更於門外覓三車, 況經文明向汝道, 無二亦無三, 汝何不省. 三車是假為昔時故, 一乘是實為今時故, 只教汝去假歸實, 歸實之後實亦無名. 應知所有珍財盡屬於汝由汝受用, 更不作父想, 亦不作子想, 亦無用想. 是名持法華經, 從劫至劫手不釋卷, 從晝至夜無不念時也
Sư đã nhờ khai mở, lòng hớn hở vui mừng, làm kệ tán thán:
Kinh tụng tam thiên bộ,
Tào Khê nhất cú vong.
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh hiết lũy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương.
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương !
經誦三千部
曹谿一句亡
未明出世旨
寧歇累生狂
羊鹿牛權設
初中後善揚
誰知火宅內
元是法中王
Kinh tụng ba ngàn bộ,
Đến Tào Khê, nghe một câu là xong tất cả.
Nếu chưa rõ lối xuất thế,
Đâu hết cuồng nhiều đời.
Dê nai trâu chỉ là phương tiện quyền lập,
Trước giữa sau khéo bày.
Ai hay trong nhà lửa,
Vốn là đấng Pháp Vương !
Tổ nói:
- Từ nay về sau ông mới đáng được gọi là “Tăng tụng kinh”.
Từ lúc Sư lãnh hội huyền chỉ rồi, cũng chẳng bỏ việc tụng kinh.
hoatihon
06-24-2015, 08:17 AM
Cớ sao đầu không sát đất ?
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/daukhongsatdat_zps6100bfda.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 08:35 AM
Bài 72.
7. THIỀN SƯ TRÍ THÔNG 智通 Ở THỌ CHÂU.
Người An Phong, Thọ Châu. Lúc đầu xem kinh Lăng Già đến hơn ngàn lần mà không hiểu Tam thân, Tứ trí. Đến lễ Đại sư (Lục Tổ Huệ Năng) cầu giải nghĩa này. [/COLOR]
Tổ nói:
- Tam thân là: Thanh tịnh Pháp thân, là tánh của ông; Viên mãn Báo thân, là trí tuệ của ông; Thiên bá ức Hóa thân, là hạnh của ông.
Nếu lìa bổn tánh, riêng nói Ba thân thì gọi là có thân mà không có trí. Nếu ngộ Ba thân không có tự tánh thì gọi là Tứ trí Bồ đề. Hãy nghe ta nói kệ:
Tự tánh cụ Tam thân,
Phát minh thành Tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ đề.
自性具三身
發明成四智
不離見聞緣
超然登佛地
吾今為汝說
諦信永無迷
莫學馳求者
終日說菩提
Tự tánh đủ Ba thân,
Phát minh thành Tứ trí,
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên Phật địa.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê,
Chớ học kẻ tìm cầu,
Suốt ngày nói Bồ Đề.
Sư hỏi:
- Nghĩa về Tứ trí có thể nghe được chăng?
Tổ nói: Đã hiểu Ba thân thì rõ Tứ trí, sao còn hỏi nữa? Nếu lìa Tam thân mà riêng bàn Tứ trí, đó gọi là có trí mà không thân, theo đó có trí lại thành không trí.
既會三身便明四智,何更問邪.若離三身 別譚四智, 此名有智無身也, 即此有智還成無智.
Kí hội tam thân tiện minh tứ trí, hà canh vấn tà. Nhược li tam thân biệt đàm tứ trí, thử danh hữu trí vô thân dã, tức thử hữu trí hoàn thành vô trí.
Tổ lại nói kệ:
Đại viên cảnh trí, tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí, tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí, kiến phi công,
Thành sở tác trí, đồng viên cảnh,
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển.
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh,
Nếu ngay chỗ chuyển chẳng lưu tình,
Chỗ luôn ồn náo Na già định.
Đại viên kính trí tính thanh tịnh
Bình đẳng tính trí tâm vô bệnh
Diệu quan sát trí kiến phi công
Thành sở tác trí đồng viên kính
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển
Đãn dụng danh giả vô thật tính
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình
Phồn hưng vĩnh xứ Na già định
大圓鏡智性清淨
平等性智心無病
妙觀察智見非功
成所作智同圓鏡
五八六七果因轉
但用名者無實性
若於轉處不留情
繁興永處那伽定
Sư lễ tạ, dùng kệ tán thán:
Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí bổn tâm minh.
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhậm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chơn tinh.
Diệu ngôn nhân sư hiểu,
Chung vong ô nhiễm danh.
Ba thân vốn thân ta,
Bốn trí vốn tâm sáng.
Thân trí thông vô ngại,
Ứng vật mặc tùy hình.
Nghĩ tu đều vọng động,
Giữ trụ trái chơn tinh.
Lời diệu nhờ Tổ rõ,
Quên hết danh nhiễm ô.
hoatihon
06-24-2015, 08:36 AM
Tam Thân & Tứ Trí.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamthantutr2i_zps6cbad29b.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 08:38 AM
Bài 73.
8. THIỀN SƯ CHÍ TRIỆT 志徹 Ở GIANG TÂY 江西
Người ở Giang Tây, họ Trương, tên Hành Xương. Lúc nhỏ Xương làm hiệp khách, từ khi thiền tông phân hóa thành Nam Bắc, chủ hai tông tuy không có bỉ ngã nhưng đồ lữ tranh nhau sanh ưa ghét, khi đó môn nhân Bắc Tông tự lập sư Tú làm Tổ thứ sáu, mà đố kỵ việc truyền y cho Huệ Năng Đại sư được thiên hạ đều biết. Nhưng Tổ là Bồ tát dự biết chuyện đó, để trước mười lượng vàng ở phương trượng. Bấy giờ Hành Xương nhận lời với môn nhân Bắc Tông, nửa đêm giấu đao vào thất Tổ sắp muốn ra tay, Tổ đưa cổ mà nhận, Hành Xương vung đao chém ba lần đều không gây tổn hại.
Tổ nói:
- Gươm chánh chẳng làm việc tà, gươm tà chẳng làm việc chánh. Ta chỉ nợ ông vàng không nợ ông mạng.
Hành Xương sợ hãi ngã xuống đất, hồi lâu mới tỉnh lại, xót xa hối lỗi bèn xin xuất gia. Tổ đưa vàng cho, nói:
- Ông hãy đi đi. Sợ đồ chúng biết được lại hại ông, ngày khác nên đổi hình dạng mà đến, ta sẽ thu nhận ông.
Hành Xương tuân lời bỏ trốn trong đêm. Sau xuất gia đầu tăng, thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành. Một hôm nhớ lời Tổ dặn, từ xa đến lễ ra mắt, Tổ nói:
- Ta trông ông lâu rồi, sao ông đến muộn vậy?
Đáp:
- Xưa nhờ ân Hòa thượng tha tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh trọn khó báo đáp thâm ân. May ra chỉ được truyền pháp độ sanh mà thôi!
Đệ tử thường xem kinh Niết bàn chưa hiểu nghĩa thường, vô thường, xin Hòa thượng từ bi tóm lược nói rõ nghĩa cho.
Tổ nói:
- Vô thường tức là Phật tánh; hữu thường tức là tâm phân biệt, tất cả các pháp thiện ác.
Đáp:
- Lời Hòa thượng nói đó rất trái kinh văn.
Tổ nói:
- Ta truyền tâm ấn Phật, sao dám trái với Kinh Phật?
Đáp:
- Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói vô thường. Các pháp thiện ác cho đến tâm bồ đề đều là vô thường, Hòa thượng lại nói là thường. Thế thì trái ngược nhau, khiến học nhân càng sanh thêm nghi hoặc.
Tổ nói:
- Kinh Niết bàn trước đây ta đã nghe ni Vô Tận Tạng đọc tụng một lần rồi vì ni giảng thuyết. Không có một chữ một nghĩa nào chẳng hợp với kinh văn, cho đến nay vì ông trọn không có hai lời.
Đáp:
- Học nhân trình độ trí thức mê mờ nông cạn, mong Hòa thượng uyển chuyển khai thị.
Tổ nói :
- Ông biết chăng? Phật tánh nếu thường thì còn nói gì các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một người nào phát tâm bồ đề. Thế nên ta nói Phật tánh vô thường, chính là Phật thuyết đạo chơn thường vậy.
Lại nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì vật vật đều có tự tánh (ngã) ắt phải chịu đựng sanh tử và tánh chơn thường ắt phải có chỗ chẳng biến khắp. Thế nên ta nói tất cả các pháp là thường, chính là Phật thuyết nghĩa chơn vô thường vậy.
Đức Phật lúc đầu vì phàm phu ngoại đạo chấp với tà thường, những người nhị thừa với thường cho là vô thường cộng thành tám cái điên đảo. Thế nên trong kinh Niết bàn liễu nghĩa, Phật dạy nhằm phá cái thiên kiến của họ mà chỉ rõ cái chơn thường, chơn ngã, chơn tịnh. Ông nay theo lời trái nghĩa, cho vô thường là đoạn diệt và hiểu thường như trơ trơ chết cứng, mà hiểu sai đi vi ngôn tối hậu viên diệu của Phật. Giá có xem kinh đến ngàn lần phỏng có ích lợi gì?
Nhữ tri phủ, Phật tính nhược thường, canh thuyết thập ma thiện ác chư pháp, nãi chí cùng kiếp vô hữu nhất nhân phát bồ đề tâm giả. Cố ngô thuyết vô thường, chính thị Phật thuyết chân thường chi đạo dã, hựu nhất thiết chư pháp nhược vô thường giả, tức vật vật giai hữu tự tính dong thụ sinh tử, nhi chân thường tính hữu bất biến chi xứ. Cố ngô thuyết thường giả, chính thị Phật thuyết chân vô thường nghĩa dã, phật tỉ vi phàm phu ngoại đạo chấp ư tà thường, chư nhị thừa nhân ư thường kế vô thường cộng thành bát đảo cố. Ư Niết bàn liễu nghĩa giáo trung, phá bỉ thiên kiến, nhi hiển thuyết chân thường chân ngã chân tịnh. Nhữ kim y ngôn bội nghĩa, dĩ đoán diệt vô thường cập xác định tử thường, nhi thác giải Phật chi viên diệu tối hậu vi ngôn túng lãm thiên biến hữu hà sở ích.
汝知否, 佛 性若常, 更說什麼善惡諸法, 乃至窮劫 無有一 人發菩提心者. 故吾說無常, 正是佛說真常之 道也. 又一 切諸法若無常者, 即物物皆有自性容受生死, 而真常性有不遍之 處. 故吾說常者, 正是佛說真無常義也. 佛比為凡夫外道執於邪常, 諸二 乘人於常計無常共成八 倒故, 於涅槃了 義教中, 破彼偏 見, 而顯說真常真我真淨. 汝今依言背義, 以 斷滅無常及確定死常, 而錯解佛之 圓妙最後微言. 縱覽千遍有何 所益.
Hành Xương chợt như người tỉnh cơn say, mới nói kệ:
Nhân thủ vô thường tâm,
Phật diễn hữu thường tánh.
Bất tri phương tiện giả,
Do xuân trì chấp lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền.
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
因守無常心
佛演有常性
不知方便 者
猶春池執礫
我今不施功
佛性而見前
非師相授與
我亦無所得
Do vì chúng sanh chấp vô thường,
Phật nói tánh hữu thường.
Người chẳng hiểu phương tiện,
Như ao xuân mò gạch.
Tôi nay chẳng dụng công,
Mà Phật tánh hiện tiền.
Không phải thầy truyền cho,
Tôi cũng không sở đắc.
Tổ nói:
- Ông nay triệt ngộ, nên gọi tên là Chí Triệt.
Sư lễ tạ rồi rút lui.
hoatihon
06-24-2015, 08:39 AM
Thường và vô thường.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thuongampvothuong_zps191f9eaa.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 08:44 AM
Bài 74
9. THIỀN SƯ TRÍ THƯỜNG 智常Ở TÍN CHÂU.
Người Quý Khê, bổn châu. Tuổi nhỏ xuất gia, chí cầu kiến tánh. Một hôm tham kiến Lục Tổ, Tổ hỏi:
- Ông từ đâu đến, muốn cầu việc gì?
Sư đáp:
- Gần đây học nhân đến núi Bạch Phong, huyện Kiến Xương, Hồng Châu, lễ Hòa thượng Đại Thông, nhờ dạy cho nghĩa kiến tánh thành Phật. Lòng còn hồ nghi chưa quyết định, đến Kiết Châu gặp người mách bảo, khuyên đến yết kiến Hòa thượng. Cúi xin Hòa thượng từ bi thu nhận.
Tổ hỏi:
- Hòa thượng kia có lời nói nào? Ông thử thuật lại, ta sẽ chứng minh cho ông.
Sư nói:
- Từ khi mới đến đó, tới ba tháng chưa được Hòa thượng kia khai thị. Vì tâm cầu pháp tha thiết, nên nửa đêm một mình vào phương trượng lễ bái khẩn cầu. Đại Thông mới hỏi: “Ông thấy hư không chăng?” Đáp “Thấy”. Kia hỏi “Ông thấy hư không có tướng mạo không?” Đáp “Hư không vô hình, có tướng mạo nào?”. Kia nói “Bổn tánh ông giống như hư không. Phản quan tự tánh thì hồn tồn không có một vật nào để thấy, đó gọi là chánh kiến; không có một vật nào để biết, đó gọi là chơn tri; không có xanh vàng dài ngắn, chỉ thấy bản nguyên thanh tịnh, thể giác tròn sáng, đó gọi là kiến tánh thành Phật, cũng gọi là thế giới cực lạc, cũng gọi là tri kiến Như Lai”.
Học nhân tuy nghe được lời đó, còn chưa hết nghi. Xin Hòa thượng chỉ dạy khiến cho không còn ngưng trệ.
Tổ nói:
- Lời thầy kia dạy còn có thấy biết cho nên ông chưa liễu. Nay ta dạy ông một bài kệ:
Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại tợ phù vân già nhật diện.
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hồn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện?
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển kiến.
不見一法存無見
大似浮雲遮日面
不知一法守空知
還如太虛生閃電
此之知見瞥然興
錯認何曾解方便
汝當一念自知非
自己靈光常顯見
Chẳng thấy pháp nào, còn thấy không,
Y như mây nổi che mặt trời.
Chẳng biết một pháp, chấp biết không,
Lại như thái hư sanh ánh chớp.
Thấy, biết đó bỗng nhiên sanh khởi,
Lầm nhận bao giờ hiểu phương tiện?
Ông nên một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Sư nghe kệ xong tâm ý thông suốt, bèn thuật một bài kệ:
Vô đoan khởi tri giải
Trước tướng cầu Bồ đề.
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê ?
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu.
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.
無端起知解
著相求菩提
情存一念悟
寧越昔時迷
自性覺源體
隨照枉遷流
不入祖師室
茫然趣兩頭
Vô cớ sanh hiểu biết,
Chấp tướng cầu Bồ đề.
Tình còn một niệm ngộ,
Sao vượt mê thuở trước?
Tự tánh nguồn giác thể,
Theo chiếu uổng đổi dời.
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt hướng hai đầu.
hoatihon
06-24-2015, 08:47 AM
Chấp Không.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/chapkhong_zps56b60da6.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 09:06 AM
Bài 75.
10. THIỀN SƯ CHÍ ĐẠO 志道 Ở QUẢNG CHÂU.
Người Nam Hải. Ban đầu đến tham vấn Lục Tổ, thưa:
- Từ khi học nhân xuất gia, xem kinh Niết bàn có hơn mười năm mà chưa rõ đại ý. Mong Hòa thượng rủ lòng dạy bảo.
Tổ hỏi:
- Ông chưa rõ chỗ nào?
Đáp:
Chư hành vô thường,
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
諸行無常
是生滅法
生滅滅已
寂滅為樂
Chư hành vô thường,
Là pháp sanh diệt.
Sanh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui.
con còn nghi hoặc chỗ đó.
Tổ hỏi:
- Vì sao ông sanh nghi?
Đáp:
- Tất cả chúng sanh đều có hai thân, là sắc thân và pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt, pháp thân hữu thường vô tri vô giác. Kinh nói “Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui” đó, chưa biết thân nào tịch diệt thân nào thọ vui ?
Nếu là sắc thân tịch diệt, khi sắc thân diệt thì tứ đại phân tán, tồn là khổ, khổ đâu thể nói vui. Nếu là pháp thân tịch diệt tức đồng với cỏ cây gạch đá, thì ai sẽ thọ lạc? Hơn nữa pháp tánh là thể của sanh diệt, ngũ uẩn là dụng của sanh diệt; năm dụng luôn sanh diệt trong nhất thể, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì thâu dụng quy về thể. Nếu để mặc cho năm dụng sanh lại, tức là loài hữu tình không đoạn không diệt; nếu không cho năm dụng sanh lại thì mãi mãi quy về tịch diệt, tức là hữu tình đồng với vật vô tình.
Như vậy, tất cả các pháp đều bị niết bàn chế phục cấm chỉ, sanh còn không được thì có gì là vui đâu?
Tổ nói:
- Ông là Thích tử sao còn quen thói tà kiến đoạn thường của ngoại đạo mà nghị luận pháp tối thượng thừa? Cứ theo chỗ ông hiểu thì ngoài sắc thân riêng có pháp thân, lìa sanh diệt cầu nơi tịch diệt; lại suy luận niết bàn là thường vui, nói có thân thọ vui. Đó là chấp trước luyến tiếc sự sanh tử, tham đắm cái vui thế gian.
Nay ông phải biết, Phật vì tất cả những người mê nhận năm uẩn hòa hợp làm tướng thân của mình (ngã), họ phân biệt tất cả pháp là tướng trần bên ngoài, ưa sống ghét chết niệm niệm đổi dời, chẳng biết ngã pháp là mộng huyễn hư giả mới luống chịu luân hồi, đến nỗi Niết bàn thường vui lại cho là tướng khổ mà suốt ngày tìm cầu Niết bàn. Vì thế Phật thương mới chỉ cho cái vui thật của Niết bàn (chơn lạc): “Trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại cũng không có sự sanh diệt nào để diệt. Đó là tịch diệt hiện tiền. Đương lúc tịch diệt hiện tiền, cũng không có sự nghĩ tưởng về hiện tiền mới gọi là thường vui (thường lạc)”. Cái vui đó không có người thọ cũng không có người chẳng thọ, há có tên gọi “một thể năm dụng”, huống chi còn nói Niết bàn chế phục cấm chỉ các pháp khiến cho mãi mãi không sanh. Đó là báng Phật hủy Pháp.
Nhữ thị Thích tử hà tập ngoại đạo đoạn thường tà kiến 。nhi nghị Tối Thượng Thừa pháp 。cứ nhữ sở giải 。tức sắc thân ngoại biệt hữu pháp thân 。li sinh diệt cầu ư tịch diệt 。hựu suy Niết bàn thường lạc 。ngôn hữu thân thụ giả 。tư nãi chấp lận sinh tử đam trước thế lạc 。nhữ kim đương tri 。Phật vi nhất thiết mê nhân nhận ngũ uẩn hòa hợp vi tự thể tướng 。phân biệt nhất thiết pháp vi ngoại trần tướng 。hảo sinh ác tử niệm niệm thiên lưu 。bất tri mộng ảo hư giả 。uổng thụ luân hồi, dĩ thường lạc Niết bàn phiên vi khổ tướng chung nhật trì cầu 。Phật mẫn thử cố nãi kì Niết bàn chân lạc 。sa na vô hữu sinh tướng 。sa na vô hữu diệt tướng 。canh vô sinh diệt khả diệt, thị tắc tịch diệt kiến tiền 。đương kiến tiền chi thời diệc vô kiến tiền chi lượng nãi vị thường lạc thử lạc vô hữu thụ giả diệc vô bất thụ giả khởi hữu nhất thể ngũ dụng chi danh hà huống canh ngôn Niết bàn cấm phục chư pháp linh vĩnh bất sinh tư nãi báng Phật huỷ Pháp.
汝是釋子何習外道斷常邪見, 而議最上乘法, 據汝所解, 即色身外別有法身,離生滅求於寂滅, 又推涅槃常樂, 言有身受者, 斯乃執吝生死耽著世樂, 汝今當知, 佛為一切迷人認五蘊和合為自體相, 分別一切法為外塵相, 好生惡死念念遷流, 不知夢幻虛假, 枉受輪迴, 以常樂涅槃翻為苦相終日馳求, 佛愍此故乃示涅槃真樂,剎那無有生相, 剎那無有滅相,更無生滅可滅, 是則寂滅見前, 當見前之時亦無見前之量乃謂常樂此 無有受者亦無不受者豈有一體五用之 何況更言涅槃禁伏諸法令永不生斯乃 謗佛毀法.
Hãy nghe ta nói kệ:
Vô thượng Đại Niết Bàn,
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn,
Chư cầu nhị thừa nhân,
Mục dĩ vô vi tác.
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bổn,
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chơn thực nghĩa?
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả,
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng,
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm thánh kiến,
Bất tác Niết bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn,
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Kiếp hỏa thiêu hải để,
Phong cổ sơn tướng kích,
Chơn thường tịch diệt lạc,
Niết bàn tướng như thị.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
無上大涅槃
圓明常寂照
凡愚謂之死
外道執為斷
諸求二乘人
目以無為作
盡屬情所計
六十二見本
妄立虛假名
何為真實義
唯有過量人
通達無取捨
以知五蘊法
及以蘊中我
外現眾色象
一一音聲相
平等如夢幻
不起凡聖見
不作涅槃解
二邊三際斷
常應諸根用
而不起用想
分別一切法
不起分別想
劫火燒海底
風鼓山相擊
真常寂滅樂
涅槃相如是
吾今彊言說
令汝捨邪見
汝勿隨言解
許汝知少分
Vô thượng Đại Niết Bàn,
Viên minh hằng tịch chiếu,
Phàm ngu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp là đoạn,
Những người cầu nhị thừa,
Gọi đó tu vô vi.
Đều thuộc tình sở chấp,
Gốc sáu mươi hai kiến,
Vọng lập tên hư giả,
Sao là nghĩa chơn thật?
Chỉ có bậc Thánh nhân,
Thông đạt không thủ xả,
Vì biết pháp ngũ uẩn,
Và các pháp trong ta,
Ngoài hiện các hình sắc,
Mỗi mỗi tướng âm thanh,
Bình đẳng như mộng huyễn,
Không khởi thấy Phàm Thánh,
Không sanh hiểu Niết bàn,
Nhị biên tam tế đoạn,
Thường ứng dụng các căn,
Mà không khởi tưởng dụng,
Phân biệt tất cả pháp,
Không khởi tưởng phân biệt.
Kiếp lửa thiêu đáy biển,
Gió động kích tướng núi,
Vui tịch diệt chơn thường,
Tướng Niết bàn như thế.
Nay ta buộc phải nói,
Cho ông bỏ tà kiến,
Ông chớ theo lời nói,
May ra biết ít nhiều.
Sư nghe kệ hớn hở vui mừng, làm lễ rồi lui.
hoatihon
06-24-2015, 09:08 AM
Mộng Huyễn lao xao.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/monghuyenlaoxao_zps8c849435.jpg
lavinhcuong
06-24-2015, 10:17 AM
Bài 76.
11. HÒA THƯỢNG ẤN TÔNG 印宗,CHÙA PHÁP TÁNH 法性, QUẢNG CHÂU.
Người Ngô Quận, họ Ấn. Từ khi Sư xuất gia đã nghiên cứu tinh tường toàn bộ kinh Niết bàn. Năm Đường Hàm Hanh nguyên niên (670 – Đường Cao Tông) Sư đến kinh sư, vua ban chiếu cho ở chùa Đại Kính Ái, Sư rất mực từ chối rồi đi Kì Xuân yết kiến Hoằng Nhẫn Đại sư.
Về sau Sư giảng kinh Niết bàn ở chùa Pháp Tánh, Quảng Châu. Gặp Lục Tổ Huệ Năng Đại sư mới ngộ huyền lý, Sư xem Huệ Năng là thầy truyền pháp. Sư góp nhặt lời nói của những bậc đạt giả các nơi từ đời Lương đến Đường mà soạn thuật “Tâm Yếu Tập” thạnh hành ở đời.
Năm Tiên Thiên thứ hai (713 – Đường Huyền Tông), ngày 21 tháng 2 Sư tịch ở chùa Diệu Hỉ núi Cối Kê, thọ 87 tuổi.
Vương Sư Càn lập tháp thờ ở Cối Kê và làm bài minh.
lavinhcuong
06-24-2015, 10:33 AM
Bài 77.
12. THIỀN SƯ HÀNH TƯ 行思 NÚI THANH NGUYÊN 青原, KIẾT CHÂU.
Người An Thành, bổn châu (Kiết Châu), họ Lưu. Xuất gia hồi còn trẻ thơ. Mỗi lần những người ở chung bàn luận đạo lý, chỉ có Sư giữ im lặng.
Sau nghe tiếng pháp tịch Tào Khê, bèn đến tham lễ.
Sư hỏi:
- Làm gì thì không rơi vào giai cấp?
Đương hà sở vụ tức bất lạc giai cấp ?
當何所務即不落階級?
Tổ hỏi:
- Ông đã từng làm việc gì?
Nhữ tằng tác thập ma ?
汝曾作什麼 ?
Sư đáp:
- Thánh đế cũng chẳng làm.
Thánh đế diệc bất vi.
聖諦亦不為
Tổ hỏi:
- Vậy rơi vào giai cấp nào?
Lạc hà giai cấp ?
落何階級 ?
Đáp:
- Thánh đế còn chẳng làm, thì giai cấp cái gì đâu?!
Thánh đế thượng bất vi, hà giai cấp chi hữu ?!
聖諦尚不為, 何階級之有.
Tổ thừa nhận Sư. Trong pháp hội Tào Khê học đồ dù đông người, Sư là người đứng đầu, cũng như ở Thiếu Lâm Nhị Tổ không nói, vì thế mà được tủy vậy.
Diệc do nhị tổ bất ngôn, thiếu lâm vị chi đắc tuỷ hĩ.
亦猶二祖不言少林謂之得髓矣
Một hôm Tổ (Lục Tổ) bảo Sư:
- Từ trước y pháp cả hai lần lượt thầy truyền cho trò, y tiêu biểu để tin, pháp để ấn tâm. Nay ta có được người, lo gì người chẳng tin? Ta từ nhận y đến nay gặp nhiều tai nạn, huống chi đời sau sự cạnh tranh ắt càng nhiều, y thì giữ lại ở sơn môn, ông nên tách ra giáo hóa một nơi, không để cho đứt mất.
Sau khi đắc pháp, Sư trụ trì chùa Tĩnh Cư núi Thanh Nguyên, Kiết Châu.
Lục tổ sắp thị hiện nhập diệt, có sa di Hy Thiên (tức là Hòa thượng Thạch Đầu, Nam Nhạc) hỏi Tổ:
- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, Hy Thiên chưa biết phải nương tựa ai?
Tổ dạy:
- Tầm Tư đi.
Khi Tổ qua đời, Hy Thiên thường đến chỗ vắng tọa thiền, tâm rỗng lặng hầu như quên sự sống. Đệ nhất tòa hỏi:
- Thầy đã mất, ông ngồi không ở đây làm gì?
Thiên đáp:
- Tôi vâng theo di huấn, nên tầm tư thôi.
Đệ nhất tòa nói:
- Ông có sư huynh là Hòa Thượng Hành Tư nay ở Kiết Châu, nhân duyên ông ở đó. Lời thầy rất ngay thẳng, tự ông mê vậy.
Thiên nghe nói bèn lễ từ khám Tổ, rồi đi thẳng đến chùa Tĩnh Cư.
Sư (Hành Tư) hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Thiên đáp:
- Tào Khê.
Sư (Hành Tư) hỏi:
- Đem được cái gì đến đây?
Tướng đắc thập ma lai ?
將得什麼來 ?
Thiên đáp:
- Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.
Vị đáo tào khê diệc bất thất.
未到曹谿亦不失
Sư nói:
- Như thế thì dùng đi, đến Tào Khê làm gì?
Nhẫm ma dụng, khứ tào khê tác thập ma ?
恁麼用去曹谿作什麼 ?
Đáp:
- Nếu chẳng đến Tào Khê, đâu biết chẳng mất.
Nhược bất đáo tào khê, tranh tri bất thất.
若不到曹谿爭知不失
Thiên lại hỏi:
- Đại sư Tào Khê có biết Hòa thượng chăng?
Sư hỏi:
- Ông nay biết ta chăng?
Đáp:
- Biết, nhưng sao có thể biết được?
Sư nói:
- Loài có sừng tuy nhiều, một con lân là đủ!
Thiên lại hỏi:
- Hòa thượng rời Tào Khê bao lâu rồi?
Sư đáp:
- Ta cũng chẳng biết. Ông rời Tào Khê bao lâu rồi?
Đáp:
- Hy Thiên chẳng từ Tào Khê đến.
Sư nói:
- Ta cũng biết chỗ ông đi.
Đáp:
- Hòa thượng vốn là bậc đại nhân, chớ nên vội vàng.
----------
Một ngày khác Sư lại hỏi Thiên:
- Ông từ đâu đến?
Đáp:
- Tào Khê.
Sư bèn đưa cây phất tử lên, hỏi:
- Tào Khê có cái này không?
Đáp:
- Không những Tào Khê mà Tây Thiên cũng không có.
Sư hỏi:
- Ông chưa từng đến Tây Thiên ư?
Đáp:
- Nếu đến liền có.
Sư nói:
- Chưa đâu! Nói lại đi.
Đáp:
- Hòa thượng cũng phải nói giúp một nửa, chớ nên trông cậy hết ở học nhân.
Sư nói:
- Không từ chối nói với ông, chỉ sợ về sau không có người gánh vác.
---------
Sư sai Hy Thiên đem thư đến Hòa thượng Hoài Nhượng ở Nam Nhạc, dặn:
- Ông chuyển đạt thư rồi, hãy về gấp. Ta có cái búa cùn dành cho ông trụ núi.
Thiên đến đó chưa trình thư, liền hỏi:
- Khi chẳng mộ chư Thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?
Nhượng nói:
- Ông hỏi cao quá đi! Sao không hỏi thấp xuống.
Thiên đáp:
- Thà chịu vĩnh kiếp trầm luân chứ không mộ chư thánh giải thoát.
Ninh khả vĩnh kiếp trầm luân, bất mộ chư thánh giải thoát.
寧可永劫沈淪, 不慕諸聖解脫
Nhượng bèn thôi.
Thiên về tới chùa Tĩnh Cư, Sư hỏi:
- Ông đi chưa lâu, đưa thư tới không?
Thiên đáp:
- Tin tức cũng chẳng thông, thư đưa cũng chẳng tới.
Sư hỏi:
- Vì sao?
Thiên nhắc lại tiền thoại, rồi nói:
- Lúc ra đi được Hòa thượng hứa cho cái búa cùn, tiện đây xin lấy.
Sư thõng một chân xuống, Thiên lễ bái. Chẳng bao lâu Sư từ giã đi Nam Nhạc.
(Huyền Sa nói: Hòa thượng Thạch Đầu lớn được nhỏ được, bị sư Hoài Nhượng xô ngã tới nay chưa đứng dậy được)
-----------
Hà Trạch Thần Hội đến tham vấn. Sư hỏi:
- Ở đâu đến?
Hội đáp:
- Tào Khê.
Sư hỏi:
- Ý chỉ Tào Khê ra sao?
Thần Hội chấn chỉnh thân rồi thôi. Sư nói:
- Vẫn còn mang ngói gạch đấy.
Hỏi:
- Trong đó Hòa thượng không có vàng ròng để cho người ư?
Sư nói:
- Giá có cho, ông để ở đâu?
(Huyền Sa nói: Đúng vậy. Vân Cư Tích hỏi: Như Huyền Sa nói “đúng vậy”, thì đó là vàng ròng hay là ngói gạch?)
-----------
Tăng hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư nói:
- Gạo ở Lô Lăng giá cả ra sao?
-----------
Sư đã truyền pháp cho Thạch Đầu. Năm Đường Khai Nguyên thứ 28, nhằm năm canh thìn 740, ngày 13 tháng chạp, Sư thăng đường báo chúng rồi ngồi kiết già mà tịch.
Vua Đường Hy Tông (874 – 888) ban thụy hiệu là Hoằng Tế Thiền Sư, tháp là Quy Chơn.
lavinhcuong
06-24-2015, 10:40 AM
Bài 78.
13. THIỀN SƯ HOÀI NHƯỢNG 懷讓 Ở NAM NHẠC.
Người ở Kim Châu, họ Đỗ. Năm 15 tuổi đến chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu nương nhờ luật sư Hoằng Cảnh xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc, thực tập tạng tỳ ni (luật, oai nghi).
Một hôm tự than: “Phàm người xuất gia phải vì pháp vô vi”. Lúc ấy bạn đồng học là Thản Nhiên biết ý chí Sư cao siêu, khuyên Sư cùng đến yết kiến Hòa thượng Huệ An ở Tung Sơn, Huệ An mở mang tri thức cho Sư. Rồi Sư đi thẳng đến Tào Khê tham Lục Tổ.
Tổ hỏi:
- Từ đâu đến?
Đáp:
- Từ Tung Sơn đến.
Tổ hỏi:
- Vật nào đến như thế?
Đáp:
- Nói giống như một vật thì không trúng.
Tổ hỏi:
- Có thể tu chứng không?
Đáp:
- Tu chứng thì chẳng không, nhiễm ô thì không được.
Tổ nói:
- Chính cái không nhiễm ô đó mà chư Phật hộ niệm, ông đã như thế ta cũng như thế. Tổ Bát Nhã Đa la ở Tây Thiên có lời sấm ký rằng “Dưới chân ông sẽ xuất hiện một con ngựa tơ đạp chết người trong thiên hạ”, đều ở tâm ông không cần nói sớm.
Sư khế hội thông suốt, ở hầu hạ thân cận bên Tổ suốt 15 năm. Năm Đường Tiên Thiên thứ hai (713 – Đường Huyền Tông), Sư đến Hành Nhạc ở chùa Bát Nhã.
Khoảng năm Khai Nguyên (713 – 741, Đường Huyền Tông), có sa môn Đạo Nhất (Tức là Mã Tổ Đại sư) hàng ngày tọa thiền ở viện Truyền Pháp. Sư biết đó là pháp khí, đến hỏi:
- Đại đức ngồi thiền để cầu cái gì?
Nhất đáp:
- Cầu làm Phật.
Sư bèn lấy một cục gạch, mài trên đá ở trước am của Đạo Nhất.
Nhất hỏi:
- Thầy làm gì vậy?
Sư đáp:
- Mài để làm gương.
Nhất nói:
- Mài gạch há thành gương được ư?
Sư hỏi:
- Ngồi thiền há thành Phật được ư?
Nhất hỏi:
- Thế nào mới phải?
Sư nói:
- Như người đi xe bò, xe không đi đánh xe là phải hay đánh bò là phải?
Đạo Nhất không đáp được. Sư lại nói:
- Ông học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền thì thiền chẳng phải nằm ngồi; nếu học ngồi Phật thì Phật chẳng phải tướng nhất định nào, nơi pháp vô trụ không nên thủ xả. Ông ngồi Phật như thế tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt lý kia (vô trụ).
Nhất nghe chỉ dạy như uống đề hồ, lễ bái hỏi:
- Dụng tâm thế nào mới hợp với vô tướng tam muội?
Sư đáp:
- Ông học pháp môn tâm địa như gieo hạt giống, ta nói pháp yếu ví như mưa móc trên trời kia, duyên ông ứng hợp sẽ thấy đạo kia.
Lại hỏi:
- Đạo chẳng phải sắc tướng làm sao thấy được?
Sư nói:
- Con mắt pháp của tâm địa hay thấy về đạo, vô tướng tam muội cũng lại như vậy.
Nhất hỏi:
- Có thành hoại không?
Sư đáp:
- Nếu lấy cái thành hoại tụ tán mà thấy đạo thì không phải thấy đạo. Hãy nghe ta nói kệ:
Tâm địa hàm chư chủng,
Ngộ trạch tất giai manh.
Tam muội hoa vô tướng,
Hà hoại phục hà thành?
心地含諸種
遇澤悉皆萌
三昧華無相
何壞復何成
Đất tâm chứa hạt giống,
Gặp ướt đều nảy mầm.
Hoa tam muội vô tướng,
Nào hoại lại nào thành?
Nhất nhờ khai ngộ tâm ý siêu nhiên, theo hầu Sư mười năm, ngày càng sâu mầu.
-------
Đệ tử nhập thất của Sư gồm có 6 người. Sư ấn khả từng người:
- Các ông sáu người đồng chứng thân ta, mỗi người khế hội một phần.
Một người được chân mày ta, giỏi về oai nghi là Thường Hạo;
Một người được mắt ta, giỏi về nhìn sự việc là Trí Đạt;
Một người được tai ta, giỏi về nghe lý là Thản Nhiên;
Một người được mũi ta, giỏi về cảm nhận là Thần Chiếu;
Một người được lưỡi ta, giỏi về đàm thuyết là Nghiêm Tuấn;
Một người được tâm ta, thông suốt mọi điều là Đạo Nhất.
Nhất nhân đắc ngô tâm thiện cổ kim Đạo Nhất
一人得吾心善古今道一
Sư lại nói:
- Tất cả pháp đều từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh pháp không thể trụ. Nếu đạt tâm địa thì làm gì cũng được, nếu không gặp người thượng căn thì nên cẫn thận không nên nói gì.
Nhất thiết pháp giai tùng tâm sinh, tâm vô sở sinh pháp vô năng trụ. Nhược đạt tâm địa sở tác vô ngại, phi ngộ thượng căn nghi thận từ tai.
一切法皆從心生, 心無所生法無能住. 若達心地所作無礙, 非遇上根宜慎辭哉.
-----------
Có một đại đức hỏi:
- Như gương hiện ảnh, khi có ảnh rồi thì cái trong suốt của gương đi đâu?
Như kính chú tượng, tượng thành hậu kính minh hướng thập ma xứ khứ ?
問如鏡鑄像, 像成後鏡明向什麼處去 ?
Sư đáp:
- Lúc đại đức còn trẻ thơ, tướng mạo đó bây giờ ở đâu ?!
Như đại đức vi đồng tử thời tướng mạo hà tại ?!
如大德為童子時相貌何在 ?!
Hỏi:
- Sau khi có ảnh rồi, tại sao gương không sáng soi nữa ?
Chỉ như tượng thành hậu, vi thập ma bất giám chiếu ?
只如像成後, 為什麼不鑑照 ?
Sư đáp:
-Tuy không sáng soi, nhưng dối y một chút cũng không được.
Tuy nhiên bất giám chiếu, man tha nhất điểm bất đắc.
雖然不鑑照。謾他一點不得
---------
Sau Mã Đại sư đi xiển hóa ở Giang Tây, Sư hỏi chúng:
- Đạo Nhất vì chúng thuyết pháp chăng?
Chúng đáp:
- Đã vì chúng thuyết pháp.
Sư nói:
- Vẫn chưa thấy người đem tin tức về.
Chúng lặng thinh. Nhân đó Sư sai một vị tăng đi thăm, Sư dặn:
- Đợi khi y thượng đường, chỉ hỏi “Làm gì”. Y nói lời nào ghi nhớ đem về đây.
Vị tăng ra đi làm đúng như lời Sư đã dặn. Khi về tăng thưa:
- Mã Sư nói “Từ khi loạn rợ Hồ, sau ba mươi năm ăn chưa từng thiếu dưa muối”.
Sư nhận là đúng.
Năm Thiên Bảo thứ ba (744 – Đường Huyền Tông), ngày 11 tháng 8, Sư viên tịch tại Hành Nhạc. Sắc ban thụy hiệu là Đại Huệ Thiền Sư, tháp hiệu Tối Thắng Luân.
hoatihon
06-24-2015, 10:41 AM
Hoa Tam Muội.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tammuoihoa_zps7ec6903b.jpg
hoatihon
06-25-2015, 08:20 AM
Sở tác vô ngại.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/sotacvongai_zpsdc6e77ef.jpg
lavinhcuong
06-25-2015, 08:33 AM
Bài 79.
14. THIỀN SƯ HUYỀN GIÁC 玄覺 Ở VĨNH GIA, ÔN CHÂU.
Người ở Vĩnh Gia, họ Đới. Xuất gia từ nhỏ, xem khắp tam tạng, tinh thông pháp môn viên diệu Chỉ Quán của Tông Thiên Thai, trong bốn oai nghi thường an trú sâu kín thiền quán. Sau nhân thiền sư Lãng ở Tả Khê khích lệ, Sư cùng thiền sư Sách ở Đông Dương đồng đến Tào Khê.
Mới tới, Sư vai mang bình bát đi nhiễu Tổ ba vòng rồi đứng lại chống tích trượng.
Tổ nói:
- Phàm là sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh. Đại đức từ phương nào đến mà sanh đại ngã mạn vậy?
Sư đáp:
- Sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng!
Sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc !
生死事大, 無常迅速 !
Tổ hỏi:
- Sao không quán cái không sanh tử, liễu ngộ cái không chậm mau?
Hà bất thể thủ vô sinh, liễu vô tốc hồ ?
何不體取無生了無速乎?
Đáp:
- Thể đã không sanh tử, hiểu ra : chẳng có gì mau chậm !
Thể tức vô sinh, liễu bản vô tốc !
體即無生,了本無速 !
Tổ nói:
- Đúng thế, đúng thế!
Như thị như thị !
如是如是!
Lúc đó đại chúng nghe vậy đều ngạc nhiên. Sư bèn đầy đủ oai nghi lễ bái, chốc lát sau từ giã ra về. Tổ bảo:
- Sao về nhanh thế?
Phản thái tốc hồ ?
返太速乎?
Sư đáp:
- Vốn tự chẳng động, há có nhanh chậm sao?
Bản tự phi động, khởi hữu tốc da ?!
本自非動, 豈有速耶?!
Tổ hỏi:
- Ai biết chẳng động?
Thùy tri phi động ?
誰知非動?
Đáp:
- Nhân giả tự sanh phân biệt.
Nhân giả tự sinh phân biệt.
仁者自生分別.
Tổ nói:
- Ông thật là đạt ý vô sanh.
Nhữ thậm đắc vô sinh chi ý.
汝甚得無生之意.
Sư vặn lại :
- Vô sanh há có ý sao?
Vô sinh khởi hữu ý da ?
無生豈有意耶?
Tổ hỏi:
- Nếu không có ý thì ai phân biệt?
Vô ý thùy đương phân biệt ?
無意誰當分別?
Đáp:
- Phân biệt cũng chẳng phải ý.
Phân biệt diệc phi ý.
分別亦非意.
Tổ khen:
- Lành thay, lành thay! Hãy ở lại một đêm.
Vì vậy người bấy giờ gọi Sư là Nhất Túc Giác. Huyền Sách ở lại với Sư, sáng hôm sau cùng nhau xuống núi trở về Ôn Giang. Học giả quy tụ rất đông.
Sư được ban hiệu là Chơn Giác Đại Sư.
Sư trước tác một bài Chứng Đạo Ca và Thiền Tông Ngộ Tu Viên Chỉ, từ cạn đến sâu. Thứ sử Khánh Châu là Ngụy Tĩnh kết tập lại và đề tựa, thành mười thiên tên là Vĩnh Gia Tập, đều thạnh hành ở đời.
lavinhcuong
06-25-2015, 08:34 AM
Thứ nhất: Nghi thức lập chí mộ đạo.
Phàm muốn tu đạo, trước hết nên lập chí và thực tập nghi thức phụng sự thầy mới rõ ràng về phép tắc phải thuận theo. Do đó đề mục thứ nhất nói về nghi thức mộ đạo.
Thứ hai: Răn ý kiêu xa (Kiêu căng xa xỉ)
Mục thứ nhất dù có lập chí tu đạo biết rõ phép tắc oai nghi, nếu ba nghiệp còn kiêu xa thì vọng tâm khuấy động, làm sao định được? Do đó chương mục thứ hai nói về răn ý kiêu xa.
Thứ ba: Tịnh tu ba nghiệp.
Trước đã nêu sơ lược cương yếu về việc răn cấm kiêu xa. Nay kiểm điểm kỹ lưỡng lại khiến cho lỗi chẳng sanh. Do đó chương thứ ba nói về tịnh tu ba nghiệp, răn cấm về thân khẩu ý.
Thứ tư: Bài tụng về xa-ma-tha (chỉ).
Trước đã kiểm điểm thân khẩu khiến cho lỗi thô không sanh. Kế đến phải nhập môn tu đạo, theo trình tự thì không ngồi định huệ, năm loại tâm khởi, sáu khoa liệu giản. Do đó chương thứ tư nói về bài tụng xa ma tha.
Thứ năm: Bài tụng về tỳ-bà-xá-na (quán).
Không phải giới thì không có thiền, không phải thiền thì không có huệ. Trên đã tu định (chỉ), định lâu thì huệ sáng. Do đó chương thứ năm nói về bài tụng tỳ-bà-xá-na.
Thứ sáu: Bài tụng về ưu-tất-xoa (xả)
Tu thiên về định, định lâu thì chìm; học thiên về huệ, huệ nhiều thì tâm động. Do đó chương thứ sáu nói về bài tụng ưu-tất-xoa, quân bình về định huệ sao cho không chìm không động, khiến cho định huệ quân bình rời khỏi nhị biên.
Thứ bảy: Cấp bậc lần lượt của ba thừa.
Định huệ quân bình được rồi thì tịch mà thường chiếu, "Nhất tâm Tam quán" thì nghi nào không hết, chiếu nào không viên mãn? Tự mình hiểu rõ ràng rồi nhưng thương người chưa ngộ, ngộ có sâu cạn.
Do đó chương thứ bảy nói về cấp bậc lần lượt của ba thừa.
Thứ tám: Sự lý không hai.
Tam thừa ngộ lý, lý thì không đâu không cùng khắp; cùng lý ở nơi sự, liễu sự tức là lý. Do đó chương thứ tám nói về lý sự không hai, ngay nơi sự mà dụng chơn thì loại trừ kiến chấp điên đảo.
Thứ chín: Thư khuyên bạn hữu.
Lý sự đã dung thông thì nội tâm tự sáng, lại thương người học đạo còn xa luống uổng tấc bóng quang âm. Do đó chương thứ chín là thư khuyên bạn hữu.
Thứ mười: Văn phát nguyện.
Khuyên bạn hữu, tuy là thương người nhưng tâm chuyên chú nơi tình cảm thì chưa cùng khắp. Do đó chương thứ mười nói về văn phát nguyện thệ độ tất cả.
-----------
Thứ tự mười môn quán tâm:
Điều 1. Nói về pháp nhĩ.
Điều 2. Nêu ra cái thể hay quán.
Điều 3: Bàn về sự tương ưng.
Điều 4: Răn ngừa sự thượng mạn.
Điều 5: Răn bảo về sự biếng nhác.
Điều 6: Nêu lại cái thể hay quán;
Điều 7: Nói về sự thị phi;
Điều 8: Chọn lựa thuyên chỉ;
Điều 9: Nơi nơi đều thành pháp quán;
Điều 10: Diệu khế nguồn huyền.
1. Nói về pháp nhĩ.
Kiến rong ruổi lăng xăng mà tột nguồn chỉ là nhất tịch. Nguồn linh không hình trạng, soi gương đó thì có ngàn thứ sai khác; thiên sai bất đồng nên đặt tên pháp nhãn, nhất tịch chẳng phải khác nên cái hiệu huệ nhãn mới có, cả hai lý lượng (lý sự) đều mất thì cái công năng Phật nhãn đầy đủ. Vì vậy "Tam đế nhất cảnh" (tam đế viên dung) nên lý Pháp thân hằng thanh tịnh, "Tam trí nhất tâm" nên ánh sáng Bát nhã thường chiếu, cảnh và trí thầm hợp nên tùy theo cơ duyên mà giải thốt, chẳng phải dọc chẳng phải ngang nên đạo như chữ Y chơn thật hội ngộ nhau một cách mầu nhiệm. Thế nên biết Tâm tánh rỗng rang thông suốt với hai tướng động tịnh, nguồn của động tịnh thì không hai; chơn như tuyệt lự, duyên theo niệm chấp trước mà chẳng khác; hoặc
diệu tánh của tam đức hẳn là không trái nhất tâm, nhất tâm sâu rộng khó lường làm sao ra ngồi yếu đạo này mà theo lối tẽ? Do đó tức tâm là đạo, có thể nói là lần theo dòng mà được nguồn vậy.
2. Nêu ra cái thể hay quán.
Chỉ cần biết một niệm tức là không mà chẳng không (không bất không), chẳng không mà chẳng phải chẳng không (phi không phi bất không).
3. Bàn về sự tương ưng.
Tâm tương ưng với Không thì việc khen chê vinh nhục đâu phải mừng đâu phải lo. Thân tương ưng với Không thì dao cắt hay hương xoa có gì khổ có gì sướng. Y báo tương ưng với Không thì người ta cho hay cướp đoạt cũng đâu có gì được mất.
Tâm tương ưng với Không bất không thì ái kiến đều quên, từ bi cứu khắp tất cả. Thân tương ưng với Không bất không thì bên trong đồng với cây khô, bên ngoài hiện đủ oai nghi. Y báo tương ưng với Không bất không thì vĩnh viễn không còn tham cầu mà còn đem tiền của giúp người.
Tâm tương ưng với Không bất không và Phi không phi bất không thì thật tướng bắt đầu sáng tỏ, khai mở tri kiến Phật. Thân tương ưng với Không bất không và Phi không phi bất không thì nhất trần nhập chánh thọ, chư trần khởi trong Tam muội. Y báo tương ưng với Không bất không và Phi không phi bất không thì hóa sanh đài hương, lầu báu và cõi nước trang nghiêm.
Tâm dữ không tướng ưng, tắc ki huỷ tán dự hà ưu hà hỉ. Thân dữ không tướng ưng, tắc đao cát hương đồ hà khổ hà lạc. Y báo dữ không tướng ưng, tắc thí dữ kiếp đoạt hà đắc hà thất. Tâm dữ không bất không tướng ưng tắc ái kiến đô vô từ bi phổ cứu. Thân dữ không bất không tướng ưng, tắc nội đồng khô mộc ngoại hiện uy nghi. Y báo dữ không bất không tướng ưng, tắc vĩnh tuyệt tham cầu tư tài cấp tế. Tâm dữ không bất không phi không phi bất không tướng ưng, tắc thật tướng sơ minh khai phật tri kiến. Thân dữ không bất không phi không phi bất không tướng ưng, tắc nhất trần nhập chính thụ, chư trần tam muội khởi. Y báo dữ không bất không phi không phi bất không tướng ưng, tắc hương đài bảo các nghiêm độ hoá sinh.
心與空相應, 則譏毀讚譽何憂何喜. 身與空相應, 則刀割香塗何苦何樂. 依報與空相應, 則施與劫奪何得何失. 心與空不空相應則愛見都忘慈悲普救. 身與空不空相應, 則內同枯木外現威儀. 依報與空不空相應, 則永絕貪求資財給濟. 心與空不空非空非不空相應, 則實相初明開佛知見. 身與空不空非空非不空相應, 則一塵入正受, 諸塵三昧起. 依報與空不空非空非不空相應, 則香臺寶閣嚴土化生.
4. Răn ngừa sự Thượng mạn.
Nếu chưa được như trên thì chưa tương ưng.
5. Răn bảo về sự biếng nhác.
Nhưng qua biển cần phải lên thuyền, không nhờ thuyền thì làm sao qua được? Tu tâm ắt phải vào pháp quán, không nhờ quán lấy gì để minh tâm. Tâm còn chưa minh thì ngày nào tương ưng? Hãy suy xét kỹ, chớ nên ỷ mình.
6. Nêu lại cái thể hay quán.
Chỉ biết một niệm tức là Không bất không và Phi hữu phi vô mà chẳng biết tức niệm là không bất không và phi phi hữu phi phi vô.
7. Nói về sự thị phi.
Tâm chẳng phải có (hữu), Tâm chẳng phải không (vô), Tâm chẳng phải phi hữu, Tâm chẳng phải phi vô. Chấp Tâm là hữu là vô, là rơi vào thị; phi hữu phi vô, là rơi vào phi. Như vậy, chỉ là cái phi (chẳng phải) của thị và phi, chưa phải là cái thị (phải) của phi thị và phi phi. Nay đem hai cái phi để phá hai cái thị, cái thị đem phá phi, thị đó vẫn còn là phi. Lại dùng hai cái phi để phá hai cái phi, cái phi dùng phá phi phi đó tức là thị. Như vậy, chỉ là cái thị của phi thị và phi phi, chưa phải là bất phi bất bất phi, bất thị bất bất thị. Cái lầm lẫn do thị phi nó ràng rịt vi tế khó thấy, phải có tinh thần trong sáng yên tĩnh để nghiên cứu tỉ mỉ đó.
8. Chọn lựa thuyên chỉ.
Nhưng mà chí lý thì không lời, mượn văn ngôn để nói về ý chỉ của chí lý. Ý chỉ và tông thú chẳng phải là quán, nhờ tu quán mới hội được tông chỉ. Nếu ý chỉ chưa rõ ràng thì lời chưa đúng, nếu tông thú chưa hội thì quán chưa sâu; quán sâu mới hội được tông thú, lời đúng ắt rõ được ý chỉ. Ý chỉ và tông thú đã hiểu rõ rồi thì ý chỉ và quán đâu còn tồn tại nữa.
9. Nơi nơi đều thành pháp quán.
Phàm tái diễn ngôn từ, nêu lại thể quán là muốn nói rằng tông thú và ý chỉ không khác. Lời nói và quán có đối tượng mà đổi dời. Đổi dời nhưng lời nói và lý không sai khác, không sai khác thì quán và ý chỉ chẳng khác. Ý chỉ chẳng khác tức là lý, lý không khác tức là tông. Tông thú và ý chỉ tuy hai tên mà là một, lời nói và quán phô diễn ra e làm lờn mặt con cháu thôi.
10. Diệu khế nguồn huyền.
Phàm người ngộ tâm sao lại chấp quán mà mê ý chỉ, người đạt giáo đâu thể kẹt lời mà lầm lý. Tỏ lý thì đường ngôn ngữ dứt, còn lời nào luận bàn được; hội ý chỉ thì hết tâm hành, quán nào có thể nghĩ tới? Cái mà tâm và lời không thể nghĩ bàn, thật đáng là diệu khế hoàn trung vậy.
-----------
Năm Tiên Thiên thứ hai (713), ngày 17 tháng 10, Sư ngồi an nhiên thị hiện nhập diệt. Ngày 13 tháng 11 xây tháp thờ ở phía nam Tây Sơn. Sắc ban thụy hiệu Vô Tướng Đại Sư, tháp hiệu Tịnh Quang.
Nhà Bắc Tống, trong năm Thuần Hóa (990 – 994) hồng đế Thái Tông ban chiếu, lệnh bổn châu trùng tu khám, tháp Sư.
hoatihon
06-25-2015, 09:43 AM
Tương ưng 1.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Tuongung1_zps590c9f5d.jpg
hoatihon
06-25-2015, 09:46 AM
Tương ưng 2.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Tuongung2_zps01780eb0.jpg
hoatihon
06-25-2015, 09:47 AM
Tương ưng 3.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Tuongung3b_zpsa465df7c.jpg
lavinhcuong
06-26-2015, 07:04 AM
Bài 80.
15. THIỀN SƯ BỔN TỊNH 本淨 NÚI TƯ KHÔNG 司空.
Người Giáng Châu, họ Trương. Thuở nhỏ đắp y đến thất Tào Khê được thọ ký. Sau Sư đến ở chùa Vô Tướng, thuộc núi Tư Không.
Nhà Đường năm Thiên Bảo thứ ba 744, vua Đường Huyền Tông sai trung sứ Dương Quang Đình vào núi hái dây thường xuân. Nhân gặp trượng thất lễ bái Sư và thưa:
- Đệ tử mộ đạo đã lâu rồi, xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy:
Sư nói:
- Hàng thạc học thiền tông trong thiên hạ đều hội tụ về kinh sư, thiên sứ nên trở về triều đủ để thưa
hỏi và giải quyết cho. Bần đạo ở góc núi cạnh khe, không có chỗ dụng tâm.
Quang Đình khóc lóc làm lễ. Sư nói:
- Đừng lễ bần đạo! Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo ư?
Đáp:
- Đệ tử trí thức tối tăm, chưa biết Phật với đạo nghĩa ấy thế nào?
Sư nói:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội đạo, vô tâm là đạo.
Hỏi:
- Thế nào tức tâm là Phật?
Sư đáp:
- Nhân tâm ngộ Phật, nhờ Phật rõ tâm. Nếu ngộ vô tâm thì Phật cũng chẳng có.
Hỏi:
- Thế nào vô tâm là đạo?
Sư đáp:
- Đạo vốn vô tâm, vô tâm gọi là đạo. Nếu liễu ngộ vô tâm thì vô tâm tức là đạo.
Quang Đình tin nhận đảnh lễ. Về triều, Đình tâu lên vua đầy đủ việc gặp Sư trong núi. Vua ban sắc sai Quang Đình đi thỉnh Sư.
Ngày 13 tháng chạp Sư đến kinh sư, vua thỉnh Sư ở đình Bạch Liên. Đến ngày rằm tháng giêng năm sau 745, vua triệu tập các bậc thạc học, danh tăng thuộc Lưỡng nhai, phó hội ở nội đạo tràng cùng Sư xiển dương Phật lý.
*
* *
Bấy giờ có thiền sư Viễn cất tiếng hỏi Sư:
- Nay trước thánh thượng để xét lường tông chỉ, cần phải hỏi thẳng đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của thiền sư, lấy gì làm đạo?
Sư đáp:
- Vô tâm là đạo.
Viễn hỏi:
- Đạo do tâm mà có, sao nói vô tâm là đạo được?
Sư đáp:
- Đạo vốn không tên, do tâm mới gọi là đạo. Cái tâm và tên gọi có bao nhiêu thì đạo chơn thật cũng bấy nhiêu, tột cùng tâm đã không (vô) thì nương vào đâu mà lập đạo? Cả hai tên (tâm và đạo) đều hư vọng, đều là giả danh.
Viễn hỏi:
- Thiền sư thấy thân tâm là đạo hay không?
Sư đáp:
- Thân tâm sơn tăng xưa nay là đạo.
Viễn nói:
- Vừa nói vô tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Vô tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm và đạo nhất như nên nói vô tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không đạo tột nguồn cũng chẳng có.
Viễn nói:
- Xem hình tướng thiền sư rất nhỏ, đâu thể hội được lý đó.
Sư nói:
- Đại đức, ngài chỉ thấy tướng sơn tăng, chẳng thấy cái vô tướng của sơn tăng. Thấy tướng, đó là cái thấy của đại đức, Kinh nói “Phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai”. Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn nói:
- Nay thỉnh thiền sư ở trên tướng nói về vô tướng.
Sư nói:
- Kinh Tịnh Danh nói “Tứ đại không chủ tể, thân cũng không ngã, cái thấy không ngã tương ưng với đạo”. Nầy đại đức, nếu cho tứ đại có chủ, đó là có ngã; nếu có ngã kiến cùng kiếp không thể hội đạo.
Viễn công nghe nói thất sắc, thấy chột dạ rút lui.
Sư có bài kệ:
Tứ đại vô chủ phục như thủy,
Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử.
Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm,
Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý.
Xúc cảnh đãn tợ thủy vô tâm,
Tại thế tung hoành hữu hà sự?
四大無主復如水
遇曲逢直無彼此
淨穢兩處不生心
壅決何曾有二意
觸境但似水無心
在世縱橫有何事
Tứ đại không chủ giống như nước,
Dù gặp cong ngay chẳng đây kia.
Hai nơi dơ sạch chẳng sanh tâm,
Thông bít chưa từng ý có hai.
Xúc cảnh vô tâm chỉ như nước,
Tại thế tung hoành có việc chi?
Sư lại nói:
- Một đại như thế, tứ đại cũng vậy. Nếu rõ tứ đại không chủ tể tức là ngộ vô tâm, nếu liễu ngộ vô tâm thì tự nhiên hợp đạo.
*
* *
Lại có thiền sư Chí Minh hỏi:
- Nếu nói vô tâm là đạo thì ngói gạch vô tâm cũng nên là đạo? Lại nói “Thân tâm xưa nay là đạo” thì thập loại tứ sanh đều có thân tâm cũng nên là đạo?
Sư nói:
- Đại đức nếu hiểu bằng kiến văn giác tri thì khác xa với đạo; tức là người cầu kiến văn giác tri chẳng phải là người cầu đạo. Kinh nói “Vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý”. Sáu căn còn không, kiến văn giác tri nương vào đâu mà lập? Cùng tột cội nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Sao chẳng đồng với cỏ cây gạch ngói được?
Chí Minh lăng thinh thối lui.
Sư lại có kệ rằng:
Kiến văn giác tri vô chướng ngại,
Thanh hương vị xúc thường tam muội.
Như điểu không trung chỉ ma phi,
Vô thủ vô xả vô tắng ái.
Nhược hội ứng xứ bổn vô tâm,
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
見聞覺知無障礙
聲香味觸常三昧
如鳥空中只麼飛
無取無捨無憎愛
若會應處本無心
始得名為觀自在
Kiến văn giác tri không chướng ngại,
Thanh hương vị xúc thường tam muội.
Như chim trong không mặc tình bay,
Không thủ không xả không thương ghét.
Nếu hội đối cảnh vốn vô tâm,
Mới được tên là Quán Tự Tại.
*
* *
Lại có thiền sư Chơn hỏi:
- Đạo đã vô tâm, Phật có tâm chăng? Phật với đạo là một là hai?
Sư đáp:
- Chẳng một chẳng khác.
Hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ người vì vô tâm. Một độ một không độ, đâu được không hai?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ chúng sanh, đó là đại đức vọng sanh nhị kiến (thấy có hai). Theo sơn tăng thì không phải vậy. Phật là danh hão, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, tồn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Hỏi:
- Phật với đạo dù là giả danh, đang lúc lập danh thì ai lập đó? Nếu có người lập, sao nói là không được?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhơn tâm mà lập, xét cho cùng cái tâm hay dựng lập, tâm ấy cũng là không. Tâm đã là không thì ngộ cả hai (Phật và đạo) đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ cái vốn không. Gượng lập hai tên Phật đạo, đó là kiến giải của những người nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ vô tu vô tác:
Kiến đạo phương tu đạo,
Bất kiến phục hà tu?
Đạo tánh như hư không,
Hư không hà sở tu?
Biến quan tu đạo giả,
Bác hỏa mịch phù âu.
Đãn khán lộng khối lỗi,
Tuyến đoạn nhất thời hưu.
見道方修道
不見復何修
道性如虛空
虛空何所修
遍觀修道者
撥火覓浮漚
但看弄傀儡
線斷一時休
Thấy đạo mới tu đạo,
Không thấy làm sao tu?
Tánh đạo như hư không,
Hư không tu chỗ nào?
Xem hết người tu đạo,
Vạch lửa tìm bọt nổi.
Xem con rối diễn trò,
Dây đứt liền đó ngưng.
*
* *
Lại có thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo cũng phải chẳng thật, vì sao các bậc tôn túc từ trước đều nói tu đạo?
Sư đáp:
- Đại đức hiểu lầm ý kinh. Đạo vốn không tu mà đại đức ép tu, đạo vốn không tạo tác mà đại đức ép tạo tác, đạo vốn vô sự mà cưỡng sanh đa sự, đạo vốn vô tri mà cưỡng tri trong đó. Kiến giải như thế cùng đạo trái nhau. Các bậc tôn túc từ trước đâu phải như thế, tự đại đức không hội, xin suy gẫm đó.
lavinhcuong
06-26-2015, 07:13 AM
Bài 81.
THIỀN SƯ BỔN TỊNH 本淨
(Tiếp theo)
Sư lại có kệ:
Đạo thể bổn vô tu,
Bất tu tự hợp đạo.
Nhược khởi tu đạo tâm,
Thử nhân bất hội đạo.
Khí khước nhất chơn tánh,
Khước nhập náo hạo hạo.
Hốt phùng tu đạo nhân,
Đệ nhất mạc hướng đạo.
道體本無修
不修自合道
若起修道心
此人不會道
棄却一真性
却入鬧浩浩
忽逢修道人
第一莫向道
Thể đạo vốn không tu,
Chẳng tu tự hợp đạo.
Nếu khởi tâm tu đạo,
Người đó không hội đạo.
Bỏ mất một tánh chơn,
Lại vào ồn bề bộn.
Chợt gặp người tu đạo,
Tốt nhất đừng nói đạo.
*
* *
Lại có thiền sư An hỏi:
- Đạo đã giả danh, Phật đã vọng lập, mười hai phần giáo cũng là để tiếp vật độ sanh. Tất cả là vọng, lấy gì là chơn?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chơn đối vọng. Suy cho cùng tánh của vọng vốn không, nên chơn có bao giờ có đâu? Thế nên biết chơn vọng đều là giả danh, hai việc đối đãi đều không thật thể, suy cho cùng cội gốc chúng thì tất cả đều không (rỗng không).
Hỏi:
- Đã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chơn. Chơn vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói “Không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng như chim bay trong hư không”.
An công thẹn mà phục, chẳng biết nên làm sao.
Sư lại có kệ:
Suy chơn chơn vô tướng,
Cùng vọng vọng vô hình.
Phản quán suy cùng tâm,
Tri tâm diệc giả danh.
Hội đạo diệc như thử,
Đáo đầu diệc chỉ ninh.
推真真無相
窮妄妄無形
返觀推窮心
知心亦假名
會道亦如此
到頭亦只寧
Xét chơn chơn vô tướng,
Tìm vọng vọng vô hình.
Ngó lại tâm mình xem,
Tâm ấy cũng giả danh.
Hội đạo cũng như vậy,
Xưa nay chỉ thế thôi.
*
* *
Lại có thiền sư Đạt Tánh hỏi:
- Thiền là chí vi chí diệu, chơn vọng cả hai đều mất, Phật đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh không danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Đến lúc đạt kiến giải này, cũng đâu thể cắt đứt hai gốc thiện ác của chúng sanh?
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm xét nếu có tâm thì hai gốc cũng thật, xét tâm đã không thì hai gốc nhân đâu mà lập? Kinh nói “Pháp thiện bất thiện từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có”.
Sư lại có kệ:
Thiện ký tòng tâm sanh,
Ác khởi ly tâm hữu?
Thiện ác thị ngoại duyên,
Ư tâm thực bất hữu.
Xả ác tống hà xứ?
Thủ thiện linh thùy thủ?
Thương ta nhị kiến nhân,
Phan duyên lưỡng đầu tẩu.
Nhược ngộ bổn vô tâm,
Thủy hối tòng tiền cữu.
善既從心生
惡豈離心有
善惡是外緣
於心實不有
捨惡送何處
取善令誰守
傷嗟二見人
攀緣兩頭走
若悟本無心
始悔從前咎
Thiện đã từ tâm sanh,
Ác há lìa tâm có?
Thiện ác là duyên ngoài,
Nơi tâm thật chẳng có.
Bỏ ác vứt đi đâu?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Thương thay người nhị kiến,
Bám lấy hai đầu chạy.
Nếu biết tâm vốn không,
Mới hối chuyện đã làm.
*
* *
Lại có quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu đến? Sau khi trăm tuổi lại về đâu?
Sư đáp:
- Như người lúc mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc từ đâu mà đi?
Quan nói:
- Lúc mộng không thể nói là không, thức rồi không thể nói có. Tuy có có không mà không có chỗ đến đi.
Sư nói:
- Thân bần đạo đây cũng như mộng.
Lại có kệ:
Thị sanh như tại mộng,
Mộng lý thật thị náo.
Hốt giác vạn sự hưu,
Hoàn đồng thụy thời ngộ.
Trí giả hội ngộ mộng,
Mê nhân tín mộng náo.
Hội mộng như lưỡng ban,
Nhất ngộ vô biệt ngộ.
Phú quý dữ bần tiện,
Cánh diệc vô biệt lộ.
視生如在夢
夢裏實是鬧
忽覺萬事休
還同睡時悟
智者會悟夢
迷人信夢鬧
會夢如兩般
一悟無別悟
富貴與貧賤
更亦無別路
Cuộc đời như giấc mộng,
Trong mộng thật là ồn.
Chợt tỉnh muôn việc ngừng,
Lại đồng tỉnh giấc ngủ.
Người trí biết tỉnh mộng,
Kẻ mê tin mộng ồn.
Trong mộng không hai thứ,
Một ngộ, không ngộ khác.
Giàu sang và nghèo hèn,
Chung một đường không khác.
Năm Thượng Nguyên thứ hai (761 - Đường Túc Tông), ngày mùng 5 tháng 5 Sư quy tịch. Vua ban thụy hiệu Đại Hiểu Thiền Sư.
hoatihon
06-26-2015, 07:27 AM
Mặc tình gỗ mục.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/mactinhgomuc_zpsd61e3989.jpg
ct-02
06-26-2015, 07:32 AM
Quá hay,trên cả tuyệt vời, ... , hảo hảo!
Đạo thể bổn vô tu,
Bất tu tự hợp Đạo.
Nhưng "Bất tu" thì mãi mãi không thấy "Đạo" .
Nhược khởi tu đạo tâm,
Thử nhân bất hội đạo.
Khí khước nhất chơn tánh.
Nếu khởi tâm tu Đạo, thì không thể hội (thấy và nhập) Đạo, tự quên bỏ đi chơn tánh. Đây có phải là ý của câu "Tu, vô tu tu".
* *
Chơn và vọng đều từ tâm sanh, đúng ra thì vọng từ tâm sanh, nói "chơn" để phá "vọng". "Vọng" đã phá mất rồi thì "chơn" tìm chẳng thấy.
Nói là "phá" vọng "tìm" chơn, chứ thật ra "Tự tánh" vốn rổng rang và mênh mông như hư không, làm gì có chơn vọng, có chơn có vọng như ánh chớp lóe rồi biến mất, trên không trung, người mê phân tích chớp đó màu gì bất đầu từ đâu?
Xã ác tố́ng hà xứ ? Bỏ ác , "bỏ" chổ nào?
Thủ thiện linh thùy thủ? Giử thiện , là "ai" giử?
Mộng lý thật thị náo.
Hốt giác vạn sự hưu,
Trong mộng tưởng trăm ngàn sự việc là thực, tỉnh mộng rồi thì muôn việc chỉ là một giấc mơ.
hoatihon
06-26-2015, 07:56 AM
Như cánh chim bay.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhucanhchimbay_zps4218b625.jpg
hoatihon
06-26-2015, 07:58 AM
Con rối.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/conroi_zps3bb99857.jpg
hoatihon
06-26-2015, 08:00 AM
Bất tăng bất giảm.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/battangbatgiam_zpsf4c69943.jpg
hoatihon
06-26-2015, 08:01 AM
Chơn & Vọng.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/chonvong_zps11b718bb.jpg
hoatihon
06-26-2015, 08:02 AM
Thiện & Ác.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thienac_zps0be263ae.jpg
hoatihon
06-26-2015, 08:03 AM
Đại Mộng.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/daimong_zps0af33953.jpg
lavinhcuong
06-27-2015, 08:18 AM
Bài 82.
16. THIỀN SƯ HUYỀN SÁCH 玄策 Ở VỤ CHÂU.
Người ở Kim Hoa, Vụ Châu. Xuất gia du phương, khi đến Hà Sóc nghe có thiền sư Trí Hoàng 智隍. Hoàng từng tham kiến Ngũ Tổ Hoàng Mai, ở am hai mươi năm tự cho mình đạt chánh thọ.
Sư biết sở đắc Trí Hoàng chưa phải chơn, đến gặp và hỏi:
- Ông ngồi ở đây làm gì?
Hoàng đáp:
- Nhập định.
Sư hỏi:
- Ông nói nhập định mà hữu tâm hay vô tâm ư? Nếu là hữu tâm (nhập định) thì tất cả loài xuẩn động đều phải đắc định, nếu là vô tâm (nhập định) thì tất cả loài thảo mộc cũng nên đắc định.
Nhữ ngôn nhập định,hữu tâm da vô tâm da ? Nhược hữu tâm giả nhất thiết xuẩn động chi loại giai ưng đắc định, nhược vô tâm giả nhất thiết thảo mộc chi lưu diệc hợp đắc định.
汝言入定,有心耶無心耶.若有心者一切 蠢動之類皆應得定,若無心者一切草木 流亦合得定.
Đáp:
- Đang lúc tôi nhập định, chẳng thấy có tâm hữu vô.
Sư nói:
- Đã chẳng thấy có tâm hữu vô tức là thường định, có gì xuất nhập? Nếu có xuất nhập thì chẳng phải đại định.
Hoàng không nói, hồi lâu mới hỏi Sư nối pháp ai.
Sư đáp:
- Thầy tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.
Hỏi:
- Lục Tổ lấy gì làm thiền định?
Sư đáp:
- Thầy tôi nói “Diệu trạm viên tịch thể dụng như như, ngũ ấm vốn rỗng không sáu trần chẳng phải có, không xuất không nhập không định không loạn, tánh thiền vô trụ lìa trụ thiền tịch, tánh thiền vô sanh lìa sanh thiền tưởng. Tâm như hư không cũng không có cái biết về hư không".
Ngã sư vân : Phù diệu trạm viên tịch thể dụng như như, ngũ âm bản không lục trần phi hữu, bất xuất bất nhập bất định bất loạn, thiền tính vô trụ li trụ thiền tịch, thiền tính vô sinh li sinh thiền tưởng. Tâm như hư không diệc vô hư không chi lượng.
我師云:夫妙湛圓寂體用如如,五陰本空 六塵非有,不出不入不定不亂,禪性無住 離住禪寂,禪性無生離生禪想.心如虛空 亦無虛空之量.
Trí Hoàng nghe lời nói này, bèn bắt đầu đến Tào Khê xin giải quyết lớp nghi. Nhưng ý Tổ và ý Sư rất phù hợp, Hoàng mới khai ngộ.
Về sau, Sư lại trở về Kim Hoa, mở rộng pháp tịch.
lavinhcuong
06-27-2015, 08:20 AM
Bài 83
17. THIỀN SƯ LINH THAO 令韜 Ở TÀO KHÊ.
Người ở Kiết Châu, họ Trương. Theo Lục Tổ xuất gia, ở bên Tổ chưa từng gián đoạn, khi Tổ quy tịch mới làm tháp chủ trông coi y bát.
Năm Đường Khai Nguyên thứ tư 716, vua Đường Huyền Tông nghe đồn đức hạnh, ban chiếu mời Sư đến cửa khuyết, Sư cáo bệnh đi không nổi.
Năm Thượng Nguyên nguyên niên 760, vua Đường Túc Tông sai sứ rước y truyền pháp vào cung cúng dường, vì thế sắc ban Sư đi theo y vào triều. Sư cũng lấy cớ bệnh để từ chối.
Sư tịch ở bổn sơn (chùa Nam Hoa Thiều Châu), thọ 95 tuổi.
Sắc ban thụy hiệu là Đại Hiểu Thiền Sư.
lavinhcuong
06-27-2015, 08:26 AM
Bài 84.
18. QUỐC SƯ HUỆ TRUNG 慧忠 CHÙA QUANG TRẠCH, TÂY KINH.
Người huyện Chư Ký, Việt Châu (Chiết Giang), họ Nhiễm. Từ khi thọ tâm ấn nơi Lục Tổ, Sư ở cốc Đảng Tử, núi Bạch Nhai, huyện Nam Dương (Hà Nam) trên 40 năm không xuống núi. Đạo hạnh được đồn xa đến tai vua.
Năm Thượng Nguyên thứ hai 761, vua Đường Túc Tông sắc lệnh quan trung sứ Tôn Triều Tấn mang chiếu đi mời Sư đến kinh đô. Vua đãi Sư theo lễ thầy trò. Ban đầu Sư ở viện Tây Thiền chùa Thiên Phước, đến triều vua Đại Tông cai trị lại đón Sư đến ở chùa Quang Trạch. Mười sáu năm, Sư tùy cơ duyên thuyết pháp.
Bấy giờ có Đại Nhĩ Tam Tạng ở Tây Thiên, đến kinh đô nói rằng ông được tha tâm thông và huệ nhãn. Vua ban lệnh cho quốc sư xét nghiệm; Tam Tạng vừa gặp Sư liền lễ bái rồi đứng bên hữu Sư. Sư hỏi:
- Ông được tha tâm thông chăng?
Đáp:
- Chẳng dám.
Sư hỏi:
- Ông nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Đáp:
- Hòa thượng là thầy cả nước, sao được đến Tây Xuyên xem đua thuyền bơi?
Sư lại hỏi:
- Ông nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Đáp:
- Hòa thượng là thầy cả nước, sao được ở trên cầu Thiên Tân xem khỉ làm trò?
Lần thứ ba, Sư cũng hỏi y như trước, Tam Tạng yên lặng một hồi lâu mà không biết chỗ đi.
Sư nạt:
- Dã hồ tinh này! Tha tâm thông ở đâu?
Tam Tạng lặng thinh.
* Có vị Tăng hỏi Ngưỡng Sơn:
- Lần thứ ba tại sao Đại Nhĩ Tam Tạng không thấy Quốc sư?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Hai lần đầu tâm (Quốc sư) có quan hệ với cảnh, lần cuối (tâm Quốc sư) nhập tam muội tự thọ dụng cho nên (Tam Tạng) không thấy.
* Lại có tăng nêu tiền ngữ hỏi Huyền Sa. Huyền Sa đáp:
- Ông nói xem, hai lần đầu (Tam Tạng) có thấy (Quốc sư) không?
* Huyền Giác hỏi:
- Hai lần đầu (Tam Tạng) thấy như thế, sau đó tại sao không thấy? Hãy nói xem, lợi hại ở chỗ nào?
* Có vị Tăng hỏi Triệu Châu:
- Lần thứ ba Đại Nhĩ Tam Tạng không thấy Quốc sư, chưa biết Quốc sư ở đâu?
Triệu Châu đáp:
- Ở trên cái lỗ mũi của Tam Tạng.
* Tăng hỏi Huyền Sa:
- Đã ở trên cái lỗ mũi, tại sao (Tam Tạng) không thấy?
Huyền Sa đáp:
- Chỉ vì quá gần.
------------
Một hôm Sư gọi thị giả, thị giả ứng dạ. Gọi như thế ba lần thị giả đều dạ ba lần. Sư nói:
- Tưởng là ta cô phụ ngươi, chính là ngươi cô phụ ta.
* Tăng hỏi Huyền Sa:
- Quốc sư gọi thị giả, ý đó thế nào?
Huyền Sa đáp:
- Chính là thị giả hội.
* Ngài Vân Cư Tích nói:
- Hãy nói xem thị giả hội hay chẳng hội? Nếu nói hội thì sao Quốc sư nói “Ngươi cô phụ ta”, nếu nói không hội thì sao Huyền Sa nói “Chính thị giả hội”. Vả làm sao thương lượng?
* Huyền Giác đem hỏi vị Tăng:
- Đâu là chỗ thị giả hội?
Tăng đáp:
- Nếu không hội đâu biết dạ như thế.
Huyền Giác nói:
- Ông hội chút đấy!
Giác lại nói:
- Nếu trong đây thương lượng được thì thấy Huyền Sa.
* Tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Quốc sư gọi thị giả, ý thế nào?
Pháp Nhãn bảo:
- Hãy đi, khi khác đến.
* Vân Cư Tích hỏi:
- Pháp Nhãn nói như thế, làm rõ ý Quốc sư hay không làm rõ ý Quốc sư?
* Tăng hỏi Triệu Châu:
- Quốc sư gọi thị giả, ý thế nào?
Triệu Châu đáp:
- Như người viết chữ ở trong chỗ tối, tuy chữ không thành mà văn thái đã rõ ràng.
lavinhcuong
06-27-2015, 08:28 AM
Nam Tuyền đến tham vấn. Sư hỏi:
- Từ đâu đến?
Đáp:
- Từ Giang Tây đến.
Sư hỏi:
- Có đem được cái chơn tướng của Mã Đại sư đến không?
Đáp:
- Chỉ đây nè.
Sư nói:
- Đằng sau lưng.
Nam Tuyền bèn thôi.
[Trường Khánh Huệ Lăng nói: “Giống hệt như không biết nhau”. Bảo Phước triển khai: “Trong đó, (Nam Tuyền) hầu như không đến Hòa thượng”. Vân Cư Tích nói: “Hai vị tôn giả này hết sức đỡ đằng sau lưng, cũng như Nam Tuyền thôi vì phải đỡ trước mặt và đỡ sau lưng]
------------
Ma Cốc đến tham kiến, đi nhiễu giường thiền ba vòng rồi chống tích trượng mà đứng trước mặt Sư. Sư bảo:
- Đã như thế cần gì đến gặp bần đạo?
Ma Cốc lại chống tích trượng. Sư nạt:
- Dã hồ tinh này! Đi đi.
------------
Sư thượng đường dạy chúng: Người học thiền tông nên tuân lời Phật dạy về Nhất thừa Liễu nghĩa mà khế hợp nguồn tâm mình, lời dạy bất liễu nghĩa chẳng hứa cùng nhau. Như loài trùng trong thân sư tử, khi vì người làm thầy nếu dính mắc lợi danh, riêng bày điều dị đoan thì mình và người có ích lợi gì? Như người thợ mộc giỏi của thế gian, búa rìu không đứt tay họ; sức con hương tượng mang, con lừa không thể kham nổi.
---------
Có vị tăng hỏi:
- Làm sao được thành Phật?
Sư đáp:
- Phật và chúng sanh đồng thời quẳng đi, ngay đó giải thoát.
Hỏi:
- Làm thế nào được tương ưng?
Sư đáp:
- Thiện ác chớ nghĩ tự thấy Phật tánh.
Hỏi:
- Làm sao chứng được Pháp thân?
Sư đáp:
- Vượt cảnh giới Tỳ lô.
Hỏi:
- Làm sao được Pháp thân thanh tịnh?
Sư đáp:
- Không chấp Phật để cầu.
Hỏi:
- Ai là Phật?
Sư đáp:
- Tức tâm là Phật.
Hỏi:
- Tâm có phiền não không?
Sư đáp:
- Tánh, phiền não tự lìa.
Hỏi:
- Đâu chẳng đoạn trừ ư?
Sư đáp:
- Đoạn trừ phiền não gọi là Nhị thừa. Phiền não không sanh gọi là Đại Niết bàn.
Hỏi:
- Ngồi thiền quán tịnh, việc đó như thế nào?
Sư đáp:
- Chẳng dơ chẳng sạch, đâu cần khởi tâm mà quán tướng tịnh?
Lại hỏi:
- Thiền sư thấy mười phương hư không là pháp thân chăng?
Sư đáp:
- Dùng cái tâm tưởng mà nhận, đó là cái thấy điên đảo.
Hỏi:
- Tức tâm là Phật, nên tu thêm vạn hạnh chăng?
Sư đáp:
- Chư Thánh đều đủ hai thứ trang nghiêm (phước huệ), đâu có phế bỏ "không nhân quả" ư?
Sư lại nói:
- Nay tôi đáp những câu hỏi của ông đến cùng kiếp không hết, nói nhiều cách đạo càng xa. Thế nên nói “Thuyết pháp có sở đắc, đó là dã can kêu; thuyết pháp không sở đắc, đó gọi là sư tử rống”.
-----------
Có hành giả tên Trương Phần ở Nam Dương, đến hỏi:
- Được nghe Hòa thượng nói “Vô tình thuyết pháp”, con chưa hiểu rõ việc đó. Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy;
Sư nói:
- Nếu ông hỏi vô tình thuyết pháp, ông hiểu cái vô tình kia mới được nghe tôi thuyết pháp. Ông chỉ cần nghe được vô tình thuyết pháp đi.
Phần thưa:
- Chỉ tóm tắt ngay bây giờ, trong phương tiện hữu tình. Thế nào là nhân duyên của vô tình?
Sư đáp:
- Ngay bây giờ trong tất cả động dụng chỉ cần hai dòng phàm thánh đều không có chút phần khởi diệt, đó là ra khỏi thức chẳng thuộc về có không. Rõ ràng thấy giác, chỉ có nghe, không có tình thức kia ràng buộc. Thế nên Lục Tổ nói “Sáu căn đối cảnh, phân biệt mà không phải thức”.
-------------
Có vị tăng đến tham lễ. Sư hỏi:
- Ông chứa đựng sự nghiệp gì?
Đáp:
- Giảng Kinh Kim Cang.
Sư hỏi:
- Hai chữ trước nhất là gì?
Đáp:
- Như thị.
Sư hỏi:
- Là gì?
Tăng không đáp được.
---------
Có người hỏi:
- Thế nào là giải thoát?
Sư đáp:
- Các pháp không đến với nhau, ngay đó giải thoát.
Hỏi:
- Làm sao đoạn được?
Sư nói:
- Đã nói với ông các pháp không đến với nhau, đoạn cái gì?
-------------
Sư thấy vị tăng đến, dùng tay vẽ một tướng tròn O , viết chữ “nhật” 日 trong tướng đó.
Tăng không đáp được.
----------
Sư hỏi thiền sư Bổn Tịnh:
- Ông về sau hiện ra lời nói kỳ đặc biết bao!
Tịnh đáp:
- Không có một niệm tâm ái.
Sư nói:
- Đó là việc trong nhà ông.
-------------
Vua Túc Tông hỏi:
- Thầy được pháp gì?
Sư hỏi:
- Bệ hạ thấy một mảnh mây trong không trung chăng?
Vua đáp:
- Thấy.
Sư hỏi:
- Do đóng đinh mắc hay cột dây mắc?
Vua lại hỏi:
- Thế nào là mười thân điều ngự?
Sư bèn đứng dậy, rồi hỏi:
- Hội chăng?
Đáp:
- Chẳng hội.
Sư bảo:
- Mang cái tịnh bình đến cho lão tăng.
Lại hỏi:
- Thế nào là Vô tránh Tam muội?
Sư đáp:
- Đàn việt đạp trên đỉnh Tỳ lô mà đi.
Hỏi:
- Ý đó thế nào?
Sư đáp:
- Thanh tịnh Pháp thân, chớ nhận thân này.
Vua lại hỏi Sư nữa, Sư đều không nhìn vua. Vua nói:
- Trẫm là thiên tử nước Đại Đường, tại sao thầy tuyệt nhiên không nhìn tới?
Sư hỏi:
- Bệ hạ thấy hư không chăng?
Đáp:
- Thấy.
Sư hỏi:
- Đó có chớp mắt nhìn bệ hạ không?
-------------
Ngư Quân Dung hỏi:
- Lúc ở núi Bạch Nhai, trong 12 giờ (suốt ngày) thầy tu đạo thế nào?
Sư gọi một đồng tử đến, vò đầu nó, bảo:
- Tỉnh tỉnh ngay đó tỉnh tỉnh, rõ ràng ngay đó rõ ràng. Về sau chớ bị người lừa.
------------
Sư cùng với Cung phụng Tử Lân luận nghĩa. Sư thăng tòa rồi, Cung phụng nói:
- Mời thầy lập nghĩa, con phá.
Sư bảo:
- Lập nghĩa rồi.
Cung phụng hỏi:
- Đó là nghĩa gì?
Sư nói:
- Đúng là không thấy, chẳng phải cảnh giới ông.
Liền hạ tòa.
Một hôm Sư hỏi Cung phụng Tử Lân:
- Phật là nghĩa gì?
Đáp:
- Là nghĩa Giác.
Hỏi:
- Phật có từng mê không?
Đáp:
- Chưa từng mê.
Sư nói:
- Dùng Giác làm gì?
Cung phụng không đáp được, lại hỏi:
- Thế nào là thật tướng?
Sư bảo:
- Đem cái hư không đến đây.
Đáp:
- Hư không không thể nắm bắt được (bất khả đắc).
Sư nói:
-Hư không còn không thể nắm bắt được, hỏi thật tướng làm gì?
------------
Tăng hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư đáp:
- Hàng vạn Bồ tát ở trong điện Văn Thù.
Tăng nói:
- Học nhân chẳng hội.
Sư nói:
- Đại bi ngàn tay mắt.
-----------
Đam Nguyên hỏi:
- Trăm năm sau có người hỏi việc cực tắc, phải làm sao?
Sư đáp:
- Mong mạng sống mình đáng yêu, cần cái lá bùa hộ thân để làm gì?
-----------
Vì duyên giáo hóa sắp mãn, giờ Niết bàn sắp đến. Sư bèn từ giã vua Đại Tông trở về núi. Đại Tông hỏi:
- Sau khi thầy diệt độ, đệ tử sẽ làm gì để ghi nhớ?
Sư đáp:
- Bảo đàn việt tạo nên một ngôi tháp vô phùng.
Vua thưa:
- Xin chọn lấy kiểu tháp theo ý thầy.
Sư yên lặng hồi lâu, hỏi:
- Hội chăng?
Đáp:
- Không hội.
Sư nói:
- Bần đạo đi rồi, có thị giả Ứng Chơn lại biết việc này.
Năm Đại Lịch thứ mười 775, ngày mùng chín tháng chạp, Sư nằm nghiêng bên hữu thị tịch. Đệ tử kính đưa linh nghi đến cốc Đảng Tử xây tháp thờ.
Vua ban thụy hiệu là Đại Chứng Thiền Sư.
Về sau, vua Đại Tông ban chiếu mời Ứng Chơn nhập nội, nêu hỏi tiền ngữ. Ứng Chơn yên lặng hồi lâu, hỏi:
- Thánh thượng hội chăng?
Đáp:
- Không hội.
Chơn làm bài kệ:
Tương chi Nam đàm chi Bắc,
Trung hữu hồng kim sung nhất quốc,
Vô ảnh thọ hạ hợp đồng thuyền,
Lưu ly điện thượng vô tri thức.
(Phía Nam sông Tương, phía Bắc đầm,
Trong có vàng ròng đầy cả nước,
Dưới cây vô ảnh thuyền hợp đồng,
Trên điện lưu ly không tri thức).
Về sau Ứng Chơn trụ ở núi Đam Nguyên.
lavinhcuong
06-27-2015, 08:39 AM
Bài 85.
19. THIỀN SƯ THẦN HỘI 神會 CHÙA HÀ TRẠCH, TÂY KINH.
Người Tương Dương, họ Cao. Năm 14 tuổi làm sa di, đến yết kiến Lục Tổ. Tổ hỏi:
- Tri thức từ phương xa quá vất vả đến đây, có gốc không? Nếu có gốc thì phải biết chủ. Thử nói xem?
知識遠來大艱辛將本來否? 若有本則合識主, 試說看?
Sư đáp:
- Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.
以無住為本, 見即是主
Tổ nói:
- Sa di này, đâu nên dùng lời cũ lặp lại.
Rồi Tổ lấy gậy đánh. Lúc ăn gậy, Sư suy nghĩ “Đại thiện tri thức trải qua nhiều kiếp khó gặp. Nay đã được gặp, há tiếc thân mạng này”. Từ đó Sư làm thị giả.
Một hôm Tổ bảo chúng:
- Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không tự, không lưng không mặt. Các người biết chăng?
Sư bước ra thưa:
- Đó là bổn nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.
Tổ nói:
- Đã nói với ông là không tên không tự, ông còn gọi là bổn nguyên là Phật tánh.
Sư lễ bái rồi lui. Chẳng bao lâu Sư đi Tây Kinh thọ cụ túc giới. Trong những năm Đường Cảnh Long (707 – 710, vua Trung Tông), Sư lại về Tào Khê. Khoảng 20 năm sau khi Tổ nhập diệt, ý chỉ đốn ngộ của Tào Khê bị lãng quên ở Kinh, Ngô; tiệm môn của Tung Nhạc thạnh hành ở Tần, Lạc. Sư vào kinh (Đông Kinh, Lạc Dương).
Năm Thiên Bảo thứ tư (745 –Đường Huyền Tông), còn phân định hai tông (Nam Năng tông đốn, Bắc Tú giáo tiệm), Sư trước tác Hiển Tông Ký thạnh hành ở đời.
Một hôm có tin từ quê nhà đến báo hai thân mất. Sư vào chánh điện bạch chùy, báo chúng:
- Cha mẹ đều mất, mời đại chúng tụng Ma ha Bát nhã.
Chúng vừa tụ tập, Sư đả chùy bảo:
- Phiền nhọc đại chúng.
Vào năm Đường Thượng Nguyên nguyên niên (760 – Đường Túc Tông), ngày 13 tháng 5 vào nửa đêm Sư lặng lẽ mà hóa. Tuổi thọ 75 (Có chỗ ghi năm sanh của Sư là 668, năm tịch 760. Sư thọ 93 tuổi.). Năm thứ hai 761, xây tháp thờ ở Long Môn, Lạc Kinh. Ở tháp Sư vua Túc Tông sắc ban xây chùa Bảo Ứng.
Năm Đường Đại Lịch thứ năm (770 – Đường Đại Tông), vua ban hiệu Chơn Tông Bát Nhã Truyền Pháp Chi Đường. Năm thứ bảy 772, lại ban hiệu Bát Nhã Đại Sư Chi Tháp.
*
* *
Có vị tăng nêu bài kệ của thiền sư NGỌA LUÂN. Kệ rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ đề nhật nhật trưởng.
臥輪有伎倆
能斷百思想
對境心不起
菩提日日長
Ngọa Luân có tài khéo,
Hay dứt hết tư tưởng.
Gặp chuyện tâm không sanh,
Bồ đề lớn mỗi ngày.
Lục Tổ Đại sư nghe qua, nói:
- Bài kệ đó chưa sáng tâm địa. Nếu y theo đó tu hành, chỉ tăng thêm sự ràng buộc.
Nhân đó, Đại sư dạy một bài kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm sác khởi,
Bồ đề tác ma trưởng?
慧能沒伎倆
不斷百思想
對境心數起
菩提作麼長
Huệ Năng không tài khéo,
Chẳng đoạn hết tư tưởng.
Gặp chuyện tâm cứ khởi,
Bồ đề làm sao lớn ?
(Hai bài kệ trên được các nơi nêu nhiều nên phụ lục vào cuối quyển. Ngọa Luân đây chẳng phải tên người mà là địa danh _ chỗ ở).
HẾT QUYỂN V
hoatihon
06-27-2015, 08:42 AM
"Tro lạnh cây khô".
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngoaluan_zpsf5f430e5.jpg
hoatihon
06-27-2015, 08:43 AM
Bất tuyệt.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/battuyet2_zpsf5c17e5d.jpg
Vô danh
06-27-2015, 09:04 AM
"Tro lạnh cây khô".
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngoaluan_zpsf5f430e5.jpg
Kính chào bác hoatihon!
Vodanh có ý thế này, chuyện thiền ta có thể đọc có thể bình, chớ có họa theo, có hại cho người đi sau. Bởi ý thiền ta chỉ hiểu chút chút trong đó, ta chỉ nên dùng 1 chiều. Tức dùng chiều đến, từ câu chuyện thiền rồi đến cái hiểu cái thấy của mình. Chớ có dùng chiều ngược lại (chiều đi), tức là từ cái ý của mình mà áp vào câu chuyện, và hiểu câu chuyện theo ý chủ quan của mình, tức lén ngồi bên tổ.
Để rõ hơn vodanh diển lại như thế này:
-Khi hoatihon đọc câu chuyện thiền, sinh ra tác ý, có cái thấy cuả mình. (chiều đến, tức ý từ câu chuyện đến với hoatihon).
-Khi hoatihon họa (tức có 1 phần ý nghĩa là dịch lại), tức hoatihon đã đem cái ý (riêng) của mình vào trong câu chuyện (chiều đi, mang ý của mình đi ra và vào câu chuyện). Xong rồi hoatihon lại hiểu câu chuyện theo hình hài mới này.
Diển tả 1 cách khác là khi hoatihon họa lại thì: ngoài lần đọc đầu tiên, từ nay về sau hoatihon chỉ còn quyền đọc bản sao (do chính mình sao), không còn quyền đọc bản gốc, vậy thì càng đọc càng ngẫm càng xa ý chân thật.
Bài họa của hotihon đã đi quá xa ý câu chuyện:
Thương đời tăm tối bất an
Tìm phương độ thoát đâu màng toà sen.
Cái đạo của Lục Tổ đang nói là vô thượng bồ đề, nào có thương ghét ở đây, nào có phân sáng tối, an hay bất an, nào có nắm giử hay thoát, đâu có muốn hay không mốn mà có màng, đâu có hình tướng mà có tòa sen?
Cũng ý này mà ta đọc của phật Thích Ca Mâu Ni nó dể dàng hơn: Phật nói ta học cái ''không có suy nghĩ khi đối cảnh", và thấy nó không đưa đến chổ giải thoát, vì nếu không có suy nghĩ là đạo thì cây cỏ gổ đá đã đạt đạo. Mà pháp môn này gò ép tư tưởng con người mà được, nên nó không thể là mục đích giải thoát. Có câu chuyện tương tự nhưng phù hợp với hoatihon hơn:
Thầy hỏi: Tâm như đài gương sáng, vậy gương sáng mọi vật như thế nào?
Trò trả lời: Mọi vật đều sáng tỏ.
Thầy hỏi: Khi gương bị bụi phủ thì như thế nào?
Trò: Mọi vật đều bị che mờ.
Thầy đập 1 gậy lên đầu trò và hỏi : Khi gương bị bụi phủ thì mọi vật như thế nào?
Trò: Mọi vật vẩn còn đó.
Vậy ý tổ là: bồ đề tự nó đó, việc không khởi ý hay không khởi ý (như lau bụi trên gương hay không lau bụi trên gương) thì có ảnh hưởng gì đến thực tại xung quanh, ảnh hưởng gì đến bồ đề. Bồ đề là gì? Bồ đề là thực tại tối hậu, thực tại chân thật (nguyên bản), nào phải hình trong gương (thứ cấp- bản sao). Cái ý nghỉ của ta là thứ cấp (bản sao) của hiện thực, con mắt ta nhìn xung quanh tức ta chụp hình xung quanh, cái tai ta nghe việc xung quanh như cái máy thu âm (ta chỉ nghe được cái ta có thể nghe, ví như ta không thể nghe được âm thanh siêu âm của con dơi đang bay, và chấp là không có âm nào, tức cho là yên lặng, nhưng con dơi nó nghe ồn ào).
Vậy từ thực tại là bản gốc, khi mắt ta nhìn là bản sao thứ nhất, khi có ý tức ta khởi ý suy nghĩ đã là bản sao thứ 2, khi ta hồi tưởng là bản sao thứ 3....Cứ thế nên con người ngày càng xa thực tại.
Có câu chuyên vodanh trực tiếp chứng kiến:
Đứa em con ông chú của vodanh tính nghịch ngợm. lấy đất sét nặn ra hình cục phân người, lại đính thềm đậu phụng rang dả nát nên giống y hệt, và đặt dưới bàn uống nước. Đã có ba người sau khi thấy cục phân này chạy ra ngoài ói mửa và miệng kêu lên thối quá thối quá. Đây là một thực nghiệm làm vodanh thấy rõ cái hư huyễn của tâm thức. Đậu phụng rang mà thối đến ói mửa (thực ra là chưa đến mức ói mửa nhưng khạc nhổ bóp họng từa lưa).
Từ việc này nên vodanh luôn muốn tìm bản gốc và tránh bản sao, nhất là bản sao do chính mình tạo ra.
Kính chia xẻ cùng bác.
Thanh Trúc
06-27-2015, 09:11 AM
Kính chào bác hoatihon!
.......
.......
Từ việc này nên vodanh luôn muốn tìm bản gốc và tránh bản sao, nhất là bản sao do chính mình tạo ra.
Kính chia xẻ cùng bác.
Kính anh vodanh !
Em thấy ở đây đã có bản gốc chữ Hán, lại có bản gốc chữ Hán Việt, cũng có luôn bản dịch dành cho những người ít học như em, nếu đọc bản gốc thì em như "cóc xem tranh" nào có hiểu gì đâu.
Em thấy như người nướng bánh tráng, họ trở qua rồi trở lại, trở lại rồi trở qua, nhiều lần như vậy thì bánh mới chín đều. Một trăm người nướng bánh tráng đều như vậy cả, mục đích chỉ là muốn bánh chín đều thôi, chứ người nướng bánh không hề có ý làm xiếc, không hề có ý tập thể dục hai cánh tay.
Anh thích bản gốc thì cứ xem bản gốc, em không hiểu bản gốc thì xem bản sao, nếu thấy bản sao này còn tối nghĩa thì em xem bản sao khác, chỉ sợ không có bản sao khác, chỉ sợ những bản sao (bản dịch) nói khác nghĩa bản chính, thì thật là di hoạ cho hậu thế.
Kính góp ý !
Vô danh
06-27-2015, 09:15 AM
Kính anh vodanh !
Em thấy ở đây đã có bản gốc chữ Hán, lại có bản gốc chữ Hán Việt, cũng có luôn bản dịch dành cho những người ít học như em, nếu đọc bản gốc thì em như "cóc xem tranh" nào có hiểu gì đâu.
Em thấy như người nướng bánh tráng, họ trở qua rồi trở lại, trở lại rồi trở qua, nhiều lần như vậy thì bánh mới chín đều. Một trăm người nướng bánh tráng đều như vậy cả, mục đích chỉ là muốn bánh chín đều thôi, chứ người nướng bánh không hề có ý làm xiếc, không hề có ý tập thể dục hai cánh tay.
Anh thích bản gốc thì cứ xem bản gốc, em không hiểu bản gốc thì xem bản sao, nếu thấy bản sao này còn tối nghĩa thì em xem bản sao khác, chỉ sợ không có bản sao khác, chỉ sợ những bản sao (bản dịch) nói khác nghĩa bản chính, thì thật là di hoạ cho hậu thế.
Kính góp ý !
Vâng! Lời Thanh Trúc nói rất đúng.
Rất cảm ơn sự nhã nhặn của Thanh Trúc, dù ý kiến khác nhau nhưng vẩn giử tâm bình. Vậy thì dể trò chuyện với nhau lắm.
Ở đây Thanh Trúc hiểu lệch ý củ tôi. Cái "bản gốc" mà vodanh nói là cái thực tại tối hậu, là cái thực đang diển ra của thế giới quanh ta. Ta thường có ảo tưởng rằng ta biết hết, biết thật. Nhưng chẳng phải vậy. Ví như khi Thanh Trúc đứng trước sân nhà mình, cái thực tại, sự tồn tại của vạn vật, sự vận hành của vạn vật ngay lúc đó tại sân nhà Thanh Túc là nguyên bản, là bản gốc của sự thật. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống vạn vật trước sân nhà Thanh Trúc, ánh sáng sẽ phản xạ vào mắt Thanh Trúc, ánh sáng chiếu vào võng mạc, võng mạc cảm thụ ánh sáng và chuyển thành tín hiệu xung thần kinh truyền
lên não. Đó là bản sao thứ 1. Nó không thể chứa đầy đủ thông tin như bản gốc, vì bản thân võng mạc chỉ cảm thụ được một biên độ tần số ánh sáng, ngoài biên độ này võng mạc không cảm thụ tức ta không thấy....và nhiều lí do nữa.
Vậy ngay khi mắt Thanh Trúc Thấy cái sân mình thì nó đã là 1 bản sao.
Thứ nữa, khi tín hiệu xung thần kinh truyền lên não, trước khi lưu vào bộ nhớ tạm, nó đã được xử lí, bởi nếu bạn yêu hoa bạn sẽ thấy hoa trong sân, nếu bạn thích côn trùng bạn sẽ thấy bướm vàng đang lượn...cái thích, cái yêu ghét đã xâm nhập vào, vậy khi cái sân vườn vào đến bộ nhớ tạm là bản sao thứ 2....cứ thế khi lưu vào bộ nhớ sâu hơn là bản sao thứ 3...khi hồi tưởng lại thì theo cái yêu ghét, cái quan điểm cá nhân ngay tại lúc hồi tưởng mà bản sao lại được sửa chữa trước khi lưu lại.
Vậy nên khi vodanh nói thích bản gốc là bản gốc của nhận thức, cái trực giác, cái nhận thức trực tiếp trước khi trí năng kịp can dự tô vẽ vào. Khi làm được điều này, hành giả có khả năng đạt vô ngã.
Trở lại việc đọc bài kệ của Tổ.
Vodanh nào nói bản gốc là bản tiếng Hán?
Bản gốc thực sự nằm trong đầu Huệ Năng, chẳng nằm ở bài kệ tiếng Hán.
Bài kệ tiếng Hán bản thân là bản sao, tạm gọi là thứ 1.
Khi người dịch đọc, tùy theo sự thấu suốt mà làm ra bản tiếng Việt.
Tạm gọi bản tiếng Việt là bản sao thứ 2.
Với bản gốc, bản sao thứ 1, vodanh chẳng thể với tới được.
Bản gốc thì dĩ nhiên rồi, với bản sao thứ 1 thì vodanh không biết tiếng Hán nên đành chịu vậy.
Cái không biết thì không đọc không bàn, vodanh chẳng quan tâm bản sao thứ 1, đọc và bàn ở đây chỉ làm rối thêm.
Vodanh lấy bản tiếng Việt làm "bản gốc" của mình (tạm gọi là bản gốc A) và trao niềm tin cho người dịch (tất nhiên là người dịch phải là người đáng tin cậy). Mọi việc nói- nghĩ -bàn đều bắt đầu từ đây, từ bản gốc A, chớ bắt đầu từ 1 bản thứ cấp nào nữa, nhất là 1 bản thứ cấp do mình tạo ra.
Vodanh có ý kiến với bác hoatihon, vì bác hay họa theo bài kệ các tổ, điều này vô tình sẽ tạo ra các bản thứ cấp sau bản gốc A. Khi cài bản thứ cấp này được tạo ra, người tạo ra nó ko còn đu7o5c tiếp xúc với bản gốc A nữa.
Bản gốc A là bản do một vị có thực học, đã được nhiều vị thiện tri thức công nhận, vì vậy nó đáng tin hơn cái bản thứ cấp do chính ta vô tình tạo ra.
Cái vô tình tạo ra bản thứ cấp sau bản gốc A, là một việc tự lừa dối mình, lén ngồi bên chư tổ.
Vậy việc tán thán chư Tổ bằng cách dùng hết khả năng, dùng hết các phương pháp để đến gần cái bản gốc trong đầu chư Tổ, hoặc tiến gần đến cái bản trong đầu người dịch, bởi người dịch dù không bằng chư Tổ nhưng cũng là một thiện tri thức đáng cho ta học tập. Chớ chọn cái bản dở nhất là cái bản do vọng tưởng ta tạo ra. (Ý vodanh là như vậy)
Kính!
Ngọc Quế
06-27-2015, 11:08 AM
Vâng! Lời Thanh Trúc nói rất đúng.
Rất cảm ơn sự nhã nhặn của Thanh Trúc, dù ý kiến khác nhau nhưng vẩn giử tâm bình. Vậy thì dể trò chuyện với nhau lắm.
Ở đây Thanh Trúc hiểu lệch ý củ tôi. Cái "bản gốc" mà vodanh nói là cái thực tại tối hậu, là cái thực đang diển ra của thế giới quanh ta. Ta thường có ảo tưởng rằng ta biết hết, biết thật. Nhưng chẳng phải vậy. Ví như khi Thanh Trúc đứng trước sân nhà mình, cái thực tại, sự tồn tại của vạn vật, sự vận hành của vạn vật ngay lúc đó tại sân nhà Thanh Túc là nguyên bản, là bản gốc của sự thật.
Chào vodanh ! Cho phép Ngọc Quế có ý kiến chỗ này nhé !
Sao vodanh không nêu nghi vấn "Cảnh vật, sự kiện nguyên bản trước mắt chúng ta liệu có thật hay không, hay chỉ là cảnh trong mơ ?" Nếu là cảnh trong mơ thì gốc của nó là cái gì ?
Trở lại việc đọc bài kệ của Tổ.
Vodanh nào nói bản gốc là bản tiếng Hán?
Bản gốc thực sự nằm trong đầu Huệ Năng, chẳng nằm ở bài kệ tiếng Hán.
Hình như vodanh không quan tâm đến nghĩa mà Tổ muốn nói ? (mà chỉ quan tâm đến những "bản sao này, bản sao nọ")
Mến !
socnho
06-28-2015, 09:38 AM
Kính bác Ngọc Quế !
Hình như vodanh không quan tâm đến nghĩa mà Tổ muốn nói ? (mà chỉ quan tâm đến những "bản sao này, bản sao nọ")
Mến !
Như con quan tâm thì cũng "mù tịt", con không hiểu "nghĩa mà Tổ muốn nói" là gì ?, xin bác giải thích thêm.
Từ việc này nên vodanh luôn muốn tìm bản gốc và tránh bản sao, nhất là bản sao do chính mình tạo ra.
Kính chia xẻ cùng bác.
Con thấy anh Vô danh muốn tìm "bản gốc" cũng tức là "nghĩa mà Tổ muốn nói", như thế có gì sai ?
Kính !
Ngọc Quế
06-29-2015, 04:45 PM
Kính bác Ngọc Quế !
Như con quan tâm thì cũng "mù tịt", con không hiểu "nghĩa mà Tổ muốn nói" là gì ?, xin bác giải thích thêm.
Con thấy anh Vô danh muốn tìm "bản gốc" cũng tức là "nghĩa mà Tổ muốn nói", như thế có gì sai ?
Kính !
Chào socnho !
socnho hãy đọc lại bài kệ của Ngoạ Luân Thiền sư xem "Năng đoạn bách tư tưởng" (có thể dứt mọi tư tưởng); còn Tổ Huệ Năng nói "Bất đoạn bách tư tưởng" (không cần ngừng dứt tư tưởng gì cả) mà bạn vodanh cứ mong gạn bỏ "bản sao 1", "bản sao 2", như vậy bạn vodanh vẫn còn chạy theo tư tưởng của Ngoạ Luân Thiền sư đó thôi. Chớ đâu có chấp nhận cái ý của Tổ là "không có gì cần phải dứt, không có gì cần phải dừng" bởi Tịnh và Động chỉ là 2 trạng thái của một cơn mơ mà thôi. TẤT CẢ ĐỀU VÔ NGHĨA.
Nhận ra TẤT CẢ ĐỀU VÔ NGHĨA chính là CHÂN THẬT NGHĨA mà Tổ muốn dạy chúng ta.
hoatihon
09-12-2016, 08:40 AM
TÀI LIỆU THAM KHẢO về
Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng
Bổ sung cho bài của đạo hữu lavinhcuong :
http://www.phatphapthuchanh.com/showthread.php/71-Tr%C3%ADch-%C4%91%C4%83ng-Truy%E1%BB%81n-%C4%90%C4%83ng-L%E1%BB%A5c-Quy%E1%BB%83n-5?p=1608&viewfull=1#post1608
(Theo :
https://lienphathoi.org/xem-kinh_Canh-Duc-Truyen-Dang-Luc-[%E6%99%AF%E5%BE%B7%E5%82%B3%E7%87%88%E9%8C%84]_klslpltm_phien-am.html )
T51n2076_p0240c07║ nam nhạc hoài nhượng thiền sư giả tính đỗ thị 。kim châu nhân dã 。niên thập ngũ
T51n2076_p0240c08║ vãng kinh châu ngọc toàn tự 。y hoằng cảnh luật sư xuất gia 。thụ cụ chi hậu 。
T51n2076_p0240c09║ tập tì ni tạng 。nhất nhật tự thán viết 。phu xuất gia giả vi vô vi pháp
T51n2076_p0240c10║ thời đồng học thản nhiên tri sư chí cao mại 。khuyến sư yết tung sơn an hòa
T51n2076_p0240c11║ thượng 。an khải phát chi 。nãi trực nghệ tào khê sâm lục tổ 。tổ vấn 。thập ma
T51n2076_p0240c12║ xứ lai 。viết tung sơn lai 。tổ viết 。thập ma vật nhẫm ma lai 。viết thuyết tự
T51n2076_p0240c13║ nhất vật tức bất trung 。tổ viết 。hoàn khả tu chứng phủ 。viết tu chứng tức bất
T51n2076_p0240c14║ vô 。ô nhiễm tức bất đắc 。tổ viết 。chỉ thử bất ô nhiễm chư phật chi sở
T51n2076_p0240c15║ hộ niệm 。nhữ kí như thị ngô diệc như thị 。tây thiên ban nhược đa la sấm 。
T51n2076_p0240c16║ nhữ túc hạ xuất nhất mã câu 。đạp sát thiên hạ nhân 。tịnh tại nhữ tâm bất
T51n2076_p0240c17║ tu tốc thuyết 。sư hoát nhiên khế hội 。chấp thị tả hữu nhất thập ngũ tái 。đường
T51n2076_p0240c18║ tiên thiên nhị niên thuỷ vãng hoành nhạc cư ban nhược tự 。khai nguyên trung hữu sa
T51n2076_p0240c19║ môn đạo nhất (tức mã tổ đại sư dã )trụ truyền pháp viện thường nhật toạ thiền 。sư tri thị pháp
T51n2076_p0240c20║ khí 。vãng vấn viết 。đại đức toạ thiền đồ thập ma 。nhất viết 。đồ tác phật 。
T51n2076_p0240c21║ sư nãi thủ nhất chuyên 。ư bỉ am tiền thạch thượng ma 。nhất viết 。sư tác
T51n2076_p0240c22║ thập ma 。sư viết 。ma tác kính 。nhất viết 。ma chuyên khởi đắc thành kính da 。
T51n2076_p0240c23║ toạ thiền khởi đắc thành phật da 。nhất viết 。như hà tức thị 。sư viết 。như
T51n2076_p0240c24║ nhân giá xa bất hành 。đả xa tức thị 。đả ngưu tức thị nhất vô đối 。
T51n2076_p0240c25║ sư hựu viết 。nhữ học toạ thiền 。vi học toạ phật 。nhược học toạ thiền thiền
T51n2076_p0240c26║ phi toạ ngoạ 。nhược học toạ phật phật phi định tướng 。ư vô trụ pháp bất ưng
T51n2076_p0240c27║ thủ xả 。nhữ nhược toạ phật tức thị sát phật 。nhược chấp toạ tướng phi đạt kì
T51n2076_p0240c28║ lí 。nhất văn kì hối như ẩm đề hồ 。lễ bái vấn viết 。như hà dụng tâm
T51n2076_p0240c29║ tức hợp vô tướng tam muội 。sư viết 。nhữ học tâm địa pháp môn như hạ chủng
T51n2076_p0241a01║ tử 。ngã thuyết pháp yếu thí bỉ thiên dịch 。nhữ duyên hợp cố đương kiến kì đạo 。
T51n2076_p0241a02║ hựu vấn viết 。đạo phi sắc tướng 。vân hà năng kiến 。sư viết 。tâm địa pháp nhãn
T51n2076_p0241a03║ năng kiến hồ đạo 。vô tướng tam muội diệc phục nhiên hĩ 。nhất viết 。hữu thành hoại
T51n2076_p0241a04║ phủ 。sư viết 。nhược dĩ thành hoại tụ tán nhi kiến đạo giả 。phi kiến đạo dã 。
T51n2076_p0241a05║ thính ngô kệ viết 。
T51n2076_p0241a06║ tâm địa hàm chư chủng ngộ dịch tất giai manh
T51n2076_p0241a07║ tam muội hoa vô tướng hà hoại phục hà thành
T51n2076_p0241a08║ nhất mông khai ngộ tâm ý siêu nhiên 。thị phụng thập thu nhật ích huyền áo 。sư
T51n2076_p0241a09║ nhập thất đệ tử tổng hữu lục nhân 。sư các ấn khả vân 。nhữ đẳng lục nhân
T51n2076_p0241a10║ đồng chứng ngô thân các khế nhất lộ 。nhất nhân đắc ngô mi thiện uy nghi (thường hạo )nhất
T51n2076_p0241a11║ nhân đắc ngô nhãn thiện cố hễ (trí đạt )nhất nhân đắc ngô nhĩ thiện thính lí (thản nhiên )nhất
T51n2076_p0241a12║ nhân đắc ngô tị thiện tri khí (thần chiếu )nhất nhân đắc ngô thiệt thiện đàm thuyết (nghiêm tuấn )nhất
T51n2076_p0241a13║ nhân đắc ngô tâm thiện cổ kim (đạo nhất )hựu viết 。nhất thiết pháp giai tùng tâm sinh 。
T51n2076_p0241a14║ tâm vô sở sinh pháp vô năng trụ 。nhược đạt tâm địa sở tác vô ngại 。phi
T51n2076_p0241a15║ ngộ thượng căn nghi thận từ tai 。hữu nhất đại đức 。vấn như kính chú tượng 。tượng
T51n2076_p0241a16║ thành hậu kính minh hướng thập ma xứ khứ 。sư viết 。như đại đức vi đồng tử
T51n2076_p0241a17║ thời tướng mạo hà tại (pháp nhãn biệt vân a na cá thị đại đức chú thành để tượng )viết chỉ như tượng thành hậu 。vi
T51n2076_p0241a18║ thập ma bất giám chiếu 。sư viết 。tuy nhiên bất giám chiếu 。man tha nhất điểm bất
T51n2076_p0241a19║ đắc 。hậu mã đại sư xiển hoá ư giang tây 。sư vấn chúng viết 。đạo nhất vi
T51n2076_p0241a20║ chúng thuyết pháp phủ chúng viết 。dĩ vi chúng thuyết pháp 。sư viết 。tổng vị kiến nhân
T51n2076_p0241a21║ trì cá tiêu tức lai 。chúng vô đối nhân khiển nhất tăng khứ vân 。đãi y thượng
T51n2076_p0241a22║ đường thời 。đãn vấn tác ma sinh 。y đạo để ngôn ngữ kí tương lai 。tăng khứ
T51n2076_p0241a23║ nhất như sư chỉ 。hồi vị sư viết 。mã sư vân 。tự tùng hồ loạn hậu tam
T51n2076_p0241a24║ thập niên bất tằng quyết diêm tương khiết 。sư nhiên chi 。thiên bảo tam niên bát nguyệt
T51n2076_p0241a25║ thập nhất nhật viên tịch ư hoành nhạc 。sắc thụy đại tuệ thiền sư tối thắng luân
T51n2076_p0241a26║ chi đáp 。
hoatihon
09-12-2016, 08:46 AM
TÀI LIỆU THAM KHẢO về
Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng
Bổ sung cho bài của đạo hữu lavinhcuong :
http://www.phatphapthuchanh.com/showthread.php/71-Tr%C3%ADch-%C4%91%C4%83ng-Truy%E1%BB%81n-%C4%90%C4%83ng-L%E1%BB%A5c-Quy%E1%BB%83n-5?p=1608&viewfull=1#post1608
(Theo :
https://lienphathoi.org/xem-kinh_Canh-Duc-Truyen-Dang-Luc-[%E6%99%AF%E5%BE%B7%E5%82%B3%E7%87%88%E9%8C%84]_klslpltm_han-van.html?full=yes )
T51n2076_p0240c07║ 南嶽懷讓禪師者姓杜氏。金州人也。 十五
T51n2076_p0240c08║ 往荊州玉泉寺。依弘景律師出家。受 之 後。
T51n2076_p0240c09║ 習毘尼藏。一 日自歎曰。夫出家者為無為法
T51n2076_p0240c10║ 時同學坦然知師志高邁。勸 師謁嵩山安和
T51n2076_p0240c11║ 尚。安啟發之 。乃直詣曹谿參六 祖。祖問。什麼
T51n2076_p0240c12║ 處來。曰嵩山來。祖曰。什麼物恁麼 。曰說似
T51n2076_p0240c13║ 一 物即不中。祖曰。還可修 證否。曰修 證即不
T51n2076_p0240c14║ 無。污染即不得。祖曰。只此不污染 佛之 所
T51n2076_p0240c15║ 護念。汝既如是吾亦如是。西天般若 羅讖。
T51n2076_p0240c16║ 汝足下出一 馬駒。蹋殺天下人。並 在汝心不
T51n2076_p0240c17║ 須速說。師豁然契會。執侍 左右一 十五 載。唐
T51n2076_p0240c18║ 先天二 年始往衡嶽居般若寺。開元 中有沙
T51n2076_p0240c19║ 門道一 (即馬祖大師也)住 傳法院常日坐禪。師知是法
T51n2076_p0240c20║ 器。往問曰。大德坐禪圖什麼。一 曰。圖作佛。
T51n2076_p0240c21║ 師乃取一 塼。於彼庵前 石上磨。一 曰。師作
T51n2076_p0240c22║ 什麼。師曰。磨作鏡。一 曰。磨塼豈得成鏡耶。
T51n2076_p0240c23║ 坐禪豈得成佛耶。一 曰。如何 即是。師曰。如
T51n2076_p0240c24║ 人駕車不行。打車即是。打牛即是一 無對。
T51n2076_p0240c25║ 師又曰。汝學坐禪。為學坐佛。若學 禪禪
T51n2076_p0240c26║ 非坐臥。若學坐佛佛非定相。於無住 法不應
T51n2076_p0240c27║ 取捨。汝若坐佛即是殺佛。若執坐相 達其
T51n2076_p0240c28║ 理。一 聞示誨如飲醍醐。禮拜問曰。如何 用心
T51n2076_p0240c29║ 即合無相三昧。師曰。汝學心地法門 下種
T51n2076_p0241a01║ 子。我說法要譬彼天澤。汝緣合故當 其道。
T51n2076_p0241a02║ 又問曰。道非色相。云 何 能見。師曰。心地法眼
T51n2076_p0241a03║ 能見乎道。無相三昧亦復然矣。一 曰。有成壞
T51n2076_p0241a04║ 否。師曰。若以 成壞聚散而見道者。非見道也。
T51n2076_p0241a05║ 聽吾偈曰。
T51n2076_p0241a06║ 心地含諸種 遇澤悉皆萌
T51n2076_p0241a07║ 三昧華無相 何 壞復何 成
T51n2076_p0241a08║ 一 蒙開悟心意超然。侍 奉十秋日益玄奧。師
T51n2076_p0241a09║ 入 室弟子總有六 人。師各印可云 。汝等六 人
T51n2076_p0241a10║ 同證吾身各契一 路。一 人得吾眉善威儀 (常浩)一
T51n2076_p0241a11║ 人得吾眼善顧盻(智達)一 人得吾耳善聽理(坦然)一
T51n2076_p0241a12║ 人得吾鼻善知氣(神照)一 人得吾舌善譚說(嚴峻)一
T51n2076_p0241a13║ 人得吾心善古今(道一 )又曰。一 切法皆從心生。
T51n2076_p0241a14║ 心無所生法無能住 。若達心地所作無礙。非
T51n2076_p0241a15║ 遇上根宜慎辭哉。有一 大德。問如鏡鑄像 。像
T51n2076_p0241a16║ 成後鏡明向什麼處去。師曰。如大德 童子
T51n2076_p0241a17║ 時相貌何 在(法眼別 云 阿那箇是大德鑄成底像 )曰只如像 成後。為
T51n2076_p0241a18║ 什麼不鑑照。師曰。雖然不鑑照。謾 一 點不
T51n2076_p0241a19║ 得。後馬大師闡化於江西。師問眾曰 道一 為
T51n2076_p0241a20║ 眾說法否眾曰。已為眾說法。師曰。 未見人
T51n2076_p0241a21║ 持箇消息來。眾無對因遣一 僧 去云 。待伊 上
T51n2076_p0241a22║ 堂時。但 問作麼生。伊 道底言語記將來。僧 去
T51n2076_p0241a23║ 一 如師旨。迴謂師曰。馬師云 。自從胡亂 後三
T51n2076_p0241a24║ 十年不曾闕鹽醬喫。師然之 。天寶三年八 月
T51n2076_p0241a25║ 十一 日圓寂於衡嶽。勅 諡大慧禪師最勝輪
T51n2076_p0241a26║ 之 塔。
Powered by vBulletin® Version 4.2.3 Beta 3 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.