Xem phiên bản đầy đủ : Thiền Uỷên Tập Anh
hungcom
06-06-2015, 08:03 AM
THIỀN UYỂN TẬP ANH
禪 苑 集 英
Soạn giả : Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm (1337)
Dịch giả : Lê Mạnh Thát 1976 (Dựa trên bản in năm 1715)
Nhà xuất bản : Đại Học Vạn Hạnh - Saigon
__________________________________________
Mục Lục
Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh.
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục.
Quyển Thượng.
Dòng Pháp của Thiền Sư Vô Ngôn Thông.
1. THIỀN SƯ Vô Ngôn Thông (759 - 826)
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người).
2. THIỀN SƯ Cảm Thành (? - 860).
Thế Hệ Thứ Hai (1 người) .
3. THIỀN SƯ Thiện Hội (? - 900).
Thế Hệ Thứ Ba (1 người) .
4. THIỀN SƯ Vân Phong (? - 956) (Một tên nữa là Chủ Phong).
Thế Hệ Thứ Tư (2 người, 1 người khuyết).
5. Đại Sư Khuông Việt (933 - 1011) (Trước tên là Chân Lưu).
Thế Hệ Thứ Năm (2 người, khuyết 1).
6. THIỀN SƯ Đa Bảo.
Thế Hệ Thứ Sáu (3 người, 1 người khuyết lục).
7. TRƯỞNG LÃO Định Hương (? - 1075).
8. THIỀN SƯ Thiền Lão.
Thế Hệ Thứ Bảy (7 người, khuyết 1).
9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 - 1090).
10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ.
11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034).
13. THIỀN SƯ Quảng Trí.
14. Lý Thái Tôn.
Thế Hệ Thứ Tám (6 người, thiếu 3 người) .
15. QUỐC SƯ Thông Biện (? - 1134).
16. Đại Sư Mãn Giác (1052 - 1096).
17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 - 1088).
Thế Hệ Thứ Chín (8 người, 3 người khuyết lục).
18. THIỀN SƯ Đạo Huệ(? - 1073).
19. THIỀN SƯ Biện tài.
20. THIỀN SƯ Bảo Giám (? - 1173).
21. THIỀN SƯ Không Lộ( ? - 1119).
22. THIỀN SƯ Bản Tịnh (1100 - 1176).
Thế Hệ Thứ Mười (Gồm 12 người, 2 người khuyết lục).
23. THIỀN SƯ Minh Trí (? - 1196) (Trước tên Thiền Trí).
24. THIỀN SƯ Tín Học (? - 1200).
25. THIỀN SƯ Tịnh Không (1091 - 1170).
26. THIỀN SƯ Đại Xả(1120 - 1180).
27. THIỀN SƯ Tịnh Lực (1112 - 1175).
28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? - 1190).
29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 - 1165).
30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? - 1207).
31. THIỀN SƯ Giác Hải .
32. THIỀN SƯ Nguyện Học (?- 1181).
Thế Hệ Thứ Mười Một (9 người, 8 người khuyết lục).
33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 - 1190).
Thế Hệ Thứ Mười Hai (Có 7 người, 6 người khuyết lục).
23. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? - 1203).
Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 người, 3 người khuyết lục).
35. CƯ SĨ Thông Sư (? - 1228).
36. THIỀN SƯ Thần Nghi (? - 1216).
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (Gồm 5 người, 3 người khuyết lục).
37. THIỀN SƯ Tức Lự (Một tên là Tĩnh Lự).
38. THIỀN SƯ Huyền Quang (? - 1221).
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (Có 7 người, ở đây chỉ có 1 người) .
39. CƯ SĨ Ứng Vương.
hungcom
06-06-2015, 08:04 AM
Dòng Pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi - Chùa Pháp Vân.
40. THIỀN SƯ Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người).
41. THIỀN SƯ Pháp Hiền (? - 626).
Thế Hệ Thứ Hai (1 người) .
Thế Hệ Thứ Ba (1 người) .
Thế Hệ Thứ Tư (1 người).
42. THIỀN SƯ Thanh Biện (? - 686).
Thế Hệ Thứ Năm (1 người khuyết lục).
Thế Hệ Thứ Sáu (1 người khuyết lục)
Thế Hệ Thứ Bảy (1 người khuyết lục).
Thế Hệ Thứ Tám (3 người, 2 người khuyết lục).
43. THIỀN SƯ Định Không (? - 808).
Thế Hệ Thứ Chín (3 người, đều khuyết lục).
Thế Hệ Thứ Mười (4 người, 1 người khuyết lục).
44. TRƯỞNG LÃO La Quý.
45. THIỀN SƯ Pháp Thuận (925-990).
46. THIỀN SƯ Ma Ha (Tên cũ là Ma Ha Ma Gia).
Thế Hệ Thứ Mười Một (4 người, 2 người khuyết lục).
47. THIỀN ÔNG Đạo Giả (902-979).
48. THIỀN SƯ Sùng Phạm (1004-1087).
Thế Hệ Thứ Mười Hai (7 người, 2 người khuyết lục).
49. THIỀN SƯ Vạn Hạnh (?-1025).
50. THIỀN SƯ Định Huệ.
51. THIỀN SƯ Đạo Hạnh (? - 1117).
52. THIỀN SƯ Trì Bát (1049-1117).
53. THIỀN SƯ Thuần Chân (? - 1105).
Thế Hệ Thứ Mười Ba (6 người, 2 người khuyết lục).
54. TĂNG THỐNG Huệ Sinh (? - 1064).
55. THIỀN SƯ Thiền Nham (1093-1163).
56. QUỐC SƯ Minh Không (1066-1141).
57. THIỀN SƯ Bản Tịch (? - 1140) (Trước tên là Pháp Mật).
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (4 người, 3 người khuyết lục).
58. TĂNG THỐNG Khánh Hỷ (1067 - 1142).
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (3 người, 1 người khuyết lục).
59. THIỀN SƯ Giới Không.
60. THIỀN SƯ Pháp Dung (? - 1174).
Thế Hệ Thứ Mười Sáu (3 người) .
61. THIỀN SƯ Trí Nhàn (Một tên là Tĩnh Lự).
62. THIỀN SƯ Chân Không (1046-1100).
63. THIỀN SƯ Đạo Lâm (? - 1203).
Thế Hệ Thứ Mười Bảy (có 4 người, 1 người khuyết lục).
64. THIỀN SƯ Diệu Nhân (1042-1113).
65. THIỀN SƯ Viên Học (1073 -1136).
66. THIỀN SƯ Tịnh Thiền (1121 - 1193).
Thế Hệ Thứ Mười Tám (có 2 người, 1 người khuyết lục)
67. QUỐC SƯ Viên Thông (1080 - 1151).
Thế Hệ Thứ Mười Chín - Hai Mươi (1 người khuyết lục).
68. THIỀN SƯ Y Sơn (? - 1216).
Hệ Phái của Thiền Sư Thảo Đường.
69. THIỀN SƯ Thảo Đường.
Thế Hệ Thứ Nhất (3 người).
70. HOÀNG ĐẾ Lý Thánh Tôn.
71. THIỀN SƯ Bát Nhã.
72. CƯ SĨ Ngộ Xá.
Thế Hệ Thứ Hai (4 người) .
73. THAM CHÁNH Ngô Ích.
74. THIỀN SƯ Hoàng Minh.
75. THIỀN SƯ Không Lộ.
76. THIỀN SƯ Định Giác (Tức Giác Hải).
Thế Hệ Thứ Ba (4 người) .
77. THÁI PHÓ Đỗ Vũ .
78. THIỀN SƯ Phạm Âm.
79. HOÀNG ĐẾ Lý Anh Tôn.
80. THIỀN SƯ Đỗ Đô.
Thế Hệ Thứ Tư (4 người).
81. THIỀN SƯ Trương Tam Tạng.
82. THIỀN SƯ Chân Huyền.
83. THÁI PHÓ Đỗ Thường.
Thế Hệ Thứ Năm (4 người) .
84. THIỀN SƯ Hải Tịnh.
85. HOÀNG ĐẾ Lý Cao.
86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP Nguyễn Thức.
87. Phụng Ngự Phạm Đẳng.
hungcom
06-06-2015, 08:06 AM
Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh
Thiền uyển tập anh, sao dùng nghĩa đó ? Xin thưa, dùng sự anh tú của nó làm nghĩa vậy. Sao thế ?
Người theo Thiền tôn cố nhiên là nhiều, nhưng kẻ biết lẽ huyền thật ra lại hiếm: chính như một con phụng giữa bầy gà, một cây lan trong đám cỏ. Nếu chẳng phải phú bẩm anh dị, tri kiến siêu quần, làm sao thấu được ý chí huyền vi, để có thể làm lãnh tụ cho kẻ hậu học và mô thức cho người đời sau ?Đáng tin thay ! Trong vườn Thiền, người anh kỳ là hiếm, nhân đấy trích lấy những bậc danh công, thạc đức để làm tỏ sự tổ thuật của Thiền học. Nên cái nghĩa của Tập anh chính do đó mà có tên. Kể từ hỗn độn bắt đầu, bấy giờ có Phật Uy Âm xuất thế (1), sáng làm tị tổ của Thiền tôn. Nhưng thời ấy, tục còn thuần hậu, người nhiều chất phác, kinh giáo ở tại hư không, không cần nói ra để làm máy hóa độ. Kẻ nào lấy ma làm Phật kẻ đó trá ngụy ngày càng sinh, gian dâm ngày càng dấy,
nghiệp nợ kết đầy, chướng tội thêm thẳm. Nếu chẳng dùng đến thuyền từ cứu vớt, thì chẳng thể được.
Cho nên cha cả Thích Ca xuất hiện ở Ta Bà (2), vì họ mà nói ra kinh kệ, dạy dỗ chúng sanh, chín kiếp vượt tu (3), công thành quả mãn. Do thế, Phật giáo đại hành, Thiền tôn tiếp nối, như gió thổi qua sáu nẻo (4), để đem mát lành, tuyết rơi trên ba đường (5) để dẹp nóng dữ. Bí quyết thành Phật làm Tổ, từ đó mới mở được mối manh.
Nước Đại Việt ta, lời Phật thấm nhuần khắp cả, mưa pháp sóng gội nhiều nơi, cắt tóc xuất gia, chứng ấn ngộ không thì cũng có người. Về hành tích, lòng Thiền họ sáng như mặt trời, gương đạo trong như giá băng. Có người ra đời để giúp nước an dân, có kẻ nhập thế để đỡ ngã, vớt chìm. Có người sớm ngộ ấn tâm, chống gậy làm thần diệu cơ mầu của Đạt Ma (6). Có kẻ muộn vào cửa Thiền, chú sen (7) khiến hiển hiện bí quyết của Đồ Trừng. Còn những vị, chim rừng chuộng niềm đức, nghe kinh trong cửa, dã thú mến lòng nhân, cửa bếp dâng cơm. Đó là lòng thành cảm cách đã hiệp, chỗ học thần hóa được xong, há chẳng là sự mầu nhiệm của bốn mắt nhìn nhau ư! Thật đã đủ để làm bậc anh tú trong vườn Thiền vậy. Ôi ! Phật đạo chí huyền, mà lòng lại huyền ở trong huyền (8). Phật đạo rất lớn mà lòng lại lớn ở trong lớn. Lòng ư! Lòng ư! Nó là cái chủ tể của sự tu đạo ư!
Một sách Thiền uyển này, bắt đầu từ Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền đạo, đèn đèn nối nhau, ánh ánh huy hoàng, song rút gọn lời dài, làm ngắn chuyện rộng thì cũng đều cái lòng ấy là Chánh giác vô thượng vậy. Xét nguyên do nó, nếu chẳng phải gột rửa sáu trần, rời bỏ bốn tướng (9)mà có thể được như thế sao?
Tôi ròng học sách Nho, xem thêm kinh Phật, xét về lý hữu vô của chúng, tuy nói là hai đường, nhưng khảo về chỗ quy kỉnh thì tợ cùng một lẽ. Nhân khi rảnh rỗi giảng dạy ở trường (10), gặp một bạn thiền đến bàn lời Phật, đối thoại hồi lâu, là những vấn đề lông rùa sừng thỏ. Ông nhân đó lấy ra từ trong tay áo, có Tập anh một tập nhờ tôi chỉnh cú, để tiện in lại, nhằm khỏi sai lầm. Tôi xem trong sách ấy có nhiều cao thiền, danh tổ, học tu hết sức, chứng ngộ rất thiêng bất giác trong lòng vừa kính vừa phục. Họ bàn không, nói giác, đấy đương nhiên không phải nằm trong phần việc của tôi. Nhưng kinh Dịch có nói: "Trẻ nhỏ cầu ta"(11). Cho nên, tôi không thể không theo lời xin của ông để sửa lại những chữ thiếu và mất, thêm vào những chỗ sót và thoát lạc. Trong khoảng tuần nhật, lời văn nghĩa lý của sách này rõ ràng trở lại như xưa, không kém gì ánh trăng thêm sáng. Ông nhân đó xin tôi một bài tựa dùng để khắc vào đầu sách, nhằm hiển dương Phật giáo . Tôi không tiếc công, cho gọi đứa ở đến trước mặt, bảo lấy bút giấy, chuẩn bị viết lách, rồi thảo một thiên lời quê. Ông nhân đó vái chào mà nhận. Cẩn tự.
In lại vào ngày tốt tháng tư năm Lê Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715).
Thác tích của Thiền tôn: Thích tử Như Trí
Môn đồ: Sa di Tính Nhu, Tính Xuyến, Tính Trung, Tính Huy, Tính Kiến, Tính Bổn.
Thiện nam tử Tính Phận, Tính Thành, Tính Từ, Tính Hưng, Tính Minh, Tính Băng
Thiện nữ nhân hiệu Diệu Tặng, Diệu Đạo, Tính Phụng
_____________________
Chú thích :
(1)
Uy Âm Phật : tức Đức Phật đầu tiên của thế giới Không kiếp, trước đó không có một Đức Phật nào hết. Cho nên tên Đức Phật này được dùng để chỉ cho ranh giới giữa giai đoạn lúc chưa có sự phân biệt của chúng sanh và giai đoạn sau đó khi đã có sự phân biệt. Xem Pháp hoa thông nghĩa 6 và Tổ đình sự uyển 5.
(2)
Ta bà: Phạn _ Sa hà, tên thế giới của chúng ta, được định nghĩa là thế giới "chịu nhận ba thứ độc (tức tham, sân, si) và các loại phiền não". Xem Bi hoa kinh 5 tờ 119c 22-23.
(3)
Cửu kiếp lịch tu: Điển tích Phật Thích Ca, nhờ ngợi ca Đức Phật Phất Sa bằng bài tán:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỉ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
trong khi đang làm một vị Bồ Tát trên đường đi tới giác ngộ, mà đã có thể thâu ngắn thời gian tu hành của mình bằng cách vượt được chín kiếp, để trở thành Phật Thích Ca, trong khi Di Lặc còn phải đợi chín kiếp nữa. Xem Đại trí độ luận 25 tờ 87b27.
(4)
Lục đạo: cũng gọi là Lục thú, tức chỉ cho sáu con đường sống sáu lối sống, đây là con đường sống của thiên thần, của con người, của phi thiên, của súc sanh, của quỉ đói và của địa ngục.
(5)
Tam đồ: tức ba con đường, đấy là: 1. con đường lửa chỉ cho chỗ lửa dữ của địa ngục, 2. Con đường máu chỉ cho thế giới ăn nuốt lấy sinh mạng của nhau tức loài súc sanh và 3. Con đường đao kiếm chỉ cho thế giới đấu tranh bức hiếp lẫn nhau tức loài quỷ đói. Xem Tứ giải thoát kinh.
(6)
Tức Bồ Đề Đạt Ma, Phạn Bodhidharma, đến Trung quốc vào năm 520 và mất năm 528, người được coi thực sự khai sáng ra nền thiền Trung quốc. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 3 tờ 217a9 - 220b25 và Tục cao tăng truyện 16 tờ 551b27 - c26 và Lịch đại pháp bảo kỳ tờ 180 c3 - 181a18.
(7)
Tức Phật Đồ Trừng(232 - 348). Chú sen có nghĩa là đọc chú làm cho hoa sen mọc lên từ một bát nước. Sự tích lấy từ truyện Trừng gặp Thạch Lặc, và Lặc hỏi Trừng về chuyện "Đạo Phật có linh nghiệm gì? Trừng biết Lặc không hiểu tới lẽ sâu của Đạo, nên có thể dùng đạo thuật để làm bằng cớ, nhân đó nói rằng: "Đạo cả tuy xa, nhưng có thể lấy việc gần để làm chứng". Bèn lấy một cái bình bát đựng đầy nước, đốt hương và niệm chú thì phút chốc mọc lên một hoa sen xanh, sắc đẹp sáng chói mắt. Lặc do đó tin phục. Xem Cao tăng truyện 9 tờ 383c3 - 10.
(8)
Huyền trung chi huyền: Đây là một trong ba thứ huyền của phái Lâm tế, đấy là: 1. Huyền trung huyền, 2. Thể trung huyền và 3. Cú trung huyền. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 311b19. Xem thêm Lão Tử, Đạo đức kinh thượng thiên tờ 1b3, Huyền chi hựu huyền, Chúng diệu chi môn.
(9)
Sáu trần: tức sáu đối tượng của sáu giác quan, mà thông thường thì gồm sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của tai, hương là đối tượng của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của thân, và pháp là đối tượng của ý.
Bốn tướng:tức bốn diễn trình của sự vật, đấy là sự sinh ra, sự trì giữ, sự thay đổi và sự diệt chết. Xem Câu xá luận 5 tờ27a12 - 20a9.
(10)
Chiên đường: Điển lấy từ việc Dương Chấn (? - 124) dạy học, trước nhà có treo bảng một con chim ngậm trong mỏ ba con cá chiên, nên sau này người ta gọi nhà chiên hay chiên đường, để chỉ chỗ các thầy đồ dạy học. Xem Hậu Hán thư 84 tờ 1b5-9.
(11)
Dẫn Chu dịch: "Quẻ Mông": "Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã". Xem Chu dịch 1 tờ 9a3.
hungcom
06-06-2015, 08:09 AM
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
(Quyển Thượng )
Dòng Pháp của Thiền Sư Vô Ngôn Thông
1. THIỀN SƯ Vô Ngôn Thông (1) (759 - 826)
Chùa Kiến sơ, làng Phù đổng, Tiên du (2) Sư vốn người Quảng châu, họ Trịnh, nhỏ đã mộ đạo, không màng gia sản, đến thọ nghiệp tại chùa Song lâm ở Vũ châu (3) Tính tình trầm hậu, ít nói, im lặng mà biết, rõ hiểu mọi việc một cách tổng quát. Cho nên, người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông {Truyền đăng (4) gọi Bất Ngữ Thông}.
Chú thích :
(1)
Thiền sư Vô Ngôn Thông Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc:
(a). Truyền đăng lục 9 ĐTK. 2076, tờ 268a28-b13: Hoài Nhượng thiền sư, đệ tam thế Hồng châu Bách Trượng Hoài Hải thiền sư pháp tự Quảng châu, An hòa tự, Thông thiền sư giả, Vụ châu, Song lâm tự thọng hiệp, tự ấu, quả ngôn, thời nhơn vị chi Bất Ngữ Thông dã. Nhân lễ Phật, hữu thiền giả vấn vân: "Tọa chủ lễ để thị thập ma? Sư vân: "Thị Phật" Thiền giả nãi chỉ tượng vân: "Giá cá thị hà vật ?" Sư vô đối. Chí dạ, cụ oai nghi, lễ vấn thiền giả vân: " Kim nhật sở vấn, mỗ giáp vị tri ý chỉ như hà". Thiền giả vân: "Toạ chủ kỷ hạ da ?" Sư vân: "Thập hạ" Thiền giả vân: "Hoàn tằng xuất gia dã vị?" Sư chuyển mang nhiên. Thiền giả vân: "Nhược dã bất hội, bách hạ hề vi?" Thiền giả nãi mệnh Sư đồng tham Mã Tổ. Hành chí Giang tây, Mã Tổ dĩ viên tịch. Nãi yết Bách Trượng, đôn thích nghi tình. Hữu nhân vấn: "Sư thị thiền sư phủ?" Sư vân: "Bần đạo bất tằng học thiền." Sư lương cửu khước triệu kỳ nhân. Kỳ nhân ứng nặc. Sư chỉ tông lư thọ tử. (kỳ nhân vô đối). Sư nhất nhật linh Ngưỡng Sơn tương sàng tử lai. Ngưỡng Sơn tương đáo. Sư vân: "Khước tống hoàn bản xứ. Ngưỡng Sơn tùng chi. Sư vân: "Sàng tử na biên thị thập ma vật?" Ngưỡng Sơn vân: "Vô vật". Sư vân: "Giá biên thị thập ma vật?" Ngưỡng Sơn vân: "Vô vật". Sư triệu: "HuệTịch". Ngưỡng Sơn vân: "Nặc". Sư vân: "Khứ".
(b). Liêu đăng hội yếu 7 (Vạn 136 tờ275a15), chép giản lược hơn, và nói Huệ Tịch lúc bấy giờ còn là một Sa di.
(c). Đại quang minh tạng, quyển trung (Vạn 137 tờ 422b.), chép từ đoạn "có người hỏi Sư có phải Thiền sư?" vân vân, như Truyền đăng lục (đã dẫn), cuối cùng có lời bình của Bản Đàm: "Cổ nhân tự lợi căn thượng trí dĩ hoàn nhất đẳng phác mậu chi tư, đại lược tương tợ. Kỳ thọ đạo ký bất tương viễn, nhi dụng xứ diệc nhiên, Bất Ngữ Thông dĩ hạ chí vu Đại An chư sư, thân tự Bách Trượng lô bị trung lai, nhi đoàn liu tinh kim, lược vô chỉ uế. Thử đản trước kỳ nhất thời ứng cơ nhi dĩ, yếu nghiệm kỳ khí lực tương
địch, lợi độn tương ma, tự phi kỳ gia đệ huyễnh, thục cảm khinh xúc?".
(d). Ngũ đăng hội nguyên 4 (Vạn 138 tờ 63b), chép như Truyền đăng lục, đã dẫn, từ đầu đến cuối, chi tiết đối thoại với Ngưỡng Sơn có khác một chút: "Sư nhất nhật triệu Ngưỡng Sơn: "Tương sàng tử lai". Sơn tương đáo. Sư viết: "Khước tống bản xứ trước." Sơn tùng chi. Sưtriệu: "Huệ Tịch" Sơn ứng nặc. Sư viết: "Sàng tử na biên thị thậm ma vật?". Sơn viết: "Chẩm tử" giá biên thị thậm ma vật?" Sơn viết: "Vô vật" Sư phục triệu: "Huệ Tịch". Sơn ứng nặc. Sư viết: " Thị thậm ma" Sơn vô đối, Sư viết: "Khứ".
(e). Ngũ đăng nghiêm thống 4 tờ103b. và Chỉ nguyệt lục 11 tờ 125c cả hai bài đều chép như Ngũ đăng hội nguyên đã dẫn.
(2)
Tức huyện Tiên du. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: "Huyện Tiên du ở xiên về phía đông bắc phủ lỵ Từ sơn 10 dặm, rộng từ đông sang tây 18 dặm, nam xuống bắc 10 dặm, phía đông 10 dặm thì đến địa giới huyện Quế dương, tây 7 dặm thì đến địa giới huyện Yên Phong, nam 11 dặm thì đến địa giới huyện Siêu loại của phủ Thuận an, bắc 6 dặm đến địa giới huyện Yên phong. Đời Trần về trước nguyên đã có tên huyện này. Sử ký nói Nguyễn Thủ Tiệp chiếm cứ Tiên du, tức là ở đây. Đời thuộc Minh, châu Vũ ninh gồm lấy nó và thuộc phủ Bắc giang. Đời Lê Quang Thuận, đổi nó thuộc phủ Từ sơn. Triều ta nhân theo đấy. Nó gồm hai tổng, 56 xã thôn". Nay tức là huyện Tiên du, tỉnh Hà bắc. Làng Phù đổng ở tại huyện này. Chùa Kiến sơ, như truyện của Cảm Thành xác định là do một nhà giàu họ Nguyễn của làng đấy đem nhà mình cải thành chùa, rồi đem cúng cho Cảm Thành có lẽ khoảng năm 820 hay trước đó không lâu. Huyện Tiên du này, vào thời kỳ nhà Lý chắc gọi là quận Tiên du, bởi vì trong truyện Cảm Thành nói Thành là người Tiên du, xuất gia ở núi Tiên du quận mình."
(3)
Vụ châu, địa danh đời Đường, sau đổi là Tư châu. Nay là huyện lỵ huyện Vụ Xuyên, Quý châu.
(4)
tức Truyền đăng lục do Đạo Nguyên khởi viết năm 1004. Nó gồm cả thảy 30 quyển, mô tả lịch sử truyền thừa của Thiền tôn từ Phật Tỳ Bà Thi trở xuống cho tới Thiền sư Huệ Thành (941 - 1007). Năm Cảnh Đức thứ 4 (1007) là năm ông hoàn thành tác phẩm này. Vì nó được viết trong khoảng Cảnh Đức (1004 - 1007) đời Tống Chân Tôn nên cũng có tên Cảnh Đức truyền đăng lục, hiện ở trong Đại tạng kinh số ĐTK 2076.
hungcom
06-06-2015, 08:10 AM
.
Một hôm vào lúc Sư lễ Phật, có một Thiền khách đến hỏi: "Tọa chủ lễ cái gì đó?"
Sư đáp: "Lễ Phật"
Thiền khách chỉ tượng Phật hỏi: "Cái này là cái gì?" Sư không đáp được.
Đêm đó Sư y phục nghiêm chỉnh đến lạy thiền khách, thưa rằng: "Điều ngài hỏi khi nãy tôi chưa biết ý chỉ như thế nào?"
Thiền khách hỏi: "Tọa chủ xuất gia đến nay trải được mấy hạ?"
Sư thưa: "Mười hạ".
Thiền khách hỏi: "Lại từng xuất gia chưa?"
Sư trở thành hoang mang.
Thiền khách bảo: "Nếu không hiểu điều đó, thì dù có trăm hạ cũng chẳng ích gì !"
Rồi đem Sư cùng đến tham vấn Mã Tổ (1) Đi tới Giang tây (2) thì Tổ đã tịch, bèn đến yết kiến Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (3) Bấy giờ có vị tăng hỏi: "Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?"
Bách Trượng đáp: "Đất lòng nếu không _ Trời tuệ tự chiếu" (4) Nghe xong Sư tỉnh ngộ.
Trở về Quảng châu, trụ trì chùa Hoà an. Có người hỏi: "Thầy phải là Thiền sư chăng?" Sư đáp: "Bần đạo không từng học thiền" Im lặng giây lâu, Sư gọi, Người đó đáp: "Dạ".
Sư chỉ cây soan. Người đó không trả lời.
Thiền sư Ngưỡng Sơn (5) khi còn là sa di, có lần Sư gọi: "Tịnh con, đem cái giường lại đây cho ta".
Nguỡng Sơn đem giường đến. Sư bảo: "mang lại chỗ cũ". Nguỡng Sơn vâng theo.
Sư lại hỏi: "Tịch, bên này có cái gì?"
_ "Không vật".
"Còn bên kia?"
_ "Không vật".
Sư lại gọi: "Tịch con !"
Nguỡng Sơn thưa: "Dạ".
Sư bảo: "Đi đi".
Chú thích :
(1)
Tức Thiền sư Đạo Nhất (709 - 788) ở Giang tây, là học trò đắc pháp duy nhất của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sư người họ Mã, nên thường gọi là Mã Tổ. Về tiểu sử, xem Truyền đăng lục 6 tờ 245 c23-246c6.
(2)
Giang tây, vùng đất ở phía nam thuộc lưu vực trung bờ sông Dương tử, tương đương với phần đất tỉnh Giang tây ngày nay.
(3)
Bách Trượng Hoài Hải (749 - 814) là học trò của Mã Tổ. Sư người Trường lạc, Phúc châu. Sau khi đắc pháp với Mã Tổ rồi, bèn đến tại núi Đại hùng ở Hồng châu, vì ở ngọn núi này cao dốc nên cũng gọi là Bách trượng. Xem Truyền đăng lục 6 tờ249b26 - 250c.
Ở Trung Quốc, Thiền sư Hoài Hải được coi như là vị thầy của hai người học trò đã khai sinh ra hai phái thiền lớn của Trung Quốc, đấy là Linh Hựu ở Qui Sơn, người đã cùng với học trò mình là Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn khai sinh ra phái thiền Qui Ngưỡng, và Hy Vận ở Hoàng bá, người đã dạy cho học trò mình là Nghĩa Huyền ở Lâm Tế thành lập nên phái thiền Lâm Tế. Ở đây, ta có thể nói Thiền sư Hoài Hải còn có một nguời học trò thứ ba cũng khai sinh ra một thiền phái lớn khác ngoài đất Trung Quốc, đấy là thiền phái Kiến sơ của Vô Ngôn Thông ở Việt Nam.
(4)
Tham chiếu Truyền đăng lục 6 tờ250a17: Thiền sư Bách Trượng, có Tăng hỏi: "Như hà thị Đại thừa đốn ngộ pháp môn?" Sư viết:
"Nhữ đẳng tiên hiết chư duyên, hưu tức vạn sự; thiện dữ bất thiện, thế, xuất thế gian, nhất thiết chư pháp, mạc ký, mạc ức, mạc duyên niệm, phóng xả thân tâm linh kỳ tự tại, Tâm như mộc thạch, vô sở biện biệt. Tâm vô sở hành. Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự hiển. Như vân khai nhật xuất (...)".
(5)
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (814 - 890): Xem Truyền đăng lục11 tờ282a - 283c); Huệ Tịch ngữ lục, ĐTK 1910, tr. 582a và tr. 584c23.
hungcom
06-06-2015, 08:14 AM
.
Tháng chín mùa thu năm Canh tý Đường Nguyên Hoà thứ 15 (820), Sư đến trác tích chùa đấy (1) Ngoài việc cơm cháo, vui cái vui thiền, thường ngồi quay mặt vào vách, không bao giờ nói năng, suốt mấy năm mà không ai biết. Chỉ có thầy Cảm Thành chùa đó lòng càng tôn kính, hầu hạ hai bên, âm thầm rõ thấu huyền cơ, được hết yếu chỉ.
Một hôm Sư không bệnh, tắm rửa thay y phục, gọi Cảm Thành đến dạy rằng: "Ngày xưa, Tổ ta là Nam Nhạc Nhượng Thiền sư (2) khi ngài sắp tịch, có dạy:
"Tất cả các pháp
Đều từ tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu đạt đất lòng
Chỗ làm không ngại
Không gặp thiện căn
Cẩn thận chớ nói" (3)
Dạy xong, Sư chắp tay mà mất. Cảm Thành làm lễ trà tì thu xá lợi (4) dựng tháp thờ Sư tại núi Tiên du, bấy giờ là nhằm ngày 12 tháng giêng năm Bính ngọ Đường Bảo Lịch thứ 2 (826), Sư thọ sáu mươi tám tuổi (5) Đến năm Khai Hựu Đinh sửu (1337) phàm có năm trăm mười hai năm. (6) Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư vậy (7).
Chú thích :
(1) Tức chùa Kiến sơ, làng Phù đổng.
(2) Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 - 744), đệ tử đắc pháp của Huệ Năng và thầy của Mã Tổ Đạo Nhất. Xem Truyền đăng lục 5 tờ 240c7 - 241a26.
(3) Nguyên văn:
Nhất thiết chư pháp,
Giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh,
Pháp vô sở trụ.
Nhược đạt tâm địa,
Sở tác vô ngại.
Phi ngộ thượng căn,
Thận vật khinh hứa.
So sánh Truyền đăng lục 5 tờ241a13: Nam Nhạc Thiền sư nói: Nhất thiết pháp giai tùng tâm sinh, Tâm vô sở sinh, pháp vô năng trụ. Nhược đạt tâm địa, sở tác vô ngại. Phi ngộ thượng căn, nghi thân tự tại.
(4) Trà tỳ, cũng gọi là Xà duy, là những phiên âm của chữ Phạn savya, nghĩa là sự đốt xác người sau khi chết, tức hỏa táng. Xá lợi, phiên âm của chữ phạn sàrìra, chỉ cho số xương cốt còn lại sau khi đốt, mà người ta thường gọi là linh cốt của đức Phật và các vị tổ.
(5) Nguyên văn:
Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính ngọ chính nguyệt thập nhị nhật nhị thập bát niên. Câu này đoạn đầu thật quá rõ ràng, đây là "Bấy giờ ngày 12 tháng giêng năm Bính ngọ. Đường Bảo Lịch thứ hai". Điểm khó khăn nằm ở bốn chữ cuối cùng, mà nhiều người đã nhận thấy. Xem Gaspardone, Bibliographie Annamite tr. 147 chẳng hạn. Chúng tôi nghĩ rằng bốn chữ "nhị thập bát niên" nếu thêm chữ "thọ" vào trước chữ "nhị" và sửa chữ "nhị" thành chữ "lục", thì ta sẽ có "thọ lục thập bát niên". Và tuổi thọ của Vô Ngôn Thông chắc chắn phải là 68, như ta có thể truy ra sau. Cứ vào tiểu sử, ta biết Thông xuất gia từ nhỏ, vì Thông "thiếu mộ không môn, bất trị gia sản". Vậy với tư cách một đồng chân nhập đạo, với sự "quả ngôn mặc thức" của mình, Thông chắc chắn phải thọ giới Tỳ kheo, để thực sự làm một nhà sư Phật giáo vào lúc Thông 20 tuổi. Đến khi Thông gặp vị Thiền khách thì bấy giờ theo chính lời Thông, Thông đã trải qua 10 hạ, nghĩa là 10 năm từ lúc thọ giới. Nói cách khác, khi gặp vị Thiền khách Thông đã 30 tuổi. Năm Thông 30 tuổi này cũng là năm Thông được vị Thiền khách vừa nói đem đến yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất. "Nhưng vừa tới Giang tây thì Tổ đã thị tịch". Tổ đây tức là Mã Tổ, và năm Mã Tổ mất là năm 788. Vậy năm 788 này cũng là năm Thông 30 tuổi. Từ đó, suy ra năm sinh của Thông tức rơi vào năm 759. Bấy giờ, ta biết Thông mất vào năm 826. Như thế tuổi thọ của Thông tính theo lối đông phương đúng là 68 tuổi. Do đó, chúng tôi nghĩ: "nhị thập bát niên" là một viết sai và thiếu của "thọ lục thập bát niên". Viết thiếu chữ, trường hợp này Thiền uyển tập anh bản in năm 1715 có khá nhiều. Chẳng hạn, ở tờ 17b6 hai cái tên khá quen thuộc là Bảo Tính và Minh Tâm thì bị viết thành Bảo Tính Minh. Về việc chữ lục bị viết thành chữ nhị thì cũng khá dễ xảy ra, vì tự dạng của chúng rất dễ lầm.
(6) Nguyên văn:
Hựu chí Khai Hựu Đinh sửu nhị thập tứ niên. Câu này cùng có một trường hợp tương tự như câu trên, và chúng tôi đề nghị cách đọc và hiểu nó thế này. Thứ nhất, chữ hựu chắc phải là chữ dĩ viết lộn, bởi dáng chữ khá giống nhau. Tiếp đến, những chữ nhị thập tứ niên, chúng tôi nghĩ chúng là một viết lộn, sai và thiếu cũng có thể những chữ sau "phàm ngũ bách thập nhị niên". Nhị thập là một viết ngược của thập nhị. Sự viết ngược này xuất hiện khá nhiều trong Thiền uyển tập anh, như Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm trong truyện của Cứu Chỉ. Chữ tứ chắc là một viết sai và ngược của chữ bách, bởi dáng chữ chúng khá giống nhau. Như vậy, nhị thập tứ niên đúng ra phải đọc bách thập nhị niên. Cuối cùng, vấn đề thêm hai chữ"phàm ngũ "Ngó vào tự dạng của hai chữ đấy, ta thấy chúng có những nét rất giống với chữ sửu đi trước. Có thể, người hiệu đính bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh, vì để bản đã lu mờ hay bị mọt cắn, đã không thấy ý nghĩa của chữ phàm ngũ ấy và coi chúng như những điển tự của chữ sửu đứng trước, nên đã loại ra. Còn chữ bách thập nhị, một khi đã loại chữ phàm ngũ thì bỏ chữ bách, hoặc sửa nó lại thành chữ tứ hay một chữ gì đó. Trong trường hợp này, có lẽ họ đã sửa thành chữ tứ và tạo nên sự viết lộn ngược trên. Dầu sao đi nữa, chúng tôi nghĩ rằng một đề nghị giải quyết một đoạn văn như thế không đến nỗi hoàn toàn không có lý. Và lý do cho đề nghị ấy là sau.
Ta biết tác giả Thiền uyển tập anh biết khá nhiều về Truyền đăng lục của Đạo Nguyên. Mà cứ theo lối viết của Nguyên thì sau những vị tổ chính yếu của Thiền tôn Trung Quốc như Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Năng mất, Nguyên đều tính từ năm mất của họ đến năm Nguyên đang viết Truyền đăng lục, tức năm Cảnh Đức thứ nhất (1004), và nói "đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm bao nhiêu năm. Ví dụ, về Huệ Năng thì ông nói "đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm 292 năm. Năng mất năm 713, đến năm 1004 thì quả là 292 năm. Trường hợp Thiền uyển tập anh cũng vậy. Tác giả muốn tính cho ta biết từ khi Vô Ngôn Thông mất đi cho tới lúc ông đang viết tác phẩm của mình gồm cả thảy bao nhiêu. Thông mất năm 826 đến đời Trần, Khai Hựu Đinh sửu (1337), thì Thông cách ta đúng 512 năm theo lối tính phương đông. Đấy là lý do tại sao chúng tôi đề nghị sửa nhị thập tứ niên thành phàm ngũ bách thập nhị niên và dịch theo đó.
(7) Nguyên văn:
Ngã việt thiền học tự Sư chi thỉ. Câu này đã làm một số người như Gaspardone (sđd.) tự hỏi làm sao tác giả Thiền uyển tập anh có thể viết một câu như thế, trong khi biết rõ ràng rằng, thiền học Việt nam không phải bắt đầu với Vô Ngôn Thông, mà là với Tỳ Ni Đa Lưu Chi như chính ông đã ghi lại. Phải chăng đã có những sai lầm văn cú trong lúc truyền bản? Thực ra, viết như thế, tác giả Thiền uyển tập anh muốn phơi bày quan điểm và lập trường viết sử của mình, để từ đó biện minh cho việc ông
đã bắt đầu cuốn sử về Thiền tôn Việt nam của mình bằng dòng Vô Ngôn Thông. Nói khác đi, Thiền của Vô Ngôn Thông mới là phái Thiền chính thống theo quan niệm của ông. Thiền của Tỳ Ni Đa Lưu Chi dù có xưa hơn vẫn không thể có danh dự đó được.
Viết về lịch sử Thiền tôn Việt nam cho đến thời ông đã có nhiều đánh giá khác nhau, mà việc nổi bật nhất là việc Thông Biện không thừa nhận có phái thiền của Nguyễn Bát Nhã, tức thiền phái Thảo Đường, và thiền phái của Nguyễn Đại Điên. Quan điểm này sau đó được Thường Chiếu, tác giả của Nam tôn tự pháp đồ, chấp nhận, đến nỗi Quách Thần Nghi phải tra hỏi. Nhưng đến tác giả Thiền uyển tập anh dù quan điểm vừa nói vẫn đang còn có giá trị, ông đã phải thêm vào phần ghi lại sự truyền thừa của phái Thảo Đường. Ta không biết, đây có phải là vì ảnh hưởng của Huệ Nhật, tác giả Liệt tổ yếu ngữ , một người được tác giả Thiền uyển tập anh tôn trọng dẫn ra với một niềm tôn trọng và tin tưởng khá vô biên? Và Huệ Nhật, một sử gia Phật giáo khác thời Lý Trần, phải chăng đã gồm thêm phái Thảo Đường trong cuốn sách của mình?. Ngoài ra như đã chứng minh trong phần nghiên cứu, tác giả Thiền uyển tập anh thuộc phái thiền Trúc lâm. Mà phái thiền đấy xuất phát từ dòng Kiến sơ. Cho nên không có gì là lạ khi ông bắt đầu thiền Việt nam từ Vô Ngôn Thông.
hoatihon
06-06-2015, 08:22 AM
Phi ngộ thượng căn, thận vật khinh hứa.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/changgapthuongcan_canthanchonoi_zpsa01336c7.jpg
hungcom
06-06-2015, 08:27 AM
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người)
2. THIỀN SƯ Cảm Thành (? - 860)
Chùa Kiến sơ, đời thứ 2. Người Tiên du, họ Thị (1) Ban đầu Sư xuất gia, tên đạo là Lập Đức, ở tại núi Tiên du (2) của quận mình. Sư lấy việc đọc kinh làm sự nghiệp. Có hương hào họ Nguyễn mến Sư đức hạnh cao cả, muốn đổi nhà làm chùa mời Sư tới ở, bèn đến lấy tình mời Sư, Sư chẳng chịu nhận.
Ban đêm mộng thấy thần nhân mách: "Nếu theo ý của Nguyễn, thì chẳng mấy năm sẽ được điều lành lớn", bèn đáp lại lời mời (Nay là chùa Kiến sơ ở Phù đổng).
Chẳng bao lâu thì Thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Sư biết Thông là người phi thường, sớm hôm phục dịch, chưa từng biếng nhác. Thông cảm động trước lòng thành của Sư, bèn đặt tên là Cảm Thành. Một hôm, Thông gọi Sư đến dạy: "Xưa, Đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn , mà xuất hiện ở đời (3), hóa duyên xong xuôi, ngài vào Niết bàn. Chân tâm vi diệu như thế gọi là Chánh pháp nhãn tạng, thật tướng vô tướng, tam muội pháp môn, chính ngài tự thân trao cho đệ tử là tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Sư tổ (4), đời đời truyền nhau, đến Đại sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang, trải bao hiểm nguy, để truyền pháp này cho đến Lục tổ Tào Khê, đắc pháp với Ngũ tổ, "Khi Đạt Ma mới đến, vì người đời chưa biết tin, nên lấy sự truyền y để làm rõ việc đắc pháp. Nay đức tin đã chín muồi, thì y bát là đầu mối của tranh chấp, phải dừng lại ở nơi ông, không nên truyền nữa" (5). Từ đó, lấy tâm truyền tâm, không truyền y bát. Bấy giờ Nam Nhạc Nhượng đầu tiên được tâm truyền, rồi Nhượng trao cho Mã Tổ Nhất, Nhất lại trao cho Bách Trượng Hải (6). Ta nhờ ở Bách Trượng mà được tâm pháp đó. Lâu nghe phương này, hâm mộ Đại thừa cũng nhiều, nên ta xuôi Nam để tìm thiện tri thức. Nay gặp được ngươi, ấy bởi duyên xưa. Hãy lắng nghe ta nói kệ:
"Các nơi đồn đãi
Dối tự rao truyền
Rằng thủy tổ ta
Gốc tự Tây thiên
Truyền pháp nhãn tạng
Gọi đấy là Thiền
Một hoa năm lá (7)
Hạt giống liên miên
Ngầm hợp mật ngữ
Muôn ngàn có duyên (8)
Tam tông đều gọi
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên
Đụng đâu cũng vướng (9)
Phật tổ thành oan
Sai một mảy may
Đi mất trăm ngàn
Ngươi khéo quan sát
Chớ lừa cháu con
Dẫu có hỏi ta
Ta vốn Không Lời (Vô Ngôn) (10)
Nghe xong lời đó, Sư liền tỉnh ngộ.
Một lần có vị Tăng đến hỏi: "Thế nào là Phật?"
Sư đáp: "Khắp hết mọi nơi."
Lại hỏi: "Thế nào là tâm Phật ?"
Sư đáp: "Chẳng từng che dấu"
Lại thưa: "Người học không hiểu".
Sư bảo: "Đi quá xa rồi"
Về sau, Sư không bệnh mà mất. Bấy giờ là năm Canh thìn Đường Hàm Thống thứ nhất (860).
--------------
Chú thích :
(1)
Bản đời Lê viết "Tánh Thị", thì Thị đây chỉ họ của Cảm Thành. Thành như vậy họ Thị, họ Thị không phải là không biết đến trong lịch sử. Tam quốc chí 63 còn ghi lại một nhân vật của triều Tôn Ngô tên Thị Nghi, rồi chú rằng: Nghi nguyên có họ Thị nhưng sau viết cải thành Thị. Bản đời Nguyễn trước chữ "Tánh Thị", viết thêm hai chữ "vị tường". Đây chắc là một tăng bổ của Phúc Điền,
nếu không phải là của Tiêu sơn tự cổ bản.
(2)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a6-7 nói: "Phật tích ở tại huyện Tiên du, lại có tên là núi Tiên du. Xưa có tiều phu Vương Chất vào thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng, bèn dựa búa đứng xem. Xem xong cuộc cờ, ngó lại thì không thấy ai cả, mà cán búa đã mục bao giờ, nên có tên là thôn Lạn kha". Vậy núi Tiên du cũng có tên là núi Phật tích hay núi Lạn kha. Và núi Lạn kha này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: "Núi Lạn kha ở tại huyện Tiên du về phía nam cách bốn dặm, trên núi có ao Thú long, trên chóp Thất sơn có bàn cờ đá. Tương truyền xưa có tiều phu Vương Chất vào núi thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng bèn dựa búa đứng nhìn, đến khi cuộc cờ tan, mà không biết cán đã mục tan. Dưới núi có động tên Vạn phúc, cảnh trí thanh vắng tương truyền đời Lý dựng nên. Sử ký nói Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên du đánh với An Dương Vương, tức là nơi đây. Truyền kỳ lục nói Từ Thức cởi áo cừu cho tiên nữ, tức cũng ở núi đây". Tuy nhiên An nam chí lược 1 tờ 22 cũng ghi: "Núi
Tiên du có bàn đá lấp loáng dấu những đường gạch, tương truyền Tiên đánh cờ trên đó, sau bọn con gái đi hái củi giao hợp ở trên đó nên nó lật xuống và vỡ ra". Nay tức núi Lạn kha, huyện Tiên du, Hà Bắc.
(3)
Kinh Pháp hoa, phẩm Phương tiện: "Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời". Xem Diệu pháp liên hoa kinh 1 tờ 7a21.
(4)
Truyền đăng lục1 tờ 205b26 - 28 nói, khi Phật sắp nhập diệt, Phật nói với đệ tử Ma Ha Ca Diếp rằng: "Ta đem thanh tịnh pháp nhãn. Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu chánh pháp, đem giao cho ngươi, ngươi nên giữ gìn".
(5)
Cả đoạn từ "Khi Đạt Ma mới đến" cho tới "không nên truyền nữa" ở đây là dẫn y nguyên văn câu nói của Hoằng Nhẫn cho Huệ Năng lúc Nhẫn truyền ca sa cho Năng, mà cả Pháp bảo đàn kinh tờ 394a28 lẫn Truyền đăng lục 3 tờ 223a20 đều có chép. Nguyên văn : "Tích Đạt Ma sơ chí, nhãn vị chi tín, cổ truyền y bát dĩ minh đắc pháp. Kim tín tâm di thục, y nãi tranh đoan. Chỉ ư nhữ thân, bất phục truyền dã". Vì dẫn nguyên văn này, cho nên chữ ông trong đoạn này phải hiểu là chỉ Huệ Năng.
(6)
Sự truyền thừa nói đến trong đoạn này, ta có thể vẽ thành đồ biểu như sau:
Thích Ca Mâu Ni Ma Ha Ca Diếp ...
Bồ Đề Đạt Ma (? - 528)
Huệ Khả (487 - 593)
Tăng Xán (? - 606)
Đạo Tín (580 - 651)
Hoằng Nhẫn (601 - 674)
Huệ Năng (638 - 713)
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 - 744)
Mã Tổ Đạo Nhất (709 - 788)
Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814)
(7)
Nguyên văn: Nhất hoa khai ngũ diệp. Đạt Ma truyền pháp cho Huệ Khả đọc bài kệ:
Ngô bản lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Xem Truyền đăng lục3 tờ 219c 17-18
(8)
Nguyên văn: Tiềm phù mật ngữ, thiên vạn hữu duyên. Lời phú chúc của Đạt Ma cho Huệ Khả cũng nói:
Tiềm phù mật chứng
Thiên vạn hữu dư
Nhữ đương xiển dương
Vật khinh vị ngộ.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c15.
(9)
Nguyên văn: Xúc đồ thành trệ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập tứ khoa tụng:
Ngu nhân bị tha cấm hệ
Trí giả tạo tác giai không
Thanh văn xúc đồ vi tuệ*
Đại sĩ nhục nhãn viên thông.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450 c13-14. Xem thêm Bích nham lục 5 tắc 4 (tờ 182a5).
(10)
Nguyên văn: Ngã bản vô ngôn. Có thể dịch: "Ta vốn không lời". Vô Ngôn có thể chỉ Vô Ngôn Thông, cũng có thể chỉ cái chân lý không thể diễn tả được.
______________
*Câu "Thanh văn xúc đồ vi tuệ" là câu mâu thuẩn với ý của toàn bài. Câu "Thanh Văn xúc đồ thành trệ" (Nhị Thừa đụng đâu cũng vướng) mới phù hợp nghĩa thú của toàn bài (Ghi chú của hungcom)
hoatihon
06-06-2015, 08:32 AM
.
Kệ Truyền Pháp
Thiền Sư Vô Ngôn Thông
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ketruyenphap2_zps4a15848b.jpg
.
hungcom
06-06-2015, 08:33 AM
Thế Hệ Thứ Hai (1 người)
3. THIỀN SƯ Thiện Hội (? - 900)
Chùa Định thiền (1) làng Siêu loại (2), người Điển lãnh (3). Lúc nhỏ xuất gia với sư Tiệm Nguyên chùa Đông lâm (4) cùng làng, tự gọi là Tổ Phong. Sư rảo khắp cõi ngoài, cầu học Thiền chỉ. Sau gặp Cảm Thành chùa Kiến sơ, bèn xin ở lại hầu hạ hơn mười năm, mà hoàn toàn không mỏi mệt. Một hôm Sư vào thất hỏi: "Trong kinh (5) nói: "Đức Thích Ca Như Lai, nhân địa tu hành trải qua ba tăng kỳ kiếp mới được thành Phật"(6). Nay Đại đức lại luôn luôn bảo: "Tức tâm tức Phật". Tôi thật chưa hiểu, xin một phen khai thị cho".
Thành hỏi: "Trong kinh đó là do ai nói?"
Sư thưa: "Há chẳng phải Phật nói sao?"
Thành hỏi: "Nếu là Phật nói thì tại sao trong kinh Văn Thù bảo: "Ta ở đời 49 năm, chưa từng nói một chữ cho ai"(7). Vả lại cổ đức nói: "Người tìm văn lấy chứng, thì thêm vướng mắc. Người khổ hạnh cầu Phật thì đều lầm mê. Người lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo. Người chấp tâm tức Phật là ma".(8)
Sư hỏi: "Như vậy tâm này là cái gì?
Đáp: Cái chẳng phải Phật là cái gì?"
Sư tiếp: "Như vậy tâm này là Phật gì?"
Thành đáp: "Xưa có người hỏi Mã Tổ: "Tâm tức là Phật, cái nào là Phật?" Mã Tổ dạy: "Ông nghĩ
cái nào không phải là Phật chỉ ra xem?". Người ấy không trả lời. Tổ dạy "Hiểu được khắp nơi có, không hiểu mãi xa sai"(9)
Chỉ một câu thoại đầu nầy, ngươi lại hiểu chưa?"
Nghe lời đó xong, Sư thưa: "Con đã hiểu rồi".
Thành hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?"
Sư thưa: "Khắp cả mọi nơi, không chỗ nào là chẳng phải tâm Phật".
Sư liền sụp xuống lạy.
Thành bảo: "Cần phải làm thế a?"
Nhân đó đặt tên là Thiện Hội. Về sau, Sư mất tại chùa mình, tức năm Canh thân Đường Quang
Hoá thứ 3 (900)
________________
Chú thích :
(1)
Đây chắc là một viết đảo của tên chùa Thiền định tại làng Khương tự huyện Siêu loại ngày xưa, nay là huyện Thuận Thành Hà Bắc. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: " Chùa Diên ứng ở tại xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rất có dấu thiêng. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa một trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp, nền cũ nay hãy còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì thuở Sĩ Nhiếp làm thái thú đóng tại thành Luy lâu, ở núi xanh phía tây thành ấy có một vị Sư tên Khâu Đà La. Có người con gái của Tu Định tên A Man bị Sư phạm đến mà có thai, sinh ra một đứa con gái. Sư đem dấu trong một cây to giữa núi sâu, sau bị gió mưa lớn, cây trốc gốc, nổi trong nước trôi đến bến Luy lâu. Người ta cho là lạ, vớt cây lên bờ rồi đẽo thành bốn pho tượng Phật, rồi cất chùa tên là Thiền định, tức nay là chùa Diên ứng để đặt bốn tượng ấy mà thờ. Về sau mỗi khi cầu mưa đều có linh ứng, nên đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Thập di ký của Lý Tế Xuyên nói: "Người Cổ Châu mỗi năm mừng ngày Phật đản đều họp nhau ở chùa Thiền định". Đời Trần Nghệ Tôn có khen ban mỹ hiệu. Sử đời Lê chép Lê Nhân Tôn vào năm Thái Hoà thứ 6 (1448) sai Lê thái úy đến Cổ châu rước tượng Pháp Vân về chùa Báo thiên tại kinh thành để cầu mưa.
(2)
Tức huyện Siêu loại. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: "Huyện Siêu loại, từ đông sang tây 27 dặm, từ nam xuống bắc 9 dặm, đông đến địa phận huyện Lương tài 7 dặm, tây đến địa phận huyện Gia lâm thuộc phân dặm, bắc đến địa giới huyện Gia bình 3 dặm, thuộc đất Luy lâu đời Hán. Sử ký nói, Sứ quân Lý (Lãng công) chiếm cứ Siêu loại, tức là ở đây. Năm Thiên Huống Bảo Tượng (1068) đổi làng Thổ lôi làm làng Siêu loại (xin ghi vào đây để tiện tham khảo), sau đổi làm huyện. Đời thuộc Minh nó
thuộc Bắc giang. Lê Quang Thuận cải thuộc phủ Thuận an và do phủ đó kiêm lý. Triều ta nhân theo. Nó coi 6 tổng 68 xã thôn". Hiện nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà bắc. Cương mục chính biên 3 tờ 26b6 nói: "Làng Siêu loại ở tại huyện Siêu loại, tỉnh Bắc ninh, nay là xã Thuận quang". Nhưng hiển nhiên xã Thuận quang hiện không có chùa Thiền định. Do đó, làng Siêu loại đời Lý phải
coi là tương đương với huyện Siêu loại tức huyện Thuận thành ngày nay.
(3)
Điển lãnh, tên làng. Truyện này nói Thiện Hội "lúc nhỏ xuất gia với Sư Tiệm Nguyên chùa Đông lâm cùng làng". Vậy chùa Đông lâm ở tại làng Điển lãnh. Bây giờ cứ Cổ châu pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục tờ 16b3-4 ta biết một ngôi chùa tên Đông lâm ở Điển lĩnh, và đây là chùa thờ Phật Pháp Vân thời Lý Nhân Tôn. Vậy Điển lãnh cũng là Điển linh và ở tại làng Khương tự ngày nay. Ngoài chùa Đông lâm, làng này còn có chùa Phúc Thánh mà Minh Trí (tức Thiền trí) trụ trì.
(4)
Chùa này, Đại Việt sử lược 2 tờ10b3 nói dựng vào năm Long Thụy Thái Bình năm thứ hai (1055), nhưng không nói rõ ở đâu. Cứ theo đây thì nó phải ở làng Điển lãnh. Truyện của Thiền sư Minh Trí ở dưới còn ghi thêm một chùa khác nữa cũng thuộc Điển lãnh đó là chùa Phúc thánh. Chùa này theo Toàn thư B4 tờ6b4 ghi vào năm 1144 Lý Anh Tôn cũng cho dựng một chùa tên Phúc thánh.
(5)
Giáo, chỉ Phật giáo được truyền thừa bằng kinh điển; các tông phái ngoài Thiền tông.
(6)
Tham chiếu, Phú pháp tụng nhân duyên truyện 1 tờ297b6-8: "Khi gần diệt độ, Phật bảo đại đệ tử Ma Ha Ca Diếp: " Ngươi nay nên biết, trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, ta vì chúng sanh, siêng tu khổ hạnh, một lòng chuyên tìm pháp không gì hơn. Nguyện xưa của ta như vậy, nay đã thỏa rồi".
(7)
Vị tằng thuyết nhất tự. Các thiền gia thường nói nó xuất xứ từ kinh Văn Thù. Hiện có một số kinh mang tên Văn Thù hay Văn Thù là người đối thoại chính. Nhưng không có kinh nào có câu đó. Ý nghĩa tương tựcũng có thể tìm thấy trong kinh Lăng già 3 tờ 498c17-19: "Ngã tùng mỗ dạ đắc tối chánh giác nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết bàn, trung gian nãi chí bất thuyết nhất tự."
(8)
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Tầm văn thủ chứng giả ích trệ, khổ hạnh cầu Phật giả cu mê, ly tâm cầu Phật dã ngoại đạo, chấp tâm thị Phật dã vi ma". Xem Truyền đăng lục 6 tờ248a1-3.
(9)
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Hữu hành giả vấn" Tức tâm thị Phật, na cá thị Phật?". Sư vân: "Những hi na cá bất thị Phật chỉ xuất khán". Vô đối. Sư vân: "Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ." Xem Truyền đăng lục 6 tờ247a22-24.
hoatihon
06-06-2015, 08:38 AM
.
Tầm văn thủ chứng
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamvanthuchung_zpsf5cd82f2.jpg.
hungcom
06-07-2015, 04:03 PM
Thế Hệ Thứ Ba (1 người)
4. THIỀN SƯ Vân Phong (? - 956)
(Một tên nữa là Chủ Phong)
Chùa Khai quốc (1), kinh đô Thăng Long, người Từ Liêm, quận Vĩnh Khương
(2), họ Nguyễn. Khi mẹ mang thai, bà thường ăn chay, tụng kinh, lúc sinh có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà. Cha mẹ thấy điềm lạ, nên cho Sư đi xuất gia. Lớn lên Sư theo hầu sư Thiện Hội ở Siêu Loại làm đệ tử nhập thất (3), lặng nắm huyền chỉ, thiền học ngày thêm càng tiến triển. Hội có lần bảo Sư: "Sống chết là việc lớn, cần phải giải quyết ngay".
Sư hỏi: "Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi?"
Hội đáp: "Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh".
Sư hỏi: "Thế nào là chỗ không sống chết?"
Hội đáp: "Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được".
Sư hỏi: "Làm sao mà hiểu?"
Hội đáp: "Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến".
Chiều Sư lại vào, như đã hẹn, Hội bảo: "Đợi đến sáng mai đông đủ, sẽ chứng minh cho ngươi".
Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy.
Hội hỏi: "Ngươi thấy đạo lý gì?"
Sư thưa: "Con đã lĩnh hội".
Hội hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?".
Sư đưa nắm tay lên, thưa: "Bất tiếu là cái này đây".
Hội liền bảo thôi.
Về sau Sư mất vào năm Bính Thìn Hậu Chu Hiển Đức thứ 3 (956).
________________
Chú thích :
(1)
Tây hồ chí, phần về Cổ tích, ghi: "Chùa Khai quốc ở tại bờ sông Nhị hà, phía bắc của hồ (Tây), nay là bến Yên Phụ mé ngoài đê.
Nguyên Nam Đế nhà Tiền Lý nhân nền cũ của chùa An trì của triều Hồng Bàng, mà dựng lên, nên có tên Khai quốc. Sau danh tăng triều Ngô là Nguyễn Vân Phong người Từ Liêm tu bổ lại. Trong khoảng hai triều Đinh và Lê, Quốc sư Ngô Khuông Việt thường trụ trì tại đó. Nhà Lý trùng tu lại". Đến phần về chùa chiên, Tây hồ chí lại ghi: "Chùa Khai quốc do Nam đế triều Tiền Lý nhân nền cũ chùa An trì, mà dựng lên. Chùa ở bến Yên Phụ trên bờ sông phía ngoài đê thuộc mạn bắc hồ. Khi họ Lý dời đô đến, có sửa sang lại. Những danh tăng như Lý Thảo Đường, Ngô Thông Biện, đến Viên Học và Tịnh Không đều có ở đó. Triều Trần thường hay đến chơi. Trong khoảng Đại Bảo nhà Tiền (phải đọc là Hậu) Lê (1428 - 1789), vua ban tên An quốc. Tiên nhân Trần Tú Uyên sinh ở đó nên có tên vậy. Trong khoảng Hoằng định (1600 - 1618) nhà Hậu Lê, bờ sông bị lở, người trong ấp dời vào bên hồ, nay là chùa Trấn bắc".
Về chùa Trấn bắc này, nó viết tiếp: "Trấn bắc là chùa An quốc dời vào, đổi tên như vậy, nay ở trong phần đất phường An Phụ. Bãi Rùa trên hồ nguyên có điện Hàm nguyên của triều Trần việc dựng điện có nói trong phần về cổ tích, nền cũ nó vẫn còn.
Năm Lê Hoằng Định thứ 16 (1615) sông lở, chùa gần sụp. Người trong ấp dời vào dựng lại ở đấy. Trong khoảng Chính hoà (1680 - 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn quốc. Trong khoảng Vĩnh Hựu (1735 - 1739) và Cảnh Hưng (1740 - 1786) có những danh Tăng như Hà Giác Quan, Đỗ Tu Ma, Đỗ Trung Nghĩa đều ở đó. Ba tháp Thông quang, Linh quang và Viên quang cùng tượng của họ hiện còn. Đời Gia Long của triều ta, Bùi phương trượng kế đăng, tháp Tịch quang của Sư nay vẫn còn. Đầu đời Thiệu Trị, vua tuần du Bắc hà, đổi tên chùa là Trấn Bắc, sắc cho quan tỉnh làm bảng vàng treo, nay còn". Đó là lai lịch chùa Khai quốc của thủ đô Hà nội viết vào khoảng sau năm 1851, năm Nguyễn Đăng Giai được bổ làm kinh lược sứ sáu tỉnh miền Bắc, mà Tây hồ chí nhắc tới. Đây là niên đại chậm nhất xuất hiện trong nó. Về chùa Trấn bắc này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Chùa Trấn bắc vốn tên là chùa Trấn quốc, ở bên Hồ Tây, phường Yên phụ, huyện Vĩnh Thuận, xây vào khoảng Lê Hoằng Định (1600 - 1618) đến khoảng Vĩnh Tộ (1619 - 1628) thì trùng tu nên cơ sở trở nên rộng rãi, cảnh trí trở nên đẹp đẽ. Bi ký của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính viết đang còn. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) triều ta vua ban cho chùa 20 lạng bạc. Đến năm Thiệu Trị thứ hai, vua xa giá đến chơi cúng chùa một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền kẽm, đổi biển chùa làm chùa Trấn Bắc".
(2)
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6 nói: "Vào thời Lý, Trần, đặt trấn Vĩnh Khương, ở Từ liêm". Về huyện Từ liêm, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Huyện Từ liêm, từ đông sang tây rộng 11 dặm, từ bắc xuống nam rộng 14 dặm, đông đến huyện Vĩnh Thuận một dặm, tây đến địa giới huyện Đan phụng 10 dặm, nam đến địa giới huyện Thanh trì, phủ Thường tín 5 dặm, bắc đến bờ sông Nhị hà đối diện với địa giới huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh và huyện An lãng, tỉnh Sơn tây 9 dặm. Đời Hán là đất huyện Luy lâu. Đời Tuỳ đổi làm huyện Giao chỉ. Đường Vũ Đức năm thứ tư (621) cắt ra, đặt tên huyện Từ liêm, rồi đặt Từ châu vì huyện đó có sông Từ và sông Liêm, nên gọi tên đó. Năm thứ 6 (623) đổi làm Nam Từ châu. Năm đầu Trinh Quán (627) bỏ châu đó đi, đem ba huyện sáp nhập vào huyện Giao chỉ thuộc Đô hộ phủ. Sau phục nguyên tên huyện chưa rõ đời nào. Đời thuộc Minh, nó thuộc phủ Giao châu. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc thống hạt của phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. Năm Minh Mạng thứ 12 (1832) cải thuộc phủ Hoài đức kiêm lý, gồm 13 tổng, 87 xã thôn sở". Nay là đất huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây.
(3)
Nhập thất đệ tử, chỉ người đệ tử đắc ý nhất. Ý nghĩa rút ra từ câu "Do giả thăng đường hỷ, vị nhập ư thất giả" của chương Tiên tiến trong Luận ngữ. Xem Luận ngữ 11 tờ 3b7.
hungcom
06-07-2015, 04:23 PM
Thế Hệ Thứ Tư (2 người, 1 người khuyết)
5. Đại Sư Khuông Việt (933 - 1011) (Trước tên là Chân Lưu)
Chùa Phật Đà, làng Cát lợi, Thường lạc, người Cát lợi, họ Ngô, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế. Sư tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng, nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai quốc, thọ giới Cụ túc (1). Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền. Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến, Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng thống (2). Năm Thái Bình thứ hai (917). Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư (3). Hoàng đế Lê Đại Hành càng kính trọng Sư hơn, phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư đều dự vào.
Một lần Sư đi chơi núi Vệ linh ở quận Bình lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta là Tỳ Sa Môn thiên vương (4), những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết". Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum sê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ. Năm Thiên Phúc thứ 1 (981), binh Tống đến quấy nước ta. Vua biết rõ việc đó, liền sai Sư đến lập bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu ninh, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ.
Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ nước ta. Bấy giờ pháp sư Đỗ Thuận cũng có tiếng tăm lừng lẫy. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở Giang khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi bàn văn chương, bèn đem thơ tặng, có câu: "Ngoài trời lại có trời soi rạng". Vua đưa hỏi Sư. Sư thưa rằng: "Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với chúa nó không khác ". Khi Giác trở về, Sư làm một bài thơ nhan đề Vương lang qui (5) để tiển đưa. Bài từ như sau:
Trời lành gió thuận, gấm buồm dương
Thần tiên về để hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình ray rứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu Thượng hoàng (6)
Sau Sư lấy cớ già yếu, xin từ về núi Du hí ở quận mình, lập chùa trụ trì; người học tìm tới đông đảo. Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: "Thế nào là chung thủy của sự học đạo".
Sư đáp: "Thủy chung không vật, diệu hư không
Hiểu được chân như, thể tự đồng".
Bảo tiếp: "Làm sao đảm bảo được?".
Sư đáp: "Không có chỗ cho nguời xuống tay".
Bảo nói: "Hòa thượng nói xong rồi".
Sư lại hỏi: "Ngươi hiểu gì".
Bảo bèn hét lên.
Ngày 15 tháng hai năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) triều Lý, khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lủa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng. (*)
Nói kệ xong, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi (Có nơi nói thọ 79 tuổi) (7)
Chú thích :
(1)
Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập thể của tổ chức Phật giáo. Thường thường, những kỷ luật ấy gồm những điều luật, mà tùy theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm mấy chục giới cho đến 500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người nào chịu nhận những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là đàn ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn bà, và họ là những người đã thọ Cụ túc giới.
(2)
Đại Việt sử lược1 tờ 17a9 nói: Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ". Toàn thư B1 tờ 3b6-8 cũng ghi: Năm Thái Bình thứ 2 bắt đầu định phẩm cho văn võ Tăng đạo", nhưng còn thêm: "Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là Khuông Việt đại sư". Cứ vào đây thì cũng có thể thấy, dù cả hai bộ sử không ghi rõ năm nào Khuông Việt được phong làm Tăng thống, ta có thể kết luận dễ dàng là, Việt phải được phong làm Tăng thống vào chính năm Thái Bình thứ 2 (971), bởi vì Tăng thống là một chức quan do triều đình thiết lập trong liên hệ với tổ chức Phật giáo, mà thời Đinh Tiên Hoàng thì đến năm (971) mới bắt đầu thiết lập những phẩm trật không những cho các quan văn vũ, mà còn cho cả tăng sĩ và đạo sĩ, do đó chức Tăng thống của Việt cũng phải ra đời vào năm đó.
(3)
Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của nước ta. Về lai lịch chức này tại Trung quốc, Đại tống tăng sử lược quyển trung tờ 243a 19b-12 viết: "Về sự bắt đầu của chức này, thì khi nhà Diêu Tần đặt chế độ ở Quan trung, bèn lập nên Tăng chính để làm người đứng đầu Phật giáo. Khi nhà Ngụy lên ngôi ở đất Bắc, bèn cải làm Tăng thống để thống lãnh sư sãi, tuy nêu một tên mới, nhưng chức vụ vẫn giữ. Trong khoảng Hậu Ngụy Hoằng Thỉ (396-397), Sa môn Pháp quả ở Triệu quận, giới hạnh tinh nghiêm, mở trường thuyết pháp, vua Thái Tổ trưng làm Sa môn thống. Chức quan Sa môn thống bắt đầu từ Pháp Quả vậy. Lại có Sa môn Sư Hiền người Kế tân, vốn dòng vương gia đông du đến đất Lương, rồi lại tới kinh đô, gặp lúc Phật pháp bị bãi bỏ(440 - 451), bèn tạm làm nghề bốc thuốc để giữ đạo không đổi. Đến ngày Phật pháp trùng hưng lại làm Samôn cùng với năm người bạn. Vua Ngụy (Văn Thành Đế 452 - 465) tự mình cắt tóc cho Sư, xuống chiếu cho Hiền làm Tăng thống. Chức quan Tăng thống bắt đầu từ Sư Hiền vậy. Đến khi nhà Tùy trùng hưng Phật giáo, thay đổi hoàn toàn phong tục, mời Tăng Mãnh ở chùa Đại hưng thiện làm Tuỳ quốc đại thống. Lại có Sa di Hiệu Thánh, trước ở Lạc dương giữ chức Quốc tăng đồ sau mời vào Nghiệp, đổi làm Quốc thống, tức Tăng thống của một nước vậy. Nhà Tống nhân theo chế độ nhà Đường, bỏ Tăng thống mà lập Tăng lục".
Ở Trung quốc như vậy, chức Tăng thống bắt đầu với Sư Hiền khoảng từ năm 452 cho đến đời Đường thì bỏ chức đó mà lập nên chức Tăng lục. ở nước ta Đinh Tiên Hoàng đã thiết trí chức Tăng thống, nhưng đồng thời cũng đặt luôn chức Tăng lục, vì năm 971 này, sau khi ban Khuông Việt đại sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu, thì cùng lúc đã cử Trương Ma Ni làm Tăng lục.
hungcom
06-07-2015, 04:24 PM
(4)
Theo vũ trụ quan huyền thoại Phật giáo tiểu thừa thì vũ trụ chia làm ba cõi, đó là cõi có tham dục, cõi có hình tướng, cõi không hình tướng. Cõi có tham dục hay dục giới lấy núi Tu di làm trung tâm, và quả đất chúng ta ở về phía nam ngọn núi ấy, tên là Nam diêm phù đề. Núi đó có bốn tầng. Tầng thứnhất cho đến tầng thứ ba là chỗ ở của những loài dạ xoa. Tầng thứ tưlà chỗ ở của bốn vị vua trời hay Tứ Thiên Vương ở tại bốn phương của tầng ấy, mà về phía bắc thì do vị vua tên Tỳ Sa môn Thiên Vương, tức phiên âm của chữ vaisravâna, cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương. Cuối cùng trên chóp đỉnh tu di là cõi trời Tam Thập Tam Thiên hay cũng gọi là trời Đao lợi hay Đâu suất, nơi ngự trị của Đế Thích. Đế Thích như vậy theo huyền thoại này cai quản cõi Dục giới. Những tên thần nói đến trong truyện đây là dẫn từ thần thoại vừa kể.
(5)
Bản in đời Lê, đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh báo ngã hoàng.
-------------
Toàn thư B1 tờ18b5 - chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Diêu vọng thần tiên phục đế vương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh tấu ngã hoàng.
(6)
Toàn thư B tờ18 a5-b8 viết: "Năm Đinh hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ, vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người chèo đò, đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Lúc ấy, gặp khi có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng
Ngoảnh mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, cũng tiếp vần đọc:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi. (**)
Giác càng lấy làm lạ. Đến khi về tới sứquán, Giác làm một bài thơ gởi cho Sư rằng :
May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợt sứ Giao châu
Đông đô đôi biệt dòng lưu luyến
Nam việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả buồm đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm trăng ngắm thu.
Thuận đem bài thơ dâng cho vua. Vua mời Sư Ngô Khuông Việt đến xem. Không Việt nói: " Bài thơ này có ý tôn trọng Bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý đó, tặng thưởng càng nhiều. Giác giã từ trở về, vua xuống chiếu cho Khuông Việt viết một khúc từ đến tin đưa. Bài từ thế này:
"Trời thanh gió thuận buồm gấm trương
Xa ngắm thần tiên về đế hương
Muôn trùng sông núi vượt đại dương
Xa xôi hút dặm đường
Lòng lưu luyến ngỏ ly trường
Cầm tay Sư hỏi han
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu thượng hoàng".
Giác vái mà trở về.
(7)
Cứ tiểu sử này thì Khuông Việt được phong làm Tăng thống lúc 40 tuổi. Nhưng theo Đại Việt sử lược1 tờ17a10 cũng như Toàn thư B1 tờ3b7-8 thì đến năm Thái Bình thứ hai, nghĩa là vào năm 971 mới có việc định phẩm trật của văn võ và Tăng đạo. Cho nên, chức Tăng thống của Việt không thể phong trước năm 971. Vậy, Việt phải sinh vào năm 930. Bấy giờ, nếu Việt mất vào năm Thuận Thiên thứ hai nhà Lý, tức năm 1011, như thế thì tuổi thọ của Việt, tính theo tuổi Việt Nam, tất phải 82 tuổi. Cả ba bản in triều Lê và Nguyễn đều ghi thọ 52 tuổi, thọ ngũ thập hữu nhị.
Chúng tôi nghĩ chữ "ngũ" chắc chắn là một viết sai của chữ"bát", một điều rất dễ xảy ra, do thế, đề nghị sửa "thọ ngũ thập hữu nhị" thành "thọ bát thập hữu nhị" và dịch là "thọ 82 tuổi".
____________________
Chú thích của hungcom :
(*)
Mộc trung nguyên hữu hoả
Hữu hoả, hoả hoàn sinh
Nhược vị mộc vô hoả
Toản toại hà do manh.
(**)
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Bạch mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba.
hoatihon
06-07-2015, 04:31 PM
.
Trong cây vốn có lửa
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/moctrungnguyenhuuhoa_zpsd5f52191.jpg
hungcom
06-07-2015, 04:35 PM
Thế Hệ Thứ Năm (2 người, khuyết 1)
6. THIỀN SƯ Đa Bảo
Chùa Kiến sơ, làng Phù đổng, Tiên du. Không biết người đâu, và cũng không biết họ gì. Khi Đại sư Khuông Việt giảng dạy tại chùa Khai quốc, Sư đến tham học. Đại sư khen là người gặp việc thì chóng hiểu, xử sự cẩn thận, nên riêng cho nhập thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bát, tiêu dao ngoại vật. Sau được chùa Kiến sơ, bèn đến ở đó. Lý Thái Tổ lúc chưa lên ngôi, Sư thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường, bèn bảo: "Chú này cốt tướng khác phàm, ngày kia làm vua ắt là nó đây". Lý Công Uẫn cả kinh, thưa: "Hiện nay đức Thánh thượng anh minh còn đó, trong ngoài cả nước yên vui, thầy sao lại nói lời phải tội tru di này ?".
Sư bảo: "Mệnh trời đã định, người dù muốn trốn cũng chẳng được nào. Giả như lời này mà đúng, thì mong chớ bỏ nhau".
Khi Vua lên ngôi, nhiều lần triệu Sư vào cung, hỏi bàn yếu chỉ của Thiền và lễ Sư rất hậu. Cả đến công việc chính trị của triều đình, Sư đều dự phần giải quyết. Vua xuống chiếu trùng tu chùa Sư (1). Sau không biết Sư tịch ở đâu.
Chú thích :
(1)
Về việc Đa Bảo đến ở chùa Kiến sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn, truyện Xung thiên dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương của Việt điện u linh tập tờ 205 viết: "Xét Báo cực truyện và Thế truyền nói, Vương thần thổ địa chùa Kiến sơ giáng sanh. Xưa Thiền sư Chí Thành (nghi là Cảm Thành) ở chùa Kiến sơ tại làng Phù đổng, lập nhà thờ thần thổ địa ở mé bên phải của chùa làm chỗ thanh tịnh để niệm Phật tụng kinh. Ngày tháng soi mòn, phần lớn đã làm mất dấu cũ của nó, nên Sa môn thiền sư không do đâu mà biết được. Dân địa phương ưa thờ quỷ, đốt hương cầu đảo, gọi bậy là dâm từ. Đến khi Thiền sư Đa Bảo trùng tu chùa, cho chỗ thờ là dâm từ, muốn phá hủy đi. Một hôm, tại cây cổ thụ của đền thờ thần hiện một bài kệ đề rằng:
Phật pháp ai hay hộ
Giữ đức tại Kỳ viên
Nếu không ta gây giống
Sớm theo xứ khác thiên
Chớ chở Kim cang bộ
Dấu kín Na la diên
Đầy trời người như bụi
Chùa Phật thành oan khiên.
Ngày khác, một bài kệ khác lại hiện ra ở đó, thần ứng ra tám câu viết:
Phép Phật từ bi lắm
Oai quang khắp đại thiên
Muôn thần đều hướng hóa
Ba cõi thảy khắp truyền
Thầy ta ra hiệu lịnh
Tà qủy ai dám trêu
Nguyện thường theo thọ giới
Lớn nhỏ giữ Kỳ viên.
Sư lấy làm lạ, bèn lại thiết đàn trì giới cho thần, cúng dùng đồ chay lạt. Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long, biết Đa Bảo đức hạnh cao thượng, cùng làm đàn việt cho Bảo. Khi đã nhận ngôi, tự thân đến chơi chùa Bảo. Thiền sư nghênh giá đi qua bên chùa. Sư lên tiếng nói: "Phật tử, ngươi sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng đức tân thiên tử !". Thần ứng thanh, hiện ra nơi da cây bốn câu rằng:
Đức kế càn khôn lớn
Oai thanh yên tám miền
Cõi âm nhờ ân huệ
Nhuần thấm phong Xung thiên.
Thái Tổ đọc thấy, biết ý của thần, ban hiệu là Xung thiên thần vương. Bài thơ tự nhiên biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ tạc tượng của thần, dung nghi hùng vĩ, và tướng hầu tám pho. Sơn thếp xong rồi, lại hiện ở dưới đại thụ một bài thơ bốn câu:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc
Bóng mặt trời lên non.
Sư đem bài kệ trình vua. Thái Tổkhông hiểu nó nói gì. Về sau nhà Lý tám đời thì truyền ngôi cho nhà Trần. Chữ Bát cùng với chữ bát giống nhau. Một tám tức như tám. Huệ Tôn tên là Sám, đấy gọi là "trời lên non". Nó thần diệu như vậy đó.
Truyện Xung thiên chiêu ứng thần vương của Lĩnh nam trích quái truyện cũng trùng trường hợp như vừa dẫn, trừ một số những sai khác về văn cú và điểm xuất phát, mà theo nó thì chuyện này rút ra từ Cổ pháp ký và Kỷ đức ký. Tuy nhiên cứ Toàn thư B4 tờ 34a4-b1 trong lời bàn của Ngô Sĩ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì nhân vật chính của chuyện không phải là Đa Bảo, mà là Vạn Hạnh. Liên viết: Thế truyền Lý Thái Tổ lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ pháp đến thăm chùa làng Phù đổng. Có thần nhân đề thơ trên cột chùa rằng:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.
Sư Vạn Hạnh đem bài thơ dâng lên. Lý Thái Tổ xem, nói rằng: "Việc thần nhân không thể hiểu được". Người đời truyền tụng nó, mà không biết nó nói gì. Đến khi họ Lý mất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Bởi vì Huệ Tôn trở lên đến Thái Tổ có tám đời, mà Huệ Tôn tên Sám, tức trời lên non thì bóng mất". Như thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra phải là Vạn Hạnh chứ không phải Đa Bảo. Và cứ vào đấy, thì những bài thơ trên cũng phải là của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh. Việt sử tiêu án 1 tờ 128a6-9 cũng ghi lại chuyện Lý Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên.
hoatihon
06-07-2015, 04:56 PM
Nga nga lưỡng nga nga
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngangaluongnganga_zpsab40aa74.jpg
hungcom
06-07-2015, 05:00 PM
Thế Hệ Thứ Sáu (3 người, 1 người khuyết lục)
7. TRƯỞNG LÃO Định Hương (? - 1075)
Chùa Cảm ứng, Ba sơn, phủ Thiên đức, Sư họ Lã, người Châu minh, gia thế dòng tịnh hạnh.
Thuở nhỏ thọ giáo với Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến sơ. Trải qua 24 năm, môn đồ của Bảo có hơn trăm người , chỉ có Sư cùng với Quốc Bảo Hòa được chọn làm thủ lãnh, nhưng Sư thấu rõ nhất tôn chỉ của Bảo.
Một hôm Sư hỏi Bảo: "Làm thế nào để thấy được chân tâm?"
Bảo dạy: "Chính ngươi tự phát hiện".
Sư bỗng nhiên hiểu được yếu chỉ, liền thưa: "Hết thảy đều như thế, chứ có riêng gì tôi".
Bảo hỏi: "Ngươi đã hiểu chưa?".
Sư đáp: "Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu"(1). Bảo dạy: "Nên đem tâm đó mà quyết chắc"
Sư bưng tai, đứng quay lưng lại. Bảo liền quát "Đi". Sư sụp lạy.
Bảo dạy: "Từ nay ngươi hãy như một kẻ đui điếc trong việc tiếp người".
Đô tướng thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân khâm phục tài đức của Sư, nên mời về chùa đó ở.
Người học vân tập, dạy dỗ dắt dìu, công Sư không ít.
Ngày mồng 3 tháng 3 năm Canh dần (2) Sùng Hưng Đại Bảo thứ 2 (1050) triều Lý Thái Tôn, Sư nhuốm bệnh, họp chúng để từ biệt, đọc kệ:
"Bản lai không xứ sở (3)
Xứ sở ấy chân tông
Chân tông huyền như vậy
Huyền hữu tức không không" (4).
Nói kệ xong, Sư lặng lẽ viên tịch.
_____________
Chú thích :
(1)
Nguyên văn: Đệ tử liễu thời hoàn đồng vị liễu. Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu: "Cho nên Tổ sư nói: "Biết rồi cũng giống như chưa ngộ". Xem Truyền đăng lục 29 tờ 264b25. Xem thêm Long Nha hoà thượng, Cư độn tụng:
Ngộ liễu hoàn đồng vị ngộ nhân
Vô tâm thắng bại tự an thần
Tùng tiền cổ đức xưng bần đạo
Hướng thử môn trung hữu kỷ nhân.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 453 a1-2.
(2)
Nguyên văn: "Sùng Hưng Đại Bảo tam niên Canh dần. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 9a2 và Toàn thư B2 tờ 37b1 thì Canh dần phải nhằm năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ hai, chứ không phải thứ ba. Chữ tam chắc chắn là một viết lộn của chữ nhị, chỉ cần thêm một nét thôi. Chúng tôi dịch theo đề nghị sửa sai này.
(3)
Đồng An Sát thiền sư. Thập huyền đàm:
Diệu thể bản lai vô xứ sở
Thông thân hà cánh hữu tung do.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b9-10.
(4)
Về ý và từ, rút ra từ định nghĩa Không Không trong Đại trí độ luận. "Những gì là Không Không? Trả lời: Tất cả mọi vật đều Không, cái Không ấy cũng Không nên gọi là Không Không"
(Hà đẳng vi Không Không? Nhất thiết Pháp Không thời Không diệc Không, thị danh Không Không).
Đại trí độ luận còn định nghĩa thêm: "Không Không là đem Không mà phá vỡ nội Không, ngoại Không phá ba Không đó gọi là Không Không" (3) Xem Đại trí độ luận 31 tờ 287c24-27
hungcom
06-07-2015, 05:17 PM
8. THIỀN SƯ Thiền Lão (1)
Chùa Trùng minh, núi Thiên phúc (2), Tiên du. Ban đầu Sư đến tham bái Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến sơ, lãnh được tâm yếu rồi đến trác tích tại núi ấy (3). Gió thiền càng nổi, kẻ học hàng nghìn, đông đảo làm cho tòng lâm thịnh vượng.
Vào khoảng Thông Thụy (1034 - 1038), Lý Thái Tôn có lần đến chùa và hỏi Sư rằng:
"Hòa thượng ở núi này đến nay được bao lâu?".
Sư thưa:
"Chỉ biết tháng ngày này
Ai hay xuân thu trước"(4) (*)
Vua hỏi: "Hàng ngày làm việc gì?"
Sư đáp:
"Trúc biết hoa vàng đâu cảnh ngoại (5)
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân" (**)
Vua hỏi: "Có ý chỉ gì?"
Sư đáp: "Lắm lời không ích về sau"
Vua hoát nhiên như có sở đắc.
Khi sắp sai sứ rước Sư về triều làm cố vấn, thì Sư đã viên tịch trước đó (6). Vua rất buồn tiếc, làm thơ thương khóc, sai trung sứ ban nhiều lễ hậu, lập đàn trà tỳ, thu linh cốt, xây tháp ở cửa núi, lại sửa sang rộng rãi chùa Sư, đặt môn đồ lo việc hương hỏa.
Chú thích :
(1)
Thiền Lão đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt. Nhưng có lẽ vì tôn trọng Nguyệt nên chỉ xưng Thiền Lão, rồi sau thành quen. Nhưng cũng có thể tránh húy Nguyệt của Thiện Đạo quốc mẫu.
(2)
Núi Thiên phúc này là một ngọn của núi Tiên du, bởi vì truyện của Đạo Huệ ở tờ 23b5 nói Huệ ở "chùa Quang minh, núi Thiên phúc, Tiên du", nhưng truyện của Cứu Chỉ ở tờ 16b7 nói Chỉ "vào ở chùa Quang minh núi Tiên du". Thì núi Thiên phúc là núi Tiên du, tức núi Lạn kha hay núi Phật tích ở xã Phật tích huyện Tiên du, tỉnh Hà bắc hiện nay. Có lẽ, cái tên Thiên phúc bắt đầu xuất hiện lúc Lý Thái Tôn xây viện Thiên phúc ở núi Tiên du, mà Toàn thư B2 tờ29b7 ghi lại vào năm 1041.
(3)
Từ sơn đây chắc là Tư sơn khắc sai vì tự dạng giống nhau. Hiện tượng này xảy ra nhiều lần trong bản in này. Ngoài ra cứ truyện của Thiền Lão thì Lão không ở nơi nào khác "chùa Trùng minh núi Thiên phúc, Tiên du".
(4)
Tham chiếu câu trả lời của Toàn Phó trong Truyền đăng lục. Có người hỏi Phó: " Hoà thượng tuổi nhiều ít ?" Phó trả lời:
"Thỉ kiến khứ niên cửu nguyệt cửu
Như kim hựu kiến thu điệp hoàng"
(Mới thấy năm qua chín tháng chín
Mà nay lại gặp lá thu vàng.)
Xem Truyền đăng lục12 tờ 297b20-21
(5)
Thúy trúc hoàng hoa. Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu xa, nó nằm ngay trước mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của Thiền sư Đại Châu Huệ Hải:
"Trúc biếc xanh xanh, đều là pháp thân,
hoa vàng dờn dợn, chẳng gì là chẳng phải Bát nhã". (***)
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
(6)
Cứ vào đây thì hình như Thiền Lão phải viên tịch dưới thời Lý Thái Tôn. Nhưng truyện của Quảng Trí ở tờ 18a9-10 nói: "Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059) Sư bỏ đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên du", thì rõ ràng Lão không thể viên tịch dưới triều Lý Thái Tôn được, bởi vì Chương Thánh Gia Khánh là niên hiệu của Lý Thánh Tôn. Lý Thái Tôn mất năm 1054.
__________
Chú thích của hungcom :
(*)
Đãn tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu Xuân Thu
(**)
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân
(***)
Thanh thanh thúy trúc, tổng thị pháp thân
Uất uất hoàng hoa, vô phi Bát Nhã
hoatihon
06-07-2015, 05:20 PM
Đãn tri kim nhật nguyệt
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/dantrikimnhatnguyet_zpsb20f4cd6.jpg
hoatihon
06-07-2015, 05:23 PM
Thúy trúc hoàng hoa
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thuytruchoanghoa_zps199e14d9.jpg
hoatihon
06-07-2015, 05:26 PM
Thanh thanh thúy trúc
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Thanhthanhthuytruc_zps1d546d07.jpg
hungcom
06-08-2015, 04:32 PM
Thế Hệ Thứ Bảy (7 người, khuyết 1)
9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 - 1090)
Chùa Cát tường, kinh đô Thăng Long, Sư họ Mai, tên Trực, người Long đàm Phúc đường, là con người anh bà Linh Cảm thái hậu nhà Lý. Thuở nhỏ thông minh hiếu học, nghe đồn vị trưởng lão tại chùa Mật nghiêm quận mình xem tướng giỏi, nên đến xem thử cho biết. Vị trưởng lão nhìn kỹ rồi bảo: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn". Sư cảm ngộ, giã từ cha mẹ, đến núi Ba tiêu theo học với Định Hương, hầu hạ nhiều năm, nghiên cứu Thiền học, Sư thường trì kinh Viên giác, rõ thấy được phép Tam quán (1). Một tối trong lúc thiền định, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy, những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết (2), sâu rõ ngôn ngữ Tam muội (3), thuyết giảng lưu loát. Sau đó, Sư đến bên tả kinh thành dựng chùa để ở. Người học qui tụ đông đảo.
Có tăng hỏi: "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?"
Sư đáp: "Cúc trùng dương dưới dậu _ Oanh thục khí đầu cành" (4) (*)
Lại hỏi: "Cảm ơn, nhưng người học này không hiểu xin thầy dạy lại".
Sư đáp: "Ngày thì ác vàng dọi _ Đêm đến thỏ bạc soi" (**)
Tăng lại hỏi: "Chân ý Sư đã rõ, Máy huyền ấy thế nào?"
Sư đáp: "Nước đựng đầy thau bưng bất cẫn
Một phen vấp ngã hối mà chi !" (***)
Vị tăng nói: "Cảm ơn thầy".
Sư chỉ nói: "Sóng sông chìm chớ tát _ Gieo mình tự đắm thôi".
Lại hỏi: "Thiếu Thất, Ma kiệt rất huyền, từ xưa đến nay, ai nối nhau làm chủ?"(5).
Sư đáp: "Sáng tối tượng trời do quạ thỏ _ Lõm lồi hình đất nọ núi sông" (6)
Lại hỏi: "Thế nào là căn nguyên đại đạo thẳng đường đi?"
Sư đáp: "Gió lộng bờ cao hay cỏ cứng _ Nhà tan nước mất biết trung lương". (7)
Chú thích :
(1)
Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna). Samatha nguyên nghĩa nó là dừng nghỉ, nghĩa là, làm cho tâm hồn đang tán loạn phải dừng nghỉ lại một chỗ. Do sự thanh trừng các ý niệm sai lầm và hiểu được sự vọng động của các thức, "trí tuệ thanh tịnh phát sinh, thân tâm khách trần theo đấy mà mất hẳn, từ đó bên trong cảm thấy tĩnh tịch nhẹ nhàng. Do sự tịch tĩnh đó nên tâm của các Như Lai mười phương thế giới được hiện rõ như bóng ở trong gương. Phương tiện đó gọi là sa ma tha". Samàpatti nguyên nghĩa là để vào một nơi, tập trung vào một chỗ, nghĩa là "đem cái tâm giác ngộ thanh tịnh, hiểu biết rằng tâm tính và căn trần đều do huyễn hóa mà dấy lên các huyễn để trừ huyễn, biến ra các huyễn để phơi bày mọi thứ huyễn, nên bên trong phát ra lòng đại bi nhẹ nhàng. Phương tiện đó gọi là tam ma bát đề". Dhyàna nguyên nghĩa là suy nghĩ, chiêm nghiệm nghĩa là, "biết rõ rằng thân tâm đều trở ngại vì không biết sự giác ngộ sáng suốt là không dựa vào các thứ ngăn che, vĩnh viễn vượt qua được thế giới có ngăn che và không ngăn che, phiền não và niết bàn cũng không còn vướng mắc nhau, thì niềm nhẹ nhàng tịch diệt phát ra bên trong phương tiện đó gọi là thiền na". Xem Đại Phương Quảng Viên Giác tu đa la liễu nghĩa kinh ĐKT 842 tờ 917c14 tờ 918 a 4
(2)
An nam chí nguyên 3 tờ 209 dẫn đoạn này: "Thiền sư Viên Chiếu là vị sư huyện Thanh Đàm thông minh hiếu học, nghiên cứu Thiền tôn. Một hôm nằm mộng thấy Bồ tát Văn Thù đem dao đến mổ bụng súc ruột dùng thuốc rịt lại. Từ đó những gì đã học trong lòng trở thành rõ ràng như đã từng biết. Về sau tôn phong của Sư nổi lớn". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16 a 4-5.
(3)
Ngôn ngữ Tam muội này, tức là một tên khác của Phân biệt chư pháp cú Tam muội, một trong 108 thứ tam muội do Đại phẩm bát nhã dẫn ra, mà Đại trí độ luận giải thích thế này: "Chứng được thứ Tam muội đó thì có thể phân biệt hết ngôn ngữ văn tự của tất cả các pháp, giảng thuyết cho chúng sanh không vướng mắc trở ngại". Xem Đại trí độ luận 17 tờ 400c 28-29.
(4)
An nam chí lược 15 tờ 147 dẫn đoạn này, rồi bảo là từ Tham đồ hiển quyết. Nó viết: " Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại khái nói rằng: "Một hôm đang ngồi trước nhà, bỗng có một vị sư đến hỏi: "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?"
Chiếu đáp: "Cúc trùng dương dưới dậu _ Oanh thục khí đầu cành.
Sách ấy phần lớn gồm những lời như vậy".
Cứ vào đâu nói "Sách ấy phần lớn gồm những thứ đó" của Lê Tắc, ta có thể kết luận rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ trong truyện này đều rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không là toàn bộ Tham đồ hiển quyết, mà các tác giả Thiền uyển tập anh đã chép vào đây. Chúng tôi nghĩ rằng, nó rất có thể là toàn bộ, bởi vì so với phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, số thoại ngữ dẫn ra đây lên tới đến 180 câu hỏi đáp, trong khi của Thượng sĩ ngữ lục chỉ tới 96 câu mà thôi, thì cũng đủ thấy nó đã đầy đủ tới mức nào . Dầu một phần hay toàn bộ, ta có thể nói rằng Tham đồ hiển quyết là tác phẩm văn học và tư tưởng xưa nhất của đời Lý được bảo tồn dưới một dạng hình trọn vẹn.
(5)
Bồ Đề Đạt Ma chín năm bích quán trên Thiếu thất. Phật Thích Ca 20 ngày trầm mặc tại Ma Kiệt đà. ở đây muốn nói đến mật chỉ của Phật và Tổ. Lâm Khê Kỉnh Thoát hoà thượng, Nhập đạo thiển thâm tụng:
Thiếu thất dữ Ma kiệt
Đệ đại xưng dương hử
Ngã kim vấn nhữ đồ
Thủy tác tương lai chủ.
(6)
Càn tượng và Khôn duy là những từ lấy ở Chu Dịch, thiên Hệ từ thượng:"Trời cao đất thấp, định ra càn và khôn. ở trên trời thành nên tượng, ở dưới đất tạo nên hình, biến hóa mà hiện ra". Những từ đấy dùng để chỉ trời đất. Từ Nhạc Hoài là để chỉ núi sông. Nhạc tức là Ngũ nhạc, tức năm ngọn núi lớn của Trung quốc, đây tượng trưng cho tất cả núi. Hoài tức sông Hoài, đây chỉ cho tất cả sông.
(7)
Ý và tứ rút từ hai câu của Đường Thái Tôn tặng cho Tiêu Vũ:
Tật phong tri kỉnh thảo
Bản đảng thức thành thần.
Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi dịch:
"Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi lành."
-------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
(**)
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.
(***)
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ,
Nhất tao tha điệt hối hà chi.
hungcom
06-08-2015, 04:34 PM
Lại hỏi: "Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Trăm năm sau sẽ về đâu?"
Sư đáp: "Rùa mù chui vách đá
Trạch què bò núi cao"
Lại hỏi: "Xanh xanh trúc biếc thảy chân như (1). Thế nào là dụng của chân như?".
Sư đáp: "Tặng anh ngàn dặm xa
Cười mang một bình trà" (2)
Tăng thưa: " Đến suông có ích gì là sao?" (3)
Sư đáp: "Ai biết đi Đông a
Nửa đường đầu đã bạc" (4)
Lại hỏi: "Đã hiên một cửa vắng
Thong thả gõ ai hay" (5)
Sư đáp: "Kim cốc đìu hiu hoa cỏ rối
Mà nay hôm sớm thả trâu dê".
Tăng thưa: "Vì sao như vậy?"
Sư đáp: "Giàu sang cùng kiêu thái
Lầu chợ khiến tan hoang" (6)
Lại hỏi: "Long nữ dâng châu thành Phật quả,
Đàn na bố thí phước ra sao?" (7)
Sư đáp: "Trong trăng quế muôn thuở
Rậm, thưa vẫn một vành".
Tăng thưa: "Nhọc mà vô ích là sao?" (8)
Sư đáp: "Như gương treo trên trời
Nhân gian soi khắp nơi".(9)
Lại hỏi: "Qua sông phải dùng bè _ Đến bến hết cần ghe
Khi không qua sông thì sao?" (10)
Sư đáp: "Ao khô cá lên cạn
Sống cả vạn năm xuân".
Tăng thưa: "Thế nào là "Theo dòng mới đạt được Diệu lý?"(11)
Sư đáp: "Nghe nói bạn Kinh Kha
Một đi không trở lại" (12)
Lại hỏi: "Lẫn lộn quặng vàng cùng một chất
Xin thầy phương tiện luyện tinh ròng" (13)
Sư đáp: "Không phải khách Tề quân
Sao biết biển cá lớn" (14)
_____________
Chú thích :
(1)
Có người hỏi Thiền sư Viên Chiếu: "Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?" Chiếu đáp: "Nhọc người xa đến". Hỏi: "Thế thì chẳng phải là một tạng tròn sáng hay sao?". Chiếu đáp: "Xin uống một chén trà". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367c13-15.
(2)
Có người hỏi Thiền sư Án Xương: "Khi không chịu bàn bạc thì sao?" Xương đáp: "Thì đến mà làm gì?". Hỏi: "Đến cũng không bàn bạc". Đáp: "Đến suông cũng ích gì?" (Không lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363 b 15-17.
(3)
Có người hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Pháp thân và Bát nhã là gì? Hải đáp: "Xanh xanh trúc bíêc đều là pháp thân, dờn dợn hoa vàng chẳng cái nào là chẳng Bát nhã". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247 c15.
(4)
Đông a, nơi ông già hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là bầy tôi nước Hàn. Khi Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung quốc, Lương muốn báo thù cho nước, nhưng không có cách nào thành công. Môt hôm gặp một ông già trên cầu. Ông đánh rơi chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm. Lương dầu tức giận, vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho Lương và dặn Lương sau 13 năm đến gặp ông ở Cốc thành. Bùi Ân chùa Cốc thành ở huyện Đông a. Xem Sử ký 55 tờ 2b2-4.
(5)
Dã Hiên, tên một vị Thiền sư. Những tài liệu Phật giáo và Thiền tông Trung quốc không ghi một ai có tên như vậy cả. Trong Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tôn viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục tờ 40a4-5, Trần Nhân Tôn nói rằng trong khi để tang mẹ mình thì có yêu cầu Tuệ Trung "giảng hai lục Tuyết đậu và Dã hiên". Tuyết đậu lục là của Thiền sư Trùng Hiển ((980-1052). Còn
Dã hiên lục của ai, thì nay ta không rõ. Rất có thể là tác phẩm của một Thiền sư Việt Nam. Nếu Dã Hiên là một Thiền sư Việt Nam thì ông phải sống trước thời Viên Chíêu, tức trước năm 999.
(6)
Kim Cốc, nơi Thạch Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực kỳ tráng lệ xa hoa và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu tự tử, hiện ở phía tây bắc huyện Lạc dương, tỉnh Hà nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.
(7)
Long nữ hiến châu. Điển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội Linh sơn và thành Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 12, phẩm Đề Bà Đạt Đa tờ 3a-b. Xem thêm Hoà thượng Đan Hà Ngoạn châu ngâm:
Long nữ Linh sơn thân hiến Phật
Bần nhi y hạ kỷ ta đà.
(8)
Lao nhi vô công. Chữ lấy từ thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu: "Cầu chi kỳ bản, kinh tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi vô công." (Tìm cái gốc nó thì qua tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô ích). Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 3a8, thành ngữ Lao nhi vô công cũng thường dùng trong Phật giáo để chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh độ.
(9)
Có người hỏi Thiền sư Âu Chương:
"Thế nào là: Một vầng trăng treo
Muôn nước đều thấy ?"
Chương đáp: "Khó nói với kẻ nhắm mắt". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.
(10)
Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim Cang:
"Nên biết rằng Ta nói pháp cũng như thí dụ về chiếc thuyền" (*). Xem Kim Cang kinh tờ 749b10. Vĩnh Gia Huyền Giác, Quán tâm thập môn:
Nhiên độ hải ưng thượng thuyền
Phi thuyền hà năng độ?
(Nhưng qua biển phải lên thuyền,
Không thuyền sao qua được?)
Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19
(11)
Tùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ:
Tâm tuỳ vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỷ phục vô ưu
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24-25
(12)
Điển Kinh Kha đi sứ Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và khách khứa tin Kinh Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh đàn, Kinh Kha tiến mà ca:
"Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi hề không trở về"
Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11
(13)
Thí dụ vàng quặng của kinh Viên giác: "Thiện nam tử, như luyện quặng vàng, vàng không phải do luyện mà có. Khi đã thành vàng rồi thì không trở lại làm quặng nữa, trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không hoại mất". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 915c17-18.
(14)
Điển của Tề Văn trong Chiến quốc sách và của thiên Thuyết lâm trong Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn xây thành
Tiết. Có nhiều người can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, nếu ai xin vô để can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin vô để nói ba tiếng thôi, rồi chết cũng đành. Quách Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba tiếng "Biển cá lớn", rồi vọt chạy. Quách Quân ngạc nhiên cho gọi lại. Người khách mới giải thích ba chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi xây thành Tiết. Xem Chiến quốc sách 8 tờ 1b-2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a.
_________
Chú thích của hungcom :
(*)
"Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết:
Nhữ đẳng Tỳ kheo, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp!"
(Do bởi nghĩa trên, cho nên Như Lai thường hay nói rằng :
Tỳ kheo các ông nên biết, lời Như Lai nói pháp cũng như thuyền bè, chỉ tạm dùng để qua sông. Phật pháp còn không được cố chấp hà huống chi Thế gian pháp.)
(Kinh Kim Cang)
hoatihon
06-08-2015, 04:51 PM
Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/KKC14_zps78b98f7d.jpg
hungcom
06-08-2015, 04:55 PM
Tăng thưa: "Quách quân nếu không nhận
Can gián chẳng làm chi".
Sư đáp: "Nếu muốn bưng uống trước
Vẽ rắn khéo hãy thôi" (1)
Lại hỏi: "Rắn chết giữa đường
Xin thầy cứu sống" (2)
Sư đáp: "Ngươi là người phương nào?".
Tăng đáp: "Vốn người ở núi".
Sư dạy: "Mau về non cũ ẩn
Chớ gặp Hứa Chân Quân" (3)
Lại hỏi: "Hải tạng (4) mênh mông không nên hỏi
Tào khê từng giọt nghĩa ra sao?"
Sư đáp: "Rừng tùng tiếng gió thê lương thổi,
Mưa tạnh bùn nhơ ngập lối đi".
Tăng thưa: "Không khác với ngày nay, là thế nào?" (5)
Sư đáp: "Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày nắng đầu cành".
Lại hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng
Rành rành trong chốn sắc thân
Nhưng lý không thể phân
Tướng không thể thấy
Vì sao không thấy được?" (6)
Sư đáp: "Trong vườn hoa rực rỡ
Trên bờ cỏ tràn lan".
Tăng thưa: "Năm lạnh mầm non rụng
Lấy gì để thưởng công".
Sư đáp: "Mừng cho ông tự rõ
Sung sướng biết chừng nào !"
Tăng thưa: "Hôm nay, may nghe giải
Từ nay hết hoang mang ".
Sư dạy: "Đắm cạn vừa vớt ra
Ngoảnh đầu đầm muôn trượng".
Lại hỏi: "Trong thành Niết bàn vẫn còn nguy hiểm (7)
Thế nào là chỗ không nguy hiểm?".
Sư đáp: "Trên rèm che làm tổ
Cành lau xõa tóc mai".
Tăng thưa: "Nếu gặp lúc cấp bách Đôi đường xử lẽ nào ?".
Sư đáp: "Trượng phu theo phóng khoáng
Trăng gió hãy vui chơi" (8)
Lại hỏi: "Hết thảy chúng sanh đều bảo là Phật, lẽ ấy chưa tường, mong thầy chỉ dạy?".
Sư đáp: "Nông trang hãy gắng khuyên anh thế Đợi thỏ người kia chớ nhọc theo" (9)
Tăng thưa: "May được thầy chỉ rõ
Trọn chẳng đến ai tìm".
Sư dạy: "Khá thương một lần nghẹn
Ngồi đó trót quên ăn”.
Chú thích :
(1)
Điển của Tề Văn 2 trong Chiến quốc sách. Nước Sở có hai người thi vẽ rắn để uống rượu. Một người vẽ xong trước lại vẽ rắn thêm chân. Người vẽ xong sau không chịu, cho rằng rắn không có chân, rồi giựt ly rượu mà uống.
(2)
Thiền sư Thanh Lâm:
Tử xà dương đại lộ
Khuyết tử mạc đương đầu
(Rắn chết giữa đường lớn
Xin ông chớ đương đầu)
(3)
Hứa Chân Quân, tên tục là Hứa Tốn làm quan lịnh Tinh dương đời Bắc ngụy. Theo truyền thuyết, ông sau theo đạo thần tiên và bay lên trời, đến đời nhà Triệu Tống thì được phong là Thần công diệu tế chân quân. Cái tên Hứa Chân Quân do thế mà có.
(4)
Hải tạng : chỉ đạo Phật trong kinh điển hay tất cả kinh điển đạo Phật. Tào khê, chỉ cho Thiền phái. Phật Quả tham bái Chân Giác Thắng. Thắng chích cánh tay chảy máu rồi nói: "Đây là một giọt Tào khê".
(5)
Bất dị kim thời : đặc ngữ của Thiền chỉ cho việc sau khi giác ngộ không khác gì lúc chưa giác ngộ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập nhị thời tụng:
Giả sử tâm thông vô lượng thì
Lịch kiếp hà tằng dị kim nhật
(Giả sử lòng thông từ vô thỉ
Nhiều kiếp sao từng khác hôm nay).
(6)
Thiền sư Minh Giác thượng đường, có vị sư hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng, mà tướng không thể thấy, rành rành trong vòng sắc trần mà lý không thể phân. Đã ở trong khoảng mắt lòng sao lại không thấy tướng của nó?” (Chiêu chiêu ư tâm mục chi gian, nhi tướng bất khả đổ. Hoảng hoảng tại sắc trần chi nội nhi lý bất khả phân. Ký ư tâm mục chi gian, vi thập ma bất đổ kỳ tướng?)
(7)
Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm, "hồi cơ":
Niết bàn thành lý thượng do nguy
Mạch lộ tương phùng một định kỳ
Quyền quải cấu y vân thị Phật
Khước trang trân ngự phục danh thùy
Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ
Thạch nữ thiên minh tải mạo qui
Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt
Tái tam lao lộc nãi ưng tri.
(Niết bàn thành ấy vẫn còn nguy
Đường phố gặp nhau chẳng hẹn kỳ
Giả mặc đồ dơ tên gọi Phật
Nếu mang áo ngự gọi tên gì
Nửa đêm người gỗ mang giày mất
Vừa sáng gái trơ đội mũ về
Đầm biếc ngàn xưa trăng luống giọi
Ba lần mò mẫm mới hay ri).
(8)
Long Đàm Sùng Tín hỏi Đạo Ngô: "Làm sao để quyết chắc?"
Ngô nói: "Nhiệm tính tiêu diêu
Tuỳ duyên phóng khoáng"
(Tiêu diêu mặc tính
Phóng khoáng tùy duyên)
(9)
Điển rút từ thiên Ngũ đồ trong Hàn Phi Tử. Nước Tống có người làm nông gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau anh ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác. Thỏ khác đã không được, mà còn bị cả nước Tống cười.
hoatihon
06-08-2015, 05:06 PM
Ly Hạ trùng dương cúc
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Lyhatrungduongcuc_zpse53bb899.jpg
hungcom
06-08-2015, 05:09 PM
Lại hỏi: "Bao năm dồn chứa ngọc trong túi (1)
Tận mặt hôm nay thấy rõ rành”
Sư đáp: "Trăng trung thu chờ mãi
Gặp phải mây mưa xông" (2)
Tăng thưa: "Tuy nghe thầy dạy bảo
Lý đó vẫn chưa thông".
Sư dạy: "Cười người suông ôm cột
Chết đuối nhắm giữa dòng !" (3)
Tăng hỏi: "Thế nào là một phái?" (4)
Sư đáp: "Vừa thấy Xuân gieo và Hạ lớn
Gặp ngay Thu chín với Đông thâu".
Tăng thưa: "Thành Phật nhiều thế là sao?".
Sư đáp: "Tổ Long thôi nghĩ chạy
Từ Phúc luống đường xa" (5)
Tăng hỏi: "Kiến tính thành Phật, nghĩa ấy thế nào?".
Sư đáp: "Xuân đến cây khô hoa đua nở
Gió đưa ngàn dặm nức hương thần" (6)
Tăng thưa: "Học nhân không hiểu, xin thầy dạy lại".
Sư đáp: "Muôn năm cây cà ấy, (7)
Xanh ngát tận chân mây".
Lại hỏi: "Ma ni cùng các sắc
Chẳng hợp chẳng phân ly" (8)
Sư đáp: "Hoa xuân cùng bươm bướm
Lúc luyến lúc ruồng nhau".
Tăng hỏi: "Theo người xen lẫn là sao"
Sư đáp: "Chẳng phải mắt Hồ tăng (9)
Uổng công dâng ngọc Biện" (10)
Lại hỏi: "Thế nào là chạm mắt là Bồ đề?" (11)
Sư đáp: "Cây cong chim mãi sợ
Dưa nguội người thổi hoài".
Tăng thưa: "Học nhân không hiểu, xin thầy cho ví dụ khác".
Sư đáp: "Kẻ điếc nghe tiếng đàn
Người mù ngắm bóng trăng".
Lại hỏi: "Vốn đã có hình thêm có ảnh
Có lúc ảnh cũng lìa hình sao?".
Sư đáp: "Trăm sông đổ về Đông kìa, muôn dòng đua chảy.
Ngàn sao chầu Bắc đẩu kìa, thiên cổ quy tâm".
Lại hỏi: "Thế nào là một câu tỏ ngộ, vượt muôn ngàn?" (12)
Sư đáp: "Xa kẹp Thái sơn qua biển Bắc
Ngửa quăng gậy chống vào cung trăng."
__________
Chú thích :
(1)
“Nang trung bảo” từ rút ra từ khác phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký của kinh Pháp hoa, nhằm chỉ cho Phật tánh sẵn có trong mọi người. Thơ của Thiền sư Đỗ Lăng :
Ngã hữu thần châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao cơ tỏa
Kim triêu trần tịnh quang sanh
Chiếu kiến sơn hà vạn đóa. (**)
(Ta có ngọc thần một quả
Lâu bị bụi trần phủ xoá
Sáng nay bụi sạch sáng ra
Soi thấu sơn hà muôn đóa).
(2)
Có người hỏi Âu Chương: "Bỗng nhiên không mây, thì trăng trung thu ra sao?". Chương đáp: "Tốt nhất là không mây".
(3)
Điển lấy từ thiên Đạo chích của Trang Tử : Vỹ Sinh có hẹn với một đứa con gái dưới cầu. Người con gái ấy không đến. Nước sông dâng lên. Vỹ Sinh ôm cột cầu mà chết.
(4)
"Một pháp" hay "nhất pháp", nếu muốn cho đủ thì phải nói:
"Thật tế lý địa
Bất thọ nhất trần
Phật sự môn trung
Bất xả nhất pháp".
(5)
Tổ Long, một biệt hiệu của Tần Thỉ Hoàng, hâm mộ thuật trường sinh, sai Đạo sĩ Từ Phúc, cũng có tên là Từ Thị, dẫn một ngàn đồng nhi ra biển Đông tìm Bồng lai vào năm 217 trước Tây lịch. Bồng lai đâu không thấy, mà bảy năm sau, Tần Thỉ Hoàng chết. Và họ chẳng bao giờ trở về.
(6)
Có người xin Viên Chiểu "Chặt đứt cội gốc"
Chiểu đáp: "Ít gặp khách sâu mũi
Nhiều trạm người khắc thuyền"
Hỏi: "Chính vào lúc đó thì sao?"
Chiểu đáp: "Rùa mù gặp gỗ đầu yên ổn
Cây héo sinh hoa vật ngoại Xuân".
(7)
Có người hỏi Thiền sư Huệ Thanh: "Xưa Phật chưa ra đời thì như sao?". Thanh đáp: "Ngàn năm gốc cà ấy" (Thiên niên già tử căn).
(8)
Thiền sư Văn Ích, Văn Ích tụng:
Ma ni bất tuỳ sắc
Sắc lý vật ma ni
Ma ni dự chứng sắc
Bất hiệp bất phân ly
(Ma ni không theo sắc)
Trong sắc chẳng ma ni
Ma ni cùng các sắc
Không hiệp không phân ly)
(9)
Hồ Tăng Nhãn : Bồ Đề Đạt Ma thường được các môn đệ thiền gọi là Bích nhãn hồ tăng, "thầy tu Hồ (người Ấn độ) mắt xanh".
(10)
Điển rút từ thiên Hoà thị của Hàn phi tử. Biện Hòa người nước Sở được ngọc phác, dâng Lệ Vương, bịchặt hết một chân, vì Lệ Vương cho là dối, sau lại dâng vua kế vị là Vũ Vương, lại bị chặt một chân nữa cũng cùng lý do.
(11)
«Xúc mục Bồ Đề » : nhìn bất cứ đâu cũng thấy là giác ngộ cả. Thạch Sương Khánh Chư tham kiến Đạo Ngô, hỏi: "Thế nào là xúc mục bồ đề?". Đạo Ngô gọi sa di. Sa di đáp: "Dạ". Đạo Ngô nói: "Thêm nước vào tịnh bình".
(12)
Dẫn Vĩnh Gia Huyền Giác, Chứng đạo ca:
Phần cốt tuỷ thân vị túc thù (*)
Nhất cú liêu nhiên siêu bách ức
(Nát thịt tan xương chưa đủ đền
Một câu rõ được vượt muôn ngàn).
------------
Chú thích của hungcom :
(*)
“Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức”.
(**)
Thiền sư Úc ở Trà Lăng (Trung Hoa đời Tống) một hôm cỡi ngựa đi qua cầu ván, chân ngựa sụp lỗ hổng, Thiền sư té nhào bỗng đại ngộ, đọc bài kệ:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa,
Cửu bị trần lao quan tỏa.
Kim triêu trần tận quang sanh,
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Dịch:
Ta có một viên minh châu,
Đã lâu vùi tại trần lao.
Hôm nay trần sạch sáng chiếu,
Soi tột núi sông muôn thứ.
http://www.thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/bavandetrongdoitu/unicode/chuong02.html
hoatihon
06-08-2015, 05:17 PM
Phấn cốt toái thân vị túc thù
http://i1298.photobucket.com/albums/ag54/Hac_phong/battunghigiaithoatluc_zps6450886f.jpg
hoatihon
06-08-2015, 05:19 PM
Ngã hữu minh châu
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngahuuminhchau_zps0744c8f1.jpg
hungcom
06-08-2015, 05:21 PM
Lại hỏi: "Chỉ một sự này Thật,
Còn hai chẳng phải Chân (1)
Thế thì, Chân là gì?".
Sư đáp: "Gió dễ lay đầu gậy
Mưa thành nẩy trên đường".
Lại hỏi: "Không nhắm Như Lai xin Diệu tạng
Không mong lửa tổ nối đèn chong
Ý chỉ rốt ráo thế nào?".
Sư đáp: "Trời thu lúa xào xạt
Cảnh tuyết mẫu đơn cười".
Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?"
Sư đáp: "Một người ngoảnh mặt khóc
Cả tiệc uống không vui" (2)
Lại hỏi: "Xưa nay việc lớn xin không hỏi
Điểm lạ Tây lai ý thế nào?" (3)
Sư đáp: "Kẻ khéo lời đẹp mặt (4)
Phường đập ngói hong rùa" (5)
Lại hỏi: "Tâm, pháp đều quên, thì tính tức chân (6)
Thế nào là chân?".
Sư đáp: "Đàn Bá Nha gió khua sân trúc (7)
Lệ Nữ Thần mưa rắc hoa non (8)
Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?".
Sư đáp: "Yếu hầu còn mắc nghẹn
Yên ở chẳng vui gì".
Lại hỏi: "Có tu có chứng, khơi bốn bệnh (9)
Ló đầu sao được thoát hồng trần".
Sư đáp: "Núi cao chất nhất dung muôn vật
Biển rộng bao la chứa vạn sông".
Lại hỏi: "Chỉ có Phật với Phật mới biết việc đó (10)
Thế thì việc đó là thế nào?".
Sư đáp: "Đường hẹp chi chít trúc
Gió thổi nhạc tự thành".
Lại hỏi: "Chẳng cần bình thường, chẳng cần thiên nhiên,
chẳng cần tác dụng, thì nay làm gì đây?".
Sư đáp: "Cỏ bồng én đậu thấp
Biển rộng ẩn cá lân".
Lại hỏi: "Tứ đại mang về từ nhiều kiếp
Xin thầy phương tiện thoát luân hồi".
Sư đáp: "Loài thú trên đời Tê là quý
Nó ăn gai góc mẹp bùn nhơ" (11)
Chú thích :
(1)
Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy nhất là sự thật, hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền biến.
(2)
Nguyên văn:
"Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan."
Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý của hai câu này, chúng ta phải đọc:
"Nhất nhân hướng ngung khấp
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu:
"Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Lý Thiện chú thích nó thế này: "Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ giống như một nhà. Nay cả nhà uống rượu, một người riêng bỗng nhiên ngoảnh mặt khóc thì người trong nhà đều không vui". (Thuyết uyển viết: Cổ nhân ư thiên hạ nhất chi đường thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu nhất nhân độc sách thiên hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai bất lạc).
(3)
Việc lớn hay đại sự tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con đường để đi vào tri kiến giác ngộ. Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Đề Đạt Ma.
(4)
Dẫn chữ từ thiên Học nhi của Luận ngữ: "Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ nhân". (Kẻ khéo nói, đẹp mặt, thường ít có lòng nhân).
(5)
Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ"Toản qui" xuất xứ của nó từ phần Quy sách trong Sử ký 128 tờ4a7-8. Theo đó thì "Bậc vương giả ra quân làm tướng tất phải toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt xấu". Lời chua của Dương Kinh trong thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ10a3 viết: "Toản qui tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa". Toản qui do thế có nghĩa là bói rùa. Còn Đả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích của quan làm việc Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di chủ trương không cho họ dự vào hàng thanh phẩm.
(6)
Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính trượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân.
(Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ còn như vết trên gương
Vết bụi chùi sạch gương mới sáng
Tâm pháp đều quên tính tức chân).
(7)
Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu nói: "Bá Nha đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh đờn, và ý nghĩ đến Thái sơn, Chung Tử Kỳnói: "Đánh đờn hay thay ! cao ngất như núi Thái sơn!". Một chặp, Nha lại nghĩ đến dòng nước chảy, Chung Tử Kỳnói: "Đánh đờn hay thay ! ồ ạt như dòng nước chảy !". Chung Tử Kỳchết, Bá Nha phá đờn, cắt dây. Suốt đời không còn đánh đờn lại nữa, cho rằng đời không còn ai còn đủ khả năng nghe mình đánh đờn nữa".
(8)
Vũ trích nham hoa, Thiền sư Minh Giác, có người hỏi « bản nguyên chư Phật ra sao ? », đáp: "Màu lạnh ngàn núi". Lại hỏi: "Nguyên ủy hướng thượng có có không?". Sư đáp: "Mưa rơi hoa non" (Vũ trích nham hoa).
(9)
Bốn bệnh: tức bệnh làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh), bệnh đình chỉ (chỉ bệnh) và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà người ta gặp phải trên con đường đi tìm sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên Giác, định nghĩa bốn bệnh như sau: Bệnh làm ra xảy ra khi người ta nghĩ rằng "tôi làm ra các hạnh để cầu Viên giác". Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng: "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với « Niết bàn sinh tử » không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên Giác" (*). Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng "tự tâm tôi, tôi đứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch diệt để cầu Viên giác". Bệnh huỷ diệt có được khi người ta nói rằng: "tôi diệt hết tất cả phiền não thân tâm hoàn toàn không, không có, huống hồ là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 920b.
(10)
Chữ lấy từ kinh Pháp hoa: "Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng" (chỉ người giác ngộ với người giác ngộ mới có thể rõ hết thật tướng thật của tất cả mọi vật).
(11)
Nội thiên trong Bảo phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: "Con Tê giác sở dĩ nó có thể chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên ăn mọi thứ có độc và những cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ cỏ cây mềm dẻo bao giờ".(Thông thiên tê sở dĩ năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên thực bách thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng thực nhu hào chi thảo mộc).
------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Câu này : "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với « Niết bàn sinh tử » không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên Giác", đề nghị sửa lại như sau :
"tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với "Niết bàn và Sinh tử" tôi không có ý niệm cần thoát ra, tôi phó mặc cho tất cả, tôi không cần phải tuỳ thuận pháp tính để làm gì !"
Lý do : Câu "Tùy thuận pháp tính để cầu Viên Giác" KHÔNG PHẢI LÀ BỆNH NHIỆM, mà là thái độ đúng đắn của Phật tử Đại Thừa.
hoatihon
06-08-2015, 05:23 PM
Tâm thị căn, Pháp thị trần
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamthican_zps7234f351.jpg
hungcom
06-08-2015, 05:25 PM
Lại hỏi: "Mọi thứ thủ xả đều luân hồi, không thủ không xả thời thế nào?" (1)
Sư đáp: "Giềng hồng đẹp đẽ xưa nay vậy
Có lá sum sê chẳng có hoa".
Lại hỏi: "Dứt hết nói năng ý ấy thế nào?" (2)
Sư đáp: "Theo gió tiếng còi luồn bụi trúc
Kèm trăng trái núi quá đầu tường".
Lại hỏi: "Chư Phật thuyết pháp là để giáo hóa mọi loài,
nếu hiểu được bản ý thì gọi là xuất thế, bản ý là gì?".
Sư đáp: "Xuân dệt hoa như gấm
Thu sang lá tựa vàng".
Lại hỏi: "Thế nào là một đường nhắm thẳng?" (3)
Sư đáp: "Đông tây xe ngựa ruỗi
Hôm sớm bụi mờ bay".
Lại hỏi: "Có pháp, có tâm, sinh vọng thức
Làm sao tâm, pháp thảy tiêu vong?".
Sư đáp: "Ví được lá tùng xanh cao ngất
Sá gì sương tuyết lả tả rơi".
Lại hỏi: "Ý tổ và ý kinh thế nào?".
Sư đáp: "Chống trượng lên mây khi thích chí
Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre".
Lại hỏi: "Tổ tổ truyền nhau là truyền những gì?".
Sư đáp: "Đói đến tìm thức ăn
Rét thời xin áo mặc" (4)
Lại hỏi: "Thế nhân đều thuê nhà
Người dột ở đâu ta?".
Sư đáp: "Vầng ô cùng ngọc thố
Tròn khuyết dối nhọc chia".
Lại hỏi: "Thế nào là con đường duy nhất đến Tào khê?".
Sư đáp: "Khá thương kẻ khắc thuyền (5)
Rốt cuộc ý hoang mang".
Sư từng soạn Dược sư thập nhị nguyện văn (6). Vua Lý Nhân Tôn lấy bản thảo của Sư, sai sứ đem sang Triết Tôn (7) Triết Tôn cho mời Pháp sư Cao tòa chùa Tướng quốc đến xem (8). Xem xong liền chắp tay lạy, mà nói rằng: "Phương Nam có bậc Đại sĩ nhục thân ra đời, ấy là vị Pháp sư khéo giảng kinh điển vậy. Bần đạo đâu có thể dám thêm bớt". Nhân đó chép lại một bản, rồi giao trả bản cũ. Sứ giả trở về thuật lại vua nghe, vua rất khen thưởng.
Vào một ngày tháng chín năm Canh ngọ Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:
Thân như tường vách đổ xiêu rồi,
Thiên hạ bồn chồn xót dạ thôi,
Nêu rõ tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện mặc xoay dời. (*)
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ. Có để lại tập Tán Viên Giác kinh, Thập nhị bồ tát hành tu chứng đạo trường và Tham đồ hiển quyết một quyển (9) ngày nay còn truyền ở đời (10)
Chú thích :
(1)
Ý rút ra từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Xả vọng tâm, thủ Chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
(Bỏ lòng vọng, lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo).
(2)
Ngôn ngữ đạo đoạn. Luận Đại trí độ: Thế nào là Chân lý tuyệt đối?" Đáp: "Tất cả ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt"
(nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt). Xem thêm Tín Tâm Minh:
Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Khứ lai phi kim. (**)
(3)
Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, có người hỏi: " Thiền nào là một đường thẳng?". "Nhắm thẳng vào chỗ cong". Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác: "Trực diệt căn nguyên của Phật sở ấn" (***)
(4)
Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung quốc sư: "Cơ tức nghiết phạn, hàn tức trước y. (Đói thì ăn cơm, rét thì mặc áo).
(5)
Khắc chu khách. Điển lấy từ Thiện thận đại lãm của Lã thị xuân thu. Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó. Xem Bách dụ kinh ĐKT 209 tờ 545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:
Bảo kiếm bất thất
Hư chu bất khắc
Bất thất bất khắc
Bất tử vi đắc.
(6)
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn ghi: "Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển Long Đàm Viên Chiếu thiền sư soạn ".Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi :"Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển", mà không ghi tác giả. Đây chắc là một bài văn phát triển 12 nguyện của Phật Dược Sư, trong kinh Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh này.
(7)
Đây chắc phải là Sứ bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và Phó hiệu uý Đỗ Anh Bối làm chánh và phó sứ dẫn đầu, bởi vì Triết Tôn lên ngôi 1086 và đến năm 1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi một bộ phái khác sang kết hiếu. Do thế nếu phái bộ ngoại giao năm 1090 có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn sang Tống để cho các nhà sư Tống ngợi ca, thì ở nhà Viên Chiếu đã mất, nên Chiếu không thể nào nhận lời khen của Lý Nhân Tôn được.
(8)
Pháp sư Cao Tòa ở đây có thể là Thiền sư Đại Bản .Lâm gian lục quyển hạ tờ 55a5-b2 nói Đại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc dưới thời Tống Thần Tôn và rất có thể sống ở đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.
(9)
An nam chí lược15 tờ157: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ hiển quyết đại lược nói: "Một hôm khi đang ngồi trước nhà, bỗng có 1 vị Tăng hỏi: "Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?". Đáp: "Dưới dậu thu cúc rậm. Đầu cành xuân yến ca". Sách ấy phần lớn gồm những thứ như thế đó. Cứ vào dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ dẫn chứng trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ của Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là Tham đồ hiển quyết, thì nó là một tác phẩm đời Lý được giữ lại cho tới ngày nay, một tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết học Phật giáo nước ta.
(10)
Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:
1. Dược Sư thập nhị nguyện văn
2. Tán Viên Giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết
Nhưng cứ một câu viết trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở dưới, theo đó, "Viên Chiếu thường có ca thi gởi tặng Bảo Tính, ngợi ca cái chí hướng cao thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên đây không phiền chép ra"
(Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao chí, cụ tại tập trung, tư bất phiền lục). Ta bắt buộc phải nghĩ rằng Chiếu còn có một tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên có lẽ là Viên Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập. (?)
Chú thích của hungcom :
(*)
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
身如墻壁圮頹時
舉世忽忽熟不悲
若達心空無色相
色空隱顕任推移
(**)
"Khứ lai phi kim" (đến và đi không phải bây giờ) câu này tối nghĩa, bản khác chép là "Phi cỗ lai kim" (Chẳng có xưa nay gì cả) : KHÔNG CÓ THỜI GIAN, h/c xin tùy quý đạo hữu chọn.
(***)
Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn
(Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật _ Trúc Thiên dịch)
直截根源佛所印
hoatihon
06-08-2015, 05:27 PM
Xả vọng tâm thủ Chân lý.
http://i1298.photobucket.com/albums/ag54/Hac_phong/xavongtam_zpsb290f893.jpg
hoatihon
06-08-2015, 05:33 PM
Tín tâm bất nhị
http://i1026.photobucket.com/albums/y321/cuong_lavinh/dannangnhuthi_zps70592216.jpg
hoatihon
06-08-2015, 05:35 PM
Thân như tường bích
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thannhutuongbich_zps76107cee.jpg
hungcom
06-09-2015, 08:48 AM
10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ
Chùa Diên linh, núi Long đội, Yên lãng, Người Phù đàm, Châu minh, họ Đàm. Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm sách than rằng:
"Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được". Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm ứng ở Ba sơn thọ Cụ túc với Định Hương trưởng lão.
Ngày cầu đạo, Trưởng lão hỏi: "Thế nào là nghĩa của cứu cánh?".
Sư đáp: "Chưa"
Sơn nói: "Ta với ngươi là nghĩa của cứu cánh rồi !".
Sư ngẫm nghĩ.
Sơn nói: "Qua mất rồi". (*)
Nhờ lời nói đấy, Sư rõ được yếu chỉ. Nhân đó lấy tên Cứu Chỉ. Sau Sư vào chùa Quang minh ở núi Tiên du, tu khổ hạnh đầu đà (1) sáu năm không bước chân xuống núi. Tiếng tăm giáo hóa của sư vang đến tai vua. Vua Lý Thái Tôn nhiều lần cho mời, Sư không đến, nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi. Thái Sư Lương Văn Nhậm cũng rất kính trọng.
Trong khoảng Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) Tể tướng Dương Đạo Gia đem chùa mình, mời Sư về trụ trì. Sư quyết từ không được, đành phải làm theo. Ngày Sư xuống núi bèn nói với mọi người rằng: "Ta không trở lại đây nữa". Chim muông trong rừng kêu thương ba tuần không dứt. Ở vừa ba năm,vào một ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065), khi sắp thị tịch, Sư họp môn đồ dạy rằng:
Tất cả pháp môn
Vốn từ tính ngươi
Tất cả pháp tính
Vốn từ tâm ngươi
Tâm, pháp như một
Vốn chẳng hai pháp
Phiền não trói buộc
Tất cả đều không
Phải quấy, tội phứơc
Tất cả đều huyễn
Không đâu chẳng quả, chẳng nhân
ở trong nghiệp không phân biệt
ở trong báo không phân biệt
Nếu có phân biệt đối với nghiệp
Thì không tự tại
Tuy thấy tất cả pháp
Mà không chỗ thấy
Tuy biết tất cả pháp
Mà không chỗ biết
Biết tất cả pháp
Nhân duyên làm gốc
Thấy tất cả pháp
Chính tâm làm tôn
Tuy nhiễm thực tế
Hiểu rõ thế gian
Đều như biến hóa
Thấu rõ chúng sanh
Chỉ là một pháp
Không có hai pháp
Không bỏ nghiệp cảnh
Phương tiện thiện xảo
Đối giới hữu vi
Bày pháp hữu vi
Mà không phân biệt
Tướng của vô vi
Vì muốn dứt trừ
Vọng niệm so đo
Của ta ấy vậy. (**)
Rồi nói kệ rằng:
"Rõ biết thân tâm vốn lặng yên,
Thần thông biến hóa hiện mọi tướng
Hữu vi vô vi từ đây hiện
Thế giới hà sa không thể lượng
Tuy dù biến khắp cả hư không
Mỗi mỗi xem ra chẳng hình dạng
Ngàn năm muôn năm khó sánh đó
Xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng (2)
Đúng ngọ hôm ấy, dựng đàn trà tì, đồ chúng thu linh cốt của Sư xây tháp phụng thờ.
____________
Chú thích :
(1)
Đầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu này đại khái gồm 12 việc sau: Đấy là mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại , không quá ba cái, đi xin mà ăn (khất thực), chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi quạnh vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, nơi hang động, thường ngồi mà không nằm. Đấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải hoàn thành.
(2)
Nguyên văn:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan thử huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng". (***)
Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (514-577):
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
-------------
Chú thích của hungcom :
(*) Hình như văn bản này đã bị gỏ sai, h/c đã tra cứu một văn bản khác, rõ nghĩa hơn :
Nhân đó Sư xả tục xuất gia, tìm đến Ấp Sơn, chùa Cảm Ứng xin làm đệ tử Trưởng Lão Định Hương.
Giờ tham thỉnh, Sư hỏi: Thế nào là nghĩa cứu cánh ?
Trưởng Lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư: Hiểu chưa ?
Sư thưa: Chưa hiểu.
Trưởng Lão bảo: Ta đã cho ngươi nghĩa cứu cánh.
Sư suy nghĩ.
Trưởng Lão bảo: Lầm qua rồi!
Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng Lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.
http://www.thuongchieu.net/index.php?option=com_content&view=article&id=424:thin-s-cu-ch&catid=33:thin-s-vit-nam&Itemid=356
(**)
"Nhất thiết pháp môn, bản tòng nhữ tính; nhất thiết pháp tính, bản tòng nhữ tâm. Tâm pháp nhất như, bản vô nhị pháp. Khiên triền phiền não, nhất thiết giai không; tội phúc thị phi, nhất thiết giai huyễn. Vô sở phi quả phi nhân. Bất ư nghiệp trung phân biệt báo; bất ư báo trung phân biệt nghiệp. Nhược hữu phân biệt, bất đắc tự tại. Tuy kiến nhất thiết pháp nhi vô sở kiến, tuy tri nhất thiết pháp nhi vô sở tri. Tri nhất thiết pháp, nhân duyên vi bản; kiến nhất thiết pháp, chính chân vi tông. Tuy nhiễm thực tế giải liễu thế gian như biến hoá; minh đạt chúng sinh duy thị nhất pháp, vô hữu nhị pháp. Bất xả nghiệp cảnh, thiện xảo phương tiện, phương ư hữu vi giới thị hữu vi pháp, nhi vô phân biệt vô vi chi tướng. Cái dục tuyệt ngã vọng niệm, kế giác cố dã”.
(Hết thảy mọi pháp môn bắt nguồn từ tính ngươi; hết thảy mọi pháp tính, bắt nguồn từ tâm ngươi. Tâm pháp là một, đâu phải là hai. Tội phúc thị phi, tất cả đều ảo; trói buộc phiền não, tất cả đều không. Chẳng cái gì không phải nhân; chẳng cái gì không phải quả. Chớ nên phân biệt nghiệp với báo; chớ nên phân biệt báo với nghiệp, ắt không tự tại. Dù thấy hết mọi pháp cũng là không thấy; dù biết hết mọi pháp cũng là không hay. Biết hết mọi pháp, nhân duyên là gốc; thấy hết mọi pháp, chính chân là nguồn. Dù đắm trong thực tế vẫn hiểu thế gian đều là biến hoá. Thấu rõ chúng sinh chỉ là một pháp, chứ không phải hai. Không bỏ nghiệp cảnh, đó là phương tiện thiện xảo. Như thế thì ở trong thế giới hữu vi mà chỉ rõ được pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vi. Đó là vì muốn dứt bỏ mọi vọng niệm, mọi sự phân biệt mà thôi).
(***) 心法
覺了身心本凝寂,
神通變化現諸相。
有為無為從此出,
河沙世界不可量。
雖然遍滿虛空界,
一一觀來沒形狀。
千古萬古難比況,
界界處處常朗朗。
hoatihon
06-09-2015, 08:52 AM
Giác liễu thân tâm
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Giaclieiuthantam_zpsae81dd6a.jpg
hungcom
06-10-2015, 10:09 AM
11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034)
Chùa Cảm ứng, Ba sơn, phủ Thiên đức. Đều là người Châu minh, (1) Bảo Tính họ Nghiêm, Minh Tâm họ Phạm. Thuở nhỏ cùng sớm xuất gia, là đôi bạn tri kỹ.
Lúc đầu, cùng với Thiền sư Viên Chiếu, đều thờ Định Hương thượng nhân, sâu hiểu chỗ cốt tuỷ của Hương. Về sau mỗi người mang tâm ấn, tuỳ phương giáo hóa, nổi tiếng là bậc thượng thủ của tòng lâm.
Viên Chiếu thường có ca, thơ gởi tặng Bảo Tính ngợi khen cái chí hướng cao thượng của Sư. (Có đủ ở tập của Chiếu, ở đây không phiền chép).
Hai Sư sống chung thường lấy việc trì tụng kinh Pháp hoa làm phận sự. Trải mười lăm năm, chưa từng trễ nãi tí nào. Mỗi lần tụng đến phẩm Dược Vương (2), họ đều rơi nước mắt, bảo nhau: "Nhân địa của Bồ tát nhiều kiếp huân tu, mà đối với tâm Đại thừa, còn phải phát đại dũng mãnh tinh tấn, không tiếc thân mạng. Huống gì bọn chúng ta ở trong đời mạt pháp, là người mới phát tâm. Nếu chẳng chí thành như vậy, thì đối với chân tâm đại Bồ đề của Đại thừa làm sao có thể mong thấy được !".
Đến tháng tư năm Thiên Thành thứ bảy (1034) hai Sư sắp thiêu thân thì được mời vào triều, bèn mở hội giảng Kinh. Họ cùng vào trong Tam muội Hỏa quang (3). Những hài cốt còn lại đều thành thất bảo.
Có chiếu lưu ở chùa Trường thánh để cúng dường. Lý Thái Tôn cho là linh dị, cải nguyên Thông Thụy (4) dựng tháp thờ.
___________
Chú thích :
(1)
An nam chí nguyên 5 tờ 211 viết: "Hai Thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm là sư huyện Đông ngạn, đứng đầu trong tòng lâm, có lần dựng hội giảng Kinh, cùng vào Hỏa quang Tam muội. Xương cốt đều hoá thành thất bảo".
(2)
Tức phẩm Dược Vương Bồ tát bản sự của kinh Pháp hoa, chép sự tích Bồ Tát Dược Vương tự đốt mình để phụng sự đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Xem Diệu pháp liên hoa kinh
(3)
Hoả quang tam muội, Phạn tejoprabhàsamàdhi, cũng gọi Hỏa quang định, tức một loại thiền định khiến cho thân thể bốc lửa. Xem Bản hạnh tập kinh. "Bấy giờ đức Như Lai cũng vào Hỏa quang Tam muội như thế, thân mình bốc ra ngọn lửa lớn" (Như Lai dĩ thời diệc nhập như thị Hỏa quang Tam muội, thân xuất đại hỏa).
(4)
Toàn thư B2 tờ22a4-6 và Cương mục chính biên2 tờ38b6-39a1 viết: "Thiên Thành năm thứ nhất. Bấy giờ, có hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu thân mình tự thành bảy báu. Vua xuống chiếu đem bảy báu đó giữ lại ở chùa Trường thánh để cúng dường đèn nhang. Vua cho đó là điềm lành, nên cải nguyên là Thông Thụy".
hungcom
06-10-2015, 10:54 AM
Nhất thiết pháp môn
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhatthietphapmon_zps46832b5a.jpg
hungcom
06-10-2015, 10:59 AM
Vô sở phi quả phi nhân
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vosophiquaphinhan_zpseaed300c.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:00 AM
Tuy nhiễm thực tế
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tuynhiemthucte_zps2f9a8d03.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:02 AM
13. THIỀN SƯ Quảng Trí
Chùa Quán đảnh, núi Không lộ (1). Người Kinh sư, họ Nhan, anh của Hoàng phi Chương Phụng, đạo tháo cao khiết, không thích hoa lệ.
Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059), Sư bỏ tục đến tham bái Thiền Lão núi Tiên du. Nhờ một câu nói, Sư ngộ được yếu chỉ. Từ đó ngày tháng miệt mài, dốc chí tu thiền, không đầy một năm mà phong độ tiếng tăm truyền xa. Sau đến núi ấy trác tích, thường mặc áo vá, ăn hạt thông, cùng với sơn tăng Minh Huệ kết bạn phương ngoại. Người ta nói Hàn Sơn, Thập Đắc (2) tái thế. Công bộ thượng thư Đoàn Văn Lim (3) tôn kính, thường tặng thơ rằng:
Chống gậy non cao trút sáu trần
Lặng nương mộng huyễn hỏi phù vân
Ân cần khôn ngỏ tham Trừng Thập (4)
Trói buộc bầy cò lớp áo khăn (5)
Vào ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Quảng Hựu (1085 - 1091), Sư quy tịch. Ông Lim khóc than thảm thiết, rồi đi viếng bằng bài thơ:
Mán rừng đầu bạc lánh thành đô
Hương ngát non cao áo vẫy mờ
Những muốn khăn sồng hầu chiếu giảng
Bỗng nghe cửa viện khép dày trơ (6)
Sân chùa chim vẳng trăng suông dõi
Tháp mộ minh ghi ai viết chừ
Bạn đạo thôi đừng buồn vĩnh biệt
Ngoài am non nước đó hình xưa (7)
-------------
Chú thích :
(1)
Cương mục chính biên 13 tờ34b-5 viết: "Núi Không lộ ở tại huyện Thạch thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn tây, trên núi có chùa Lạc lâm, xưa đó là chỗ hoá thân của Thiền sư Không Lộ, nên có tên đây". Nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Sơn tây, cải chính chú thích vừa rồi của Cương mục chính biên như sau: "Núi Không lộ, xét bia ký chùa Lạc lâm ở tại núi Phụng hoàng xã Sơn lộ, huyện An sơn ngày nay thì chùa do người phương bắc dựng vào thời Lý, không thấy nói Không Lộ thoát hoá ở đấy, trong chùa cũng không có thờ Không Lộ. An nam chí của Cao Hùng Trưng nói ở tại huyện Thạch thất, bởi Thạch thất và Yên sơn xưa là một huyện, mà tên núi lại nhân theo tên xã, mà vì viết tên Sơn thành Không, nên sợ hoặc có tên như vậy". Tuy thế, điều chắc chắn là vào thời Lý và Trần, núi Không lộ đã có tên Không lộ, như chính Thiền Uyển Tập Anh ở đây đã ghi. Nó ngày nay tức núi Phụng hoàng ở tại xã Sơn lộ, huyện Thạch thất, tỉnh Hà tây.
(2)
Hàn Sơn và Thập Đắc là hai nhà thơ thiền tâm giao nổi tiếng đời Đường. Về sự tích, xem Truyền đăng lục27 tờ433c-434a.
(3)
Truyện Chân Không cũng chép một bài thơ truy điệu Không vào năm 1100 và bảo là của " Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm". Hai bài thơ của "Công bộ thượng thư Đoàn văn Lim" ở đây đã được Lê Quí Đôn chép luôn với bài thơ truy điệu vừa nói dưới cái tên "Công bộthượng thư Đoàn văn Khâm" trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ13a6-b6. Theo Đôn như vậy, công bộ thượng thư Đoàn văn Lim cũng là Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm, và chữ Lim thực ra là một viết sai của chữ Khâm. Kết luận như thế, ta không biết Đôn quả đã có bản in Thiền uyển tập anh xưa hơn bản in năm 1715 của ta ngày nay và bản in đó đã có Đoàn Văn Khâm thay vì Đoàn Văn Lim, như bản in 1715 đã có. Hay Đôn đã dựa vào sự suy luận về tự dạng chữ Khâm và chữ Lim rất giống nhau, để có một kết luận nhưvậy? Tôi nghĩ rằng rất có thể Đôn có một bản in xưa hơn bản in năm 1715 hiện nay của ta. Dẫu sao đi nữa, nếu Đoàn Văn Khâm Đoàn Văn Lim là một người, thì ông này đã giữ chức Thượng thư bộ công gần cả đến 15 năm hay hơn nữa, bởi vì Quảng Trí mất trong khoảng 1085-1091 còn Chân Không mất năm 1100.
(4)
Trừng tức Phật Đồ Trừng (232-248) danh tăng thần dị Tây vực thời Tấn. Thập tức Cưu Ma La Thập (?- 409) dịch giả lỗi lạc Tây vực đời Dao tần. Xem tiểu sử Cao tăng truyện 3 tờ330a-333a.
(5)
Kiến văn tiểu lục 4 tờ13a7-8:
Trụ tích nguy phong bãi lục trần
Mặc cư huyễn mộng vấn phù vân
Ân cần vô kế tham Trừng Thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
(6)
Di lý chiếc dép để lại. Bồ Đề Đạt Ma chết, sau ba năm Tống Vân trên đường đi sứ Tây Vực, gặp Sư tại Thông lĩnh, vai quảy một chiếc dép, Vân về tâu, Vua Hiếu Trang nhà Bắc ngụy (528-530) cho khai tháp khám nghiệm thì trong quan tài của Bồ Đề Đạt Ma chỉ còn lưu lại một chiếc dép. Về sau, Thiền sư chết thường được nói là "chích lý tây qui" hay "di lý".
(7)
Kiến văn tiểu lục Vãn Quảng Trí Thiền sư thi:
Lâm loan hồi thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh sinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý đả thiền khuynh
Trai đình u điểu không đề nguyệt
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình. (*)
Chú thích của hungcom :
(*)
http://lib.agu.edu.vn/gsdlhome/collect/thovan/index/assoc/HASH5650.dir/57.png
Lâm loan bạch thủ độn kinh thành,
Phất tu cao sơn viễn cánh hinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch,
Hốt văn di lý yểm Thiền quynh.
Trai dinh u điểu không đề nguyệt,
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
Ngô Tất Tố dịch :
VIẾNG THIỀN SƯ QUẢNG TRÍ
Lánh chợ vào rừng, tóc bạc phơ,
Non cao rũ áo ngát hương thừa.
Trùm khăn những muốn hầu bên chiếu,
Treo dép đà nghe khép cửa chùa.
Trăng dọi sân trai, chim khoắc khoải,
Tháp không bia chữ, mộ thờ ơ.
Bạn Thiền thôi cũng đừng thương xót!
Non nước ngoài am, đó dáng xưa.
hoatihon
06-10-2015, 11:05 AM
Vãn Quảng Trí Thiền Sư
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vanquangtritriensu_zps503d3224.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:07 AM
14. Lý Thái Tôn
Lúc bấy giờ vua Lý Thái Tôn (1) (*) thường đến thăm vấn thiền chỉ với Thiền Lão
(2) núi Thiên phúc. "Kim chùy (3) vừa giáng" thì đầu óc đều thông. Những lúc rảnh rỗi việc nước, vua lấy thiền duyệt làm vui, nhân đó, cùng với các bậc kỳ túc khắp nơi giảng cứu chỗ dị đồng. Vua bảo : "Trẫm nghĩ đến nguồn tâm của Phật tổ, từ xưa Thánh hiền chưa khỏi bị chê bai, huống gì người hậu học ! Nay, Trẫm muốn cùng các đại đức, sơ tỏ ý mình, mỗi vị thuật một bài kệ, để xem chỗ dụng tâm ra làm sao". Tất cả đều bái tạ nhận lệnh. Trong lúc mọi người đang tìm ý, vua đã làm xong bài kệ rằng:
Bát nhã thật không tôn
Nhân không, ngã cũng không
Quá, hiện vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng. (4)(**)
Mọi người đều phục sự nhanh trí của nhà vua.
Chú thích :
(1)
Lý Thái Tôn (1001-1054), tên thực là Lý Đức Chính, con của Lý Công Uẩn, nối ngôi Uẩn năm 1028 đến năm 1054 thì mất.
(2)
Cứ Lược dẫn thiền phái đồ in vào đầu Thượng sĩ ngữ lục tờ 5b6-7a6 thì thế thứ truyền thừa và vai trò của Lý Thái Tôn như sau:
"Từ thuở đức Đại thánh ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đem Chính pháp nhãn tạng niết bàn diệu tâm trao cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, lần lượt truyền thọ phàm 28 đời thì đến Đại sư Đạt Ma. Đạt Ma vào Đông độ, truyền cho Đại sưThần Quang. Thần Quang truyền xuống phàm sáu đời thì đến Đại sư Thần Hội. Chính vào lúc đó, chính pháp mới truyền vào đất nước ta. Không biết người nhận được trước là ai. Hãy ghi từ Thiền sư Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tôn, tiếp đến Trưởng lão Định Hương, Thiền sư Viên Chiếu, Thiền sư Đạo Huệ tiếp nhau truyền thọ, tên họ ẩn hiện, khó tìm manh mối, phân làm ba tôn:
(a) Tôn môn ta đã liệt ra ở bản đồ, không phiền chép đủ.
(b) Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho Hoà thượng Nhiệm Tạng. Hoà thượng Nhiệm Tạng truyền cho Cư sĩ Nhiệm Túc, đến nay chìm mất, không rõ thừa kế.
(c) Hoà thượng Nhật Thiển được pháp với ai đó, truyền cho Chân Đạo đại Vương, đến nay tôn này rồi cũng chìm mất. Lại có cư sĩ Thiên Phong từ Chương tuyền đến, cùng với Ứng Thuận đồng thời, tự xưng thuộc tôn Lâm Tế, truyền cho quốc sư Đại Đăng và Hoà thượng Nan Tư. Đại Đăng truyền cho hoàng đế Thánh Tôn ta và các ngài Liu Minh quốc sư, Thường Cung, Huyền sách, Huyền Sách truyền cho Phả Trắc v.v ... nay cũng mờ dần không rực rỡ lắm. Ôi ! Thiền tôn thạnh suy, há nói xiết sao. Nay lược kể
các phái Thiền để lưu lại về sau, hầu bậc học giả biết Thiền có tôn đáng học, chứ chẳng phải chuyện tự bịa đặt bày ra, ấy vậy".
Sau lời tự dẫn này mới chính là bản đồ truyền thừa của Thiền phái Trúc lâm, mà người viết lời tự dẫn vừa dịch tự xưng là tôn mình. Cái gọi là Lược dẫn thiền phái đồ đây chắc chắn là do một tác giả thuộc phái Trúc lâm viết ra, bởi vì nó không những xưng Trần Thánh Tôn là "Hoàng đế Thánh Tôn ta" và Lý Thái Tôn là Nguyễn Thái Tôn, mà còn vì trong bản đồ của phái Trúc lâm, nó liệt đến ba người đệ tử của Pháp Loa là hết. Thêm vào đó, thật lục của Trần Nhân Tôn trong Thánh đăng lục tờ 40a2 khi nói đến những người đệ tử nối dòng của Nhân Tôn, nó viết: "Đệ tử nối pháp đã liệt kê đầy đủ trong Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn." Cái gọi là "Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn" này tức là Lược dẫn thiền phái đồ vừa dịch. Như vậy, bản lược đồ đấy phải viết sau khi Nhân Tôn mất, tức sau năm 1308, để cho Thật lục có thể dẫn. Nó do ai viết? Chắc phải là một trong những người đệ tử của Pháp Loa, mà chính bản đồ của Lược dẫn ghi gồm ba người, đấy là Huyền Quang, Cảnh Huy và Quế Đường. Một trong ba người này hay là thị giả cao đệ của họ đã ghi lại.
Bấy giờ, cứ bản Lược dẫn thiền phái đồ thì thầy của Lý Thái Tôn là Thiền sư Thiền Nguyệt. Thiền uyển tập anh nói vua "tham vấn thiền chỉ với Thiền Lão". Thiền Lão như vậy đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt mà vì tôn trọng phải gọi thành Thiền Lão, như trường hợp Thông Thiền đã gọi thành Thông sư. Ứng Thuận gọi thành Ứng vương, để khỏi phạm húy của thầy. Do đó Thiền Lão
từ đây nó phải là Thiền Nguyệt.
Đọc lời tựdẫn của bản Lược dẫn thiền phái đồ trên, ta có thể chắc chắn nó phải viết ra trước năm 1337 khi tác giả Thiền uyển tập anh hoàn thành tác phẩm của mình, bởi vì nếu có Thiền uyển tập anh người viết lời tự dẫn đã không phải nó i"không biết người đắc pháp về trước Thiền Nguyệt là ai". Rất có thể tác giả lời tự dẫn trên đây cũng là tác giả của Thiền uyển tập anh.
(3)
Châm chùy, hoặc nói là kiếm chùy, chỉ cho sự đào luyện khó nhọc của Thiền gia. Phổ Chiếu, Bích nham lục tự: "Bỉnh phanh Phật đoàn Tổ kiếm chùy, tụng xuất nạp tăng hướng thượng ba tỉ".
(4)
Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b9-10 chép y bài kệ ở đây.
_____________
Chú thích của hungcom :
(*)
Ở đây ghi là Lý Thái Tôn, nhưng Lý Thái Tông (李太宗) cũng là ông, Lý Phật Mã (李佛瑪) hay Lý Đức Chính (李德政) cũng là ông. Là người chuộng đạo Phật, Thái Tông khởi đầu cho việc xây dựng chùa Một Cột. Tương truyền năm 1049, ông nằm mơ thấy Phật bà Quan Âm ngồi trên toà sen dắt ông lên toà. Sau đó nhà vua kể lại chuyện đó với bầy tôi; và cho dựng cột đá, làm toà sen đặt đặt lên như đã thấy trong mộng, theo lời khuyên của nhà sư Thiền Tuệ. Cột toà sen đó trở thành ngôi chùa, khi đó có tên là chùa Diên Hựu.
(**)
般若真無宗,
人空我亦空。
過現未來佛,
法性本相同。
Bát nhã chân vô tông,
Nhân không, ngã diệc không.
Quá hiện vị lai Phật,
Pháp tính bản tương đồng.
hoatihon
06-10-2015, 11:08 AM
Bát Nhã chân vô tông
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/batnhachanvotong_zps89f701e4.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:12 AM
Thế Hệ Thứ Tám (6 người, thiếu 3 người)
15. QUỐC SƯ Thông Biện (? - 1134)
Chùa Phổ ninh, Từ liêm, người Đan phụng, họ Ngô, con dòng Phật tử. Bẩm tính thông tuệ, rất giỏi tam học (1). Ban đầu đến tham bái Thiền Sư Viên Chiếu, chùa Cát tường. Khi rõ được yếu chỉ bèn đến ở tại Quốc tự của Thăng kinh (2), tự gọi hiệu là Trí Không.
Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu (3) có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua ? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau ?. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?
Mọi người đều không lên tiếng, Sư bèn đáp rằng: "Thường trụ thế gian, không sanh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ Tâm tôn của Phật, hạnh giải đều hiệp nhau, thì gọi là Tổ (4). Phật và Tổ là một. Bởi bọn lạm xưng học giả tự dối nói là có hơn thua vậy. Vả Phật nghĩa là giác ngộ,và sự giác ngộ đó xưa nay vắng lặng thường trú, hết thảy hàm sinh, đều cùng một nguyên lý đấy, nhưng bởi bụi lòng che khuất, theo nghiệp nổi trôi, mà chuyển nên các cõi. Đức Phật vì lòng từ bi,nên thị hiện đản sanh đất Trúc, bởi vì nó là nơi được gọi trung tâm của trời đất (5). Năm 19 tuổi xuất gia, năm 30 thành đạo. ở đời thuyết pháp 49 năm, mở bày các phương tiện, khiến người ngộ nhập đạo đó. Ấy gọi là sự hưng khởi của một thời đại kinh giáo (6). Khi sắp nhập Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên bảo với Văn Thù rằng: "Suốt 49 năm, ta chưa từng nói một chữ, sao bảo là có điều để nói". Rồi cầm một cành hoa đưa lên, mọi người đều ngơ ngác, chỉ có Tôn Giả Ca Diếp nở mặt mỉm cười (7), Phật biết Ca Diếp đã tỏ ngộ, liền đem Chánh pháp nhãn tạng giao cho, ấy là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là Tâm tôn, truyền riêng ngoài giáo điển.
Về sau, Ma Đằng (8) đem kinh pháp truyền vào đất Hán, và Đạt Ma đem tâm chỉ truyền sang Lương và Nguỵ. Việc truyền kinh pháp đến Thiên thai (9) thì thịnh, gọi là Giáo tôn. Được yếu chỉ của Đạt Ma thì đến Tào khê (10) mới sáng, gọi là Thiền tôn. Hai tôn ấy truyền đến nước Việt ta đã nhiều năm. Giáo thì lấy Mâu Bác (11), Khương Tăng Hội (12)làm đầu. Thiền thì lấy Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm phái trước, Vô Ngôn Thông làm phái sau. Đó là những vị Tổ của hai phái".
_____________
Chú thích :
(1)
Tam học. Chỉ ba môn học chính của Phật giáo, đấy là học về Giới, học về Định và học về Tuệ, hay thường gọi tắt là Giới Định Tuệ.
Để học về Giới, người ta phải dựa vào những bản điều luật Phật giáo, tức là Luật tạng. Để học về định, người ta phải suy gẫm về những lời dạy của Phật Thích Ca, tức Kinh tạng (*). Để học về Tuệ, người ta nghiên cứu những tác phẩm triết học Phật giáo, tức Luận tạng (**). Cho nên, nói rằng giỏi về tam học, tức cũng có nghĩa giỏi về toàn bộ kinh điển Phật giáo, tức Kinh, Luật và Luận.
(2)
Nguyên văn: Thăng kinh Quốc tự. Quốc tự đây nghi là bản in khắc sót chữ Khai, tức chỉ chùa Khai quốc của kinh đô Thăng long, nơi những cao tăng của triều Đinh Lê đã từng sống. Vềchùa Khai quốc, xem chú thích (1) ởtruyện Vân Phong.
(3)
Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu. Nguyên bản viết là Phù Thánh Cảm Linh Nhân hoàng thái hậu. Nhưng chúng tôi cứ theo Đại Việt sử lược, Toàn thư và Cương mục chính biên để sửa lại là Phù Thánh Linh Nhân. Linh Nhân là mẹ của vua Lý Nhân Tôn. Người làng Thổ lỗi, mà sau này khi sinh ra Nhân Tôn đã cải lại là Siêu loại, họ Lê được Thánh Tôn nạp vào cung năm 1063 và đặt tên là _ Lan phu nhân. Năm 1066 sinh Nhân Tôn và được tôn làm Thần phi. Năm 1073 khi mới lên ngôi một năm, Nhân Tôn u sát Dương thái hậu và tôn mẹ minh lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân mất năm 1117 và được thụy là Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu.
(4)
Dương Huyền Chi hỏi Bồ Đề Đạt Ma sao gọi là Tổ, Bồ Đề Đạt Ma trả lời: "Kinh Phật tâm tông, hạnh giải tương ưng, danh chi viết Tổ". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a5. Hành giải tức có nghĩa như tri hành hiệp nhất. Hành tức việc làm, và giải có nghĩa sự hiểu biết.
(5)
Nguyên văn: "Cố thị sanh Trúc thổ cái vị thiên địa chi chính trung giả". Tham chiếu Mâu tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ 1c25-26. Sở dĩ sanh Thiên trúc giả, thiên địa chi trung, xử kỳ trung hoà giả.
(6)
Nhất đại thời hưng giáo. Thuật ngữ của Thiền gia chỉ giáo pháp tam thừa do Phật Thích Ca nói trong suốt 49 năm tại thế, bao gồm các thứ Quyền, Thiệt, đốn, tiệm v.v... ngoại trừ Thiền tôn, một thứ "giáo ngoại biệt truyền". Từnày tương đương với từ"nhất đại giáo" của Chỉ quán nghĩa lệ hay "nhất đại thánh giáo" của Thiên thai tứ giáo nghi, mà những người Thiền tôn, đặc biệt là những người, chuyên về giáo pháp, dùng để gọi toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca.
(7)
Truyền thuyết của Thiền tôn về nguyên lai của tôn mình. Vương An Thạch hỏi Sư HuệTuyền về xuất xứ của truyền thuyết này. Tuyền nói trong Đại tạng không thấy chép. Vương bảo, tình cờ ông đọc thấy nó trong Đại phạm thiên vương vấn Phật quyết nghi kinh (?). Nó gồm có ba quyển, và nội dung nói theo Vương, thì như sau: Phạm vương đến Linh sơn, dâng hoa ba là màu vàng cúng Phật và cúng thân mình làm giường ngồi, xin Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa giảng, cầm hoa dơ lên,
trời người trăm vạn đều không hiểu ra. Chỉ có đầu đà Kim Sắc rạng mặt mỉm cười. Thế Tôn nói: "Ta có Chính pháp nhãn tạng Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, đem giao cho Ma Ha Ca Diếp". Vương cũng còn thêm rằng: "Kinh này phần lớn bàn tới việc đế vương, vì vậy nên bị cất đi trong cung vua và người đời ít nghe tới nó".
(8)
Tức Ca Diếp Ma Đằng, dịch giả kinh Phật đầu tiên tại Trung quốc theo truyền thuyết.
(9)
Tức Trí Khải (538-597) vì sống ở núi Thiên thai, nên cũng gọi là Thiên Thai hay Thiên Thai đại sư, người sáng lập nên một trường phái mang tên Thiên Thai tôn, mà tự nguyên uỷ vì dựa vào kinh Pháp hoa nên gọi là Pháp hoa tôn, và đề xướng ra một phương pháp tu hành chỉ quán thường được mệnh danh "Thiên thai giáo quán".
(10)
Tức Huệ Năng (638-713), vì sống ở chùa Nam hoa dựng gần khe Tào, nên cũng gọi là Tào khê.
(11)
Tức Mâu Tử(165 - ?) tác giả Mâu tử lý hoặc luận, tác phẩm lý luận Phật giáo đầu tiên tại nước ta cũng như của miền đông châu Á, viết vào khoảng năm 198 sau Tây lịch.
(12)
Khương Tăng Hội (? - 280), sản phẩm đầu tiên của nền Phật giáo nước ta, tác dịch giả một số tác phẩm quan trọng, mà đặc biệt nhất là Lục độ tập kinh, đóng góp rất nhiều tài liệu lịch sử văn học cho công tác nghiên cứu cổ sử của ta.
-------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Có lẻ thời điểm dịch Thiền Uyển Tập Anh này, dịch giả Lê Mạnh Thác hãy còn là một học giả đơn thuần chứ chưa có hiểu nhiều về đạo Phật.
Bảo rằng : " Để học về định, người ta phải suy gẫm về những lời dạy của Phật Thích Ca, tức Kinh tạng" là không đúng.
Đề nghị sửa lại như sau : "Để học về Định, hành giả phải tập ngồi kiết già hay bán già từ 1 giờ trở lên, phải "lên lịch" cố định (lập thời khóa biểu) hằng ngày, phải tập trung tư tưởng, không cho tư tưởng nhảy nhót lăng xăng như "khỉ vượn chuyền cành". Bước đầu phải dùng phương tiện đếm hơi thở (Sổ tức), khi tâm đã tập trung được (đếm đầy đủ, không lộn) thì dần buông thả (không đếm nữa), thả tâm chìm vào sự yên lặng nhưng tỉnh thức,....v....v....."
(**)
Bảo rằng : "Để học về Tuệ, người ta nghiên cứu những tác phẩm triết học Phật giáo, tức Luận tạng" là quá ư thiếu sót.
Đề nghị đọc lại như sau :"Để học về Tuệ, hành giả phải Văn, Tư, Tu. VĂN là tham học Kinh điển, TƯ là suy nghĩ, tìm hiểu nghĩa sâu huyền, TU là phải Giới Hạnh nghiêm minh, Thiền Định đều và đủ, Làm mọi Công đức khác phụ trợ THÌ TRÍ TUỆ MỚI PHÁT SINH ĐƯỢC".
hungcom
06-10-2015, 11:15 AM
Hậu nói: "Hãy để Giáo tôn đó đã, còn hai phái Thiền có gì bằng chứng?".
Sư đáp: "Xét Đàm Thiên pháp sư truyện (1) thì vua Tùy Cao Tổ gọi Pháp sư nói: "Trẫm nghĩ đến lời dạy từ bi của đức Điều Ngự, muốn báo đền công đức, không biết làm sao. Trẫm trộm làm bậc nhân vương, rộng giúp Tam bảo, đã khắp ban di thể xá lợi, đồng thời ở trong nước dựng bảo tháp phàm 49 cái để làm bến cầu giác ngộ cho đời, còn hơn 150 tự tháp ngoài do các xứ kiến lập mong tạo phước nhuận thấm tới đến cả thế giới đại thiên. Song xứ Giao Châu kia tuy đã nội thuộc, nhưng còn ky my, nên phải chọn những sa môn danh đức, đến các xứ của châu ấy để dạy dỗ, hầu khiến cho tất cả đều giác ngộ" (2)
Pháp sư đáp: "Một phương Giao châu, đường thông Thiên trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu Đà La (3), Ma La Kỳ Vực (4), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó. nay lại có Pháp Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Đa Lưu Chi, truyền tông phái của tam Tổ, là người trong hàng Bồ tát, đang ở chùa Chúng thiện dạy dỗ học trò. Trong lớp học đó không dưới 300 người, cùng với Trung quốc không khác. Bệ hạ là cha lành của thiên hạ, muốn bố thí một cách bình đẳng thì chỉ riêng khiến sứ đưa xá lợi đến, vì nơi ấy đã có người, không cần đến dạy dỗ (5).
Lại bài tựa Truyền pháp của tướng quốc Quyền Đức Dư (6) đời Đường, nói: "Sau khi Tào Khê mất đi, Thiền pháp thịnh hành đều có thừa kế. Chương Kính Uẩn thiền sư (7) dùng tâm ấn của Mã Tổ hành hóa ở Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sĩ đem tôn chỉ của Bách Trượng khai ngộ tại Giao châu". Đó là những chứng cứ vậy".
Thái hậu lại hỏi về thứ tự truyền thọ của hai phái trên.
Sư đáp: "Phái của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tức nay Lâm Huệ Sinh, Vương Chân ấy vậy (8). Kỳ dư chia chẻ ra bao la không thể kể hết".
Thái hậu rất vui, bèn phong Sư làm Tăng lục (9), ban cà sa tía (10)và hiệu Thông Biện đại sư, cùng thêm hậu thưởng để tỏ lòng yêu chuộng. Không lâu, Hậu triệu Sư vào cung, phong làm Quốc sư (11)hỏi han yếu chỉ của thiền. Bà sâu hiểu tôn chỉ nó.*Thái hậu đã từng có bài kệ Ngộ đạo rằng: sắc là không, không tức sắc, không là sắc, sắc tức không, sắc không đều không bận, mới hiểu được chân tông.
Tuổi già, Sư dời đến ở chùa mình, mở pháp hội lớn, mưa cơn mưa pháp. Sư dạy người sửa mình, thường dùng đến kinh Pháp hoa, cho nên người bấy giờ gọi Sư là Ngộ Pháp Hoa.
Ngày 12 tháng 2 năm Giáp dần Long Chương Bảo Tự thứ hai (1134), Sư cáo bệnh.
_______________
Chú thích :
(1)
Đàm Thiên pháp sư truyện ở đây tức là truyện của Pháp sư Đàm Thiên đời Tuỳ trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ571b12-574 b6, chứ không phải là của Kinh sư Đàm thiên đời Tề trong Cao tăng truyện 13 tờ413a18 - 26, như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam BEFEO XXXII (1932) đã đồng nhất một cách sai lầm. Đàm Thiên đời Tuỳ sinh năm 542 và mất năm 607, thọ 66 tuổi, quả đã có những quan hệ rất mật thiết với Tùy Cao tổ và đặc biệt về việc cúng dường xá lợi, ông quả đã có một cống hiến đặc biệt. Xem tiểu sử trong Tục Cao tăng truyện vừa kể.
(2)
Nguyên văn: "Án Đàm thiên pháp sư truyện, Tùy Cao Tổ vị (chi) pháp (giả hậu) sư vân: Trẫm niệm Điều Ngự từ bi chi giáo, báo đức vô do, vị thiêm nhân vương, hoằng hộ Tam bảo, dĩ biến thu di thể xá ly, nhưng ư quốc nội, lập thụ bảo tháp, phàm tứ thập cửu sở, biểu thế tân lương, dư nhất bách ngũ thập tự tháp, ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước nhuận, dĩ cập đại thiên. Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc, do hệ ky my, nghi tuyển danh đức Sa môn, vãng bỉch ư xứ hoá, già lịnh nhất thiết, cu đắc bồ đề".
Trong đoạn này, những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như những din tự do lỗi của người viết hay người khắc bản, vì vậy đã không được dịch. Còn những chữ in đậm là những chữ chúng tôi thêm vào, cứ trên những dữ kiện lịch sử ngoại tại khác, để ý nghĩa đoạn văn được chính xác.
Thứ nhất, ở câu "Tuỳ Cao tổ vị(chi) pháp (giả hậu) vân" của nguyên bản, chúng tôi cho rằng những chữ"chi giả hậu" là những diễn tự của câu đi trước, ở đây ta có "nhị phái chi tổ giả hậu viết". Sau khi loại những chữ"chi giả hậu" đi rồi, chúng tôi thêm chữ sư vào, để cho câu văn được gọn nghĩa.
Thứ hai, về loại bỏ chữ Giao châu ở câu "dư nhất bách ngũ thập tự tháp ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước nhuận", thì chúng tôi cứ vào chính bản tiểu sử của Đàm Thiên nay trong Tục Cao tăng truyện 18. Ởtờ537b25-c14, Đạo Tuyên ghi lại rất rõ những diễn tiến của việc ban bố xá lợi và xây tháp của Tùy Cao Tổ. Tháng sáu năm Nhân Thọ thứ nhất (601), Cao Tổ ra lệnh "chọn 30 chỗ cao sảng thanh tịnh để dựng tháp thờ xá lợi" trong khắp Trung quốc, đồng thời ban cho mỗi nơi một hòm xá lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký do Vương Thiệu viết trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm nơi dựng tháp giữa số 30 chỗ của 30 châu đấy. Sau đợt ban bố thứ nhất này, tháng giêng năm sau, tức năm 602, Cao Tổ lại ban bố xá lợi đợt hai cho "hơn 50 châu", mà Khánh xá lợi cảm ứng biểu do Vương Hùng viết trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ216c7 - 221a7 nói rõ là có 51 châu với một châu được ban lần thứ hai là thành ra 52 châu. Và đợt ban bố xá lợi thứ ba xẩy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ 4 (604), theo đó "vua ra lệnh xây miếu ở 30 châu, rồi bèn sai dựng linh tháp ở hơn một trăm chỗ của các châu lớn ở trong nước, để khuyên người tôn sùng điều lành". Như vậy, rõ ràng dưới thời Tùy Cao Tổ, việc ban xá lợi cho các châu xảy ra cả thảy ba lần. Lần đầu năm 601 cho 30, lần thứ hai năm sau cho 51 châu và lần thứ ba cho hơn 100 sở ở tại các châu lớn. Do thế, trong đoạn văn trên, ta thấy Tùy Cao Tổ kể đến ba lần ban bố xá lợi này, mà lần thứ nhất nó không cho biết rõ số châu được ban bố và chỉ viết "biến phân (thu) di thể xá lợi", nhưng lần thứ hai thì nó ghi rõ là "cho lập bảo tháp phàm 49 sở ở khắp nước" thì hiển nhiên nó muốn nói tới đợt phân phát xá lợi thứ hai cho 51 châu năm 602. Và lần thứ ba nó viết "còn hơn 150 tháp do các xứ của mỗi châu kiến lập để mong phước nhuận thấm tới đại thiên" thì rõ ràng nó muốn đề cập tới đợt
phân phát thứ ba năm 604, chứ dứt khoát không thể là "còn hơn 150 chùa tháp của các xứ Giao châu được. Chữ Giao châu trong câu đó vì vậy phải loại ra coi nó là một diễn tự lấy từ câu tiếp theo, đấy là "Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc". Chúng tôi do thế đã thêm chữ Giao châu ấy vào cho câu tiếp theo đấy.
Dựa vào dữ kiện của truyện Đàm Thiên trong Tục Cao tăng truyện hiện nay, để mà sửa sai và chấm câu lại đoạn văn trên, ý nghĩa cũng như những mẫu tin lịch sử của bây giờ đã trở thành rõ ràng và có lý cứ.
hungcom
06-10-2015, 11:17 AM
(3)
Nguyên bản viết Khâu Ni danh. Đây chắc là một viết sai và khắc lộn của cái tên Khâu Đà La, mà Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục kể ra cùng với Kỳ Vực như hai vị sư"cùng một lúc đến thành Luy lâu, trị sở của Sĩ Vương" vào khoảng cuối triều Hán Linh Đế. Ở đây, họ được một Ưu bà tắc tên Tu Định mời ở lại. Nhưng Kỳ Vực từ chối và tiếp tục cuộc hành trình của mình, còn Khâu Đà La thì bằng lòng và cuối cùng đã truyền pháp lại cho A man với sự ra đời của bốn vị thánh Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Cổ châu tứ pháp phổ lục cũng nói tới truyện này. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 9b6-9 dưới mục "Sư Ấn độ thời vua Hùng" đã coi Khâu Đà La như một "nhà sư Ấn độ thời vua Hùng" đã gặp Tu Định và truyền pháp lại cho A Man. Nội dung chuyện này thì đại khái giống truyện Man Nương của Lĩnh nam trích quái tờ 25-26, nhưng ở đó tên Khâu Đà La đã bị đổi thành Giả La Chà
Lê.
(4)
Tức Kỳ Vực của Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục và đến Luy lâu cùng một lúc với Khâu Đà La vào cuối thời Hán Linh Đế, tức khoảng những năm 168-189. Cao tăng truyện 10 tờ388a16-c5 cũng nói tới một Kỳ Vực đã từng trải qua "miền Giao châu và Quảng châu và đều có chuyện linh dị", rồi đến Lạc dương vào khoảng cuối đời Tấn Huệ Đế, tức khoảng những năm 305-306. Như vậy, Kỳ Vực này đến Giao châu sớm lắm thì cũng khoảng vào những năm trước sau năm 290. Thế thì, hai Kỳ Vực đây phải chăng là cùng một người ?. Cứtrên hành trạng của hai người thì ta bắt buộc phải đồng nhất họ với nhau. Nhưng bằng vào sự sai khác niên đại, một sự sai khác đến những trăm năm, ta tất yếu phải giả định sự có mặt của hai người khác nhau cùng mang tên Kỳ Vực, nếu quả thật những sử liệu của Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục là đáng tin cậy.
(5)
Truyện Pháp sư Đàm thiên ngày nay trong Tục Cao tăng truyện18 tờ 571b12-574b6 không có lời đáp này của Đàm Thiên cũng nhưcâu đềnghịcủa Tùy Cao Tổ. Nhưng cũng chính Tục Cao tăng truyện18 tờ 574b5-6 lại ghi thêm rằng "có Sa môn Minh Tắc vì Thiên mà viết hành trạng, đầu đuôi quán xuyến, kinh sư ưa chuộng". Thế có nghĩa, trước và ngoài bản Tục Cao tăng truyện, ta còn có một bản khác mang tên Hành trạng do Minh Tắc viết về Thiên. Phải chăng bản Hành trạng này đã chứa đựng những câu nói trên của Tùy Cao Tổ và của Đàm Thiên và đang còn lưu hành ở nước ta vào thời Thông Biện, để cho Biện viện dẫn? Dẫu sao đi nữa, những gì do hai bản đấy nói không phải không kiểm chứng được với những tài liệu hiện có ngày nay. Cũng cần thêm là, cứ vào nội dung của câu nói trên, thì cuộc đối thoại giữa Tùy Cao Tổ và Đàm Thiên, xảy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ tư (604), bởi vì đầu tháng giêng thì Cao Tổ ra lệnh xây hơn một trăm cái tháp, mà chính câu nói đã kê ra, và đến tháng tư thì nhuốm bệnh và tháng bảy thăng hà.
(6)
Quyền Đức Dư (757-818) làm Tể tướng dưới thời Đường Hiến Tôn. Bài tựa cho cuốn sách nhan đề Truyền pháp này ngày nay đã thất lạc. Văn uyển anh hoa, Toàn Đường văn cũng như Toàn Đường văn bổ di không thấy chép một bài tựa nào như thế cả.
(7)
Tức Thiền sư Hoài Uẩn (? - 818) chùa Chương kính ở Kinh Triệu. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 252b19-c23.
(8)
Lâm Huệ Sinh tức Huệ Sinh tăng thống (? - 1064) của thế hệ thứ 13 của giòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thế hệ này theo Thiền uyển tập anh thì gồm cả thảy sáu người, nhưng nó chỉ ghi lại tiểu sử của bốn người thôi, đấy là Lâm Huệ Sinh, Khương Thiền Nham, Nguyễn Minh Không, và Nguyễn Bản Tịch, chứ không có người nào mang tên Vương Chân hết. Thế hệ thứ 14 cũng không có ai mang tên đó cả. Thế hệ thứ 12 cũng vậy, chỉ có tên Vạn Hạnh, Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát và Thuần Chân. Phải chăng Vương Chân là một viết sai của Thuần Chân hay Chân Không ? Mai Viên Chiếu (999 - 1090) và Nhan Quảng Trí (mất khoảng những năm (1085-1091) thuộc thế hệ thứ 7 của giòng Vô Ngôn Thông. Thế hệ này có bảy người nhưng Thiền uyển tập anh chỉ ghi lại tiểu sử và tên sáu người thôi, đấy là Mai Viên Chiếu, Đàm Cứu Chỉ, Nghiêm Bảo Tính, Phạm Minh Tâm, Nham Quảng Trí và Lý Thái Tôn, chứ không ghi ai tên Lôi Hà Trạch cả. Những thế hệ trước và sau thế hệ này cũng không ai mang tên ấy hết. Nhưng ở tiểu sử của Nguyễn Giác Hải thuộc thế hệ thứ 10 cũng của giòng Vô Ngôn Thông này, ta được bảo: "Hải trước cùng với Không Lộ đều thờ Hà Trạch làm thầy, sau bỗng chốc trở thành pháp tự của Lộ." Như vậy, quả có một Thiền sư có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8 mang tên là Hà Trạch, mà cả Giác Hải và Không Lộ thờ làm thầy. Nhưng ở trong bản tiểu sử của Không Lộ thì chỉ nói rằng Lộ trong khoảng Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) đã cùng với bạn đạo là Giác Hải đều vân du phương ngoại, tạm đến chùa Hà trạch nương thân". Thế thì, Hà trạch là tên một ngôi chùa, chứ không phải là tên người. Tuy nhiên, tên chùa cũng có thể dùng xưng hô thế cho tên người. Lôi Hà Trạch do vậy là một nhân vật có thật và có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8 của giòng Vô Ngôn Thông, bởi vì Không Lộ là thuộc thế hệ thứ 9 của giòng này. Từ đó, chữ "tức kim" đi trước chữ "Lôi Hà Trạch" trong nguyên bản, chúng tôi coi như những diễn tự và đã bỏ đi không dịch.
(9)
Toàn thư 1 tờ 3b6-9 (Thái Bình) năm thứ hai (971) lần đầu tiên định giai phẩm của văn võ và Tăng đạo, lấy Tăng thống Ngô Chân Lưu cho hiệu Khuông Việt thái sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng chính uy nghi". Tăng lục như vậy là một chức quan do triều đình đặt ra cho Phật giáo và bắt đầu ở nước ta ngay từ lúc Đinh Tiên Hoàng mới lập quốc, qua nhà sư tên Trương Ma Ni. Ở Trung quốc, chức này bắt đầu xuất hiện với Đoan Phủ dưới triều vua Đường Văn Tôn (827-840). Chức năng của chức này có thể thấy qua lời chiếu sau đây viết đầu thời Vũ tôn: "có Phật pháp đến đây, từ xưa tới nay, hưng phế có gì làm chứng, xin lưỡng nhai Tăng lục cùng các Sư tam học viết ra những sự việc, dâng lên". Xem Đại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 243c26-28. Chức năng của Tăng lục ngoài việc giữ giấy tờ hộ tịch, như vậy còn có chức năng của một Sử quan Phật giáo, một chức năng khá thích hợp với Biện.
(10)
Tục ban áo tía cho các nhà sư bắt đầu tới Võ Tắc Thiên (684-774) ở Trung quốc. Năm 690, nhà sư Pháp Lãng đã tìm một dẫn chứng trong kinh Đại Vân biện minh cho sự lên ngôi của Thiên, nên được Thiên phong làm Huyện công và ban áo cà sa tía. Xem Đại Tống tăng sử lược quyển hạ tờ 248c3-249a29. Ở nước ta, Thông Biện là người đầu tiên nhận áo tía được biết.
(11)
Đại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 244b29-c15 nói về lai lịch của chức Quốc sư, bắt đầu với Pháp Thường dưới thời Bắc Tề (550-577), đã xác định nội dung nó thế này: "Về giáo lý bên trong thì học thông cả ba tạng, gồm thông cả năm món học, cả nước quy y theo, thế là làm rõ hiệu đó". Năm món học hay ngũ minh nói tới đây tức là triết học, ngôn ngữ học, luận lý học, y dược học và kỹ thuật học. Ở nước ta thì Khô Đầu có lẽ là vị sư đầu tiên được biết mà Lý Nhân Tôn phong làm Quốc sư năm Quảng Hựu thứ tư(1088). Toàn thư quyển 3 tờ 11b9-12a2 còn ghi thêm: "Có nơi nói, vua ban cho Sư tiết việt, cùng với tể thần đứng ngang hàng trên điện vua để xử đoán việc vàn và kiện tụng của thiên hạ". Nhìn đó, ta có thể thấy sơ vai trò của Quốc sư trong triều đình và lịch sử Việt nam.
hungcom
06-10-2015, 11:18 AM
16. Đại Sư Mãn Giác (1052 - 1096)
Chùa Giác Nguyên, Cửu liên (1). Người Lũng chiền, làng An cách (2)họ Nguyễn tên Trường. Cha là Hoài Tổ làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang (3). Vua Lý Nhân Tôn, lúc còn làm thái tử, xuống chiếu mời con em các danh gia vào hầu hai bên. Sư nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng Sư, ban cho Sư tên Hoài Tín Trong khoảng Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 - 1084), Sư dâng biểu xin xuất gia. Khi đã được tâm ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, bèn cầm gậy vân du, khắp tìm bạn đạo, đến đâu học giả thường vân tập đến đấy. Sư xem Đại tạng kinh, được Vô sư trí (4), là lãnh tụ Giáo hội của một thời vậy.
Vua cùng với Linh Nhân hoàng thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung Cảnh hưng (5), mời Sư đến ở, để tiện hỏi han. Nói chuyện với Sư, vua chẳng gọi tên mà thường gọi là Trưởng lão.
Một hôm vua gọi Sư nói: "Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu đời, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không phải chỉ có sức định huệ, mà cũng có công phò tá. Vậy xin kính bổ nhiệm ngài".
Bèn trao Sư chức Giáo nguyên thiền viện Hoài Tín đại sư truyền tổ vô tu vô chứng tâm ấn phụng chiếu nhập nội đạo tràng tứ tử đại sa môn đồng tam ti công sự. Trong lúc nhận chức này, Sư được lấy thuế hộ năm mươi người. Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (1096) (6), Sư cáo bệnh, có kệ dạy chúng rằng:
"Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời qua trước mắt
Già đến trên đầu rồi !
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một cành mai." (*)
Tối đó, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Vua tặng hậu lễ, công khanh mỗi mỗi đến dâng hương, trà tỳ xong, thu xá lợi xây tháp ở chùa Sùng nghiêm, làng An cách. Vua sắc thụy là Mãn Giác.
_____________
Chú thích :
(1)
Cửu liên là tên một châu. Đại Việt sử lược 3 tờ 20b7 nói Lý Huệ Tôn "năm Kiến Gia thứ 8 (1218) tháng tư đi chơi châu Cửu liên xem bắt cá". Đó cũng là nơi đóng quân của Trần Tự Khánh vào mùa xuân năm 1215, rồi sai các tướng mình lên đóng ở Cửu Cao và Cửu Ông để chống lại Nguyễn Nộn. Toàn thư B4 tờ 29b1-5 nói mùa xuân năm 1216 Lý Huệ Tôn "ban đêm cùng với phu nhân lén đi đến quân của Tự Khánh, gặp trời sáng, dừng lại nhà của tướng quân Lê Mích ở huyện An diên thì gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem thủy quân đến đón. Vua bèn ở lại châu Cửu liên, gọi Tự Khánh đến chầu". Đại Việt sử lược 3 tờ 29b8-11 cũng ghi những sự việc ấy, nhưng không nói rõ lộ trình và nơi trú lại của Huệ Tôn. Điều quan trọng là nó ghi lại ngày tháng xảy ra sự việc đó vào ngày Giáp tuất (nguyên bản viết là Giáp thìn, nhưng nghi thìn là chữ tuất viết lộn) bởi vì 13 ngày sau vào ngày Bính tuất (nguyên bản viết là Canh tuất, Canh nghi là viết sai của chữ Bính) Đại Việt sử lược 3 tờ 30a2 nói: "Tự Khánh dựng điện cỏ ở Tây phù liệt, qui mô nó hoàn toàn phỏng theo Đại nội", mà Toàn thư thì nói Lý Huệ Tôn ở lại Cửu liên và cho gọi Tự Khánh tới chầu ở đó. Thế là, nếu Cửu Liên không là Tây phù liệt, như vậy có thể nằm trong khoảng phần đất hai huyện Thanh oai và Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
Truyện của Mãn Giác ở đây nói vua Lý Nhân Tôn cùng Linh Nhân hoàng thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời Giác tới để tiện hỏi han". Đại Việt sử lược 2 tờ 12b6-7 cho biết "Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (1065) tháng 8 vua đến chơi hành cung Cứu lan, đặt tên cung đó là Cảnh hưng". Vậy dựng chùa ở cung Cảnh hưng tức dựng ở hành cung Cứu lan. Cứu lan đây chắc là một viết khác của Cửu liên. Như vậy, chùa Giáo nguyên ở Cửu liên, tức là chùa do
Lý Nhân Tôn dựng bên cạnh cung Cảnh hưng, nghĩa là bên cạnh cung Cứu lan. Nó có lẽ là chùa Cứu lan mà Huyền Quang làm bài tứ tuyệt "Nhân sự đề Cứu lan tự" do Trích dim thi tập ghi lại và Lê Quí Đôn dẫn ra trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 18a4-6.
(2)
Hai tên Lũng chiền và An cách này không thấy sử sách nào nói tới. Tuy nhiên, Bắc thành địa dư chí lục 3 trong khi liệt kê các tổng xã của huyện Duy tiên, có kê hai xã của tổng Hồng khê mang tên Lũng xuyên và Chiền đầu. Chúng tôi nghĩ rằng hai xã Lũng xuyên và Chiền đầu này vào thời Lý chắc là ấp Lũng chiền thuộc làng An cách của Mãn Giác nói ở đây. Đất của làng An cách đời Lý như vậy thuộc địa phận huyện Duy tiên tỉnh Hà nam ngày nay. Chúng tôi hiện chưa có dịp làm một cuộc khảo sát hiện địa, nên chỉ đoán vậy thôi. Truyện Mãn giác ở đây cũng nói làng An cách có chùa Sùng nghiêm. Đây là một điểm chỉ rất tốt cho công tác điều tra hiện địa của chúng ta, vì ta có thể tìm xem hiện ở hai làng Lũng xuyên và Chiền đầu ngày nay có ngôi chùa nào không?, và chùa đó có phải trước có tên Sùng nghiêm không?
(3)
Tức Lý Hoài Tổ làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao qua cáo ai và xin phong năm 1073. Xem Lý Đào, Tục tự thị thông giám trường biên 243 tờ5a7.
(4)
Vô sư trí tức thứ trí tuệ không do thầy truyền dạy, thường dùng để chỉ cho Phật trí hay Tự nhiên trí hay Nhất thiết trí. Phẩm Thí dụ kinh Pháp hoa có câu: "Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí". Pháp Tạng giải thích: "Vô sư trí tức là thứ trí tuệ trước vì không do thầy mà được, nên gọi là vô sư trí".
(5)
Do Thánh Tôn dựng vào năm 1065. Đại Việt sử lược2 tờ 12b6-7 vào năm đó viết: "Tháng 8, ngày Quí mùi, vua đi chơi hành cung Cứu lan đặt tên cung đó là Cảnh hưng". Cung này như vậy ở tại núi Cửu liên, làng An cách.
(6)
Chép năm 1096 này là năm Mãn Giác mất, sợ là một sai lầm, bởi vì đến thế hệ thứ 9 Mãn Giác có một người đệ tử tên Bản Tịnh, và Thiền uyển tập anh chép Tịnh mất năm 1176 lúc ông 77 tuổi. Như thế Tịnh sinh năm 1100 và do đó làm sao có thể gặp Mãn Giác được để làm đệ tử? Giả như ta cho con số 77 là một viết sai của 97 đi nữa, thì vào năm Giác mất, Tịnh mới 16 tuổi, nghĩa là Tịnh đang ở vào cái tuổi chưa thể nhận tâm ấn của Giác một cách dễ dàng. Vì vậy chúng tôi nghĩ, có lẽ Mãn Giác mất vào năm 1100, tức năm Hội Phong thứ 9, bởi chữ ngũ rất dễ lẫn với chữ cửu, và như thế, nếu Tịnh sống tới 97 tuổi, ta có một giải quyết thoả đáng cho vấn đề liên hệ thầy trò giữa Giác và Tịnh.
---------------
Chú thích của hungcom :
(*)
春去百花落
春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落尽
庭前昨夜一枝梅
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua – sân trước – một cành mai.
hoatihon
06-10-2015, 11:21 AM
Xuân khứ bách hoa lạc
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Xuankhubachhoalac_zps585ba087.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:23 AM
17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 - 1088)
Chùa Long ân, Ninh sơn, phủ Ứng Thiên, người Từ lý, làng Kim bài, họ Đàm tên Khí. Mẹ là Cù Thị, lúc chưa lấy chồng, nhà ở bên cạnh rừng Mộ, thấy người bẫy chim đêm bà buồn bã nói: "Thà chịu chết làm lành, chứ không chịu sống làm ác".
Một hôm, bà bắt đầu dệt gấm, có một con khỉ lớn từ trong rừng ra, đến ôm lưng bà, trọn ngày mới bỏ đi. Cù Thị biết mình có thai. Đến khi sinh con, bà ghét lắm, đem bỏ trong rừng. Có người Chiêm thành cùng làng là Cụ Sư họ Đàm lượm đem về nuôi, nhân đó đặt tên là Khí.
Đến năm 10 tuổi, theo học nghiệp Nho. Học vấn càng ngày càng tiến, rất giỏi chữ Hán và Phạn.
Năm 19 tuổi xuất gia, đầy đủ giới định. Đối với nghĩa của hai kinh Viên Giác, Pháp hoa Sư nghiên cứu rất tinh tường. Khi đã được tâm ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, Sư vào thẳng Ninh sơn dựng am tranh tu hành, gọi là Ngộ Ấn.
Có lần vị tăng hỏi: "Thế nào là đại đạo?"
Sư đáp: "Đường lớn".
Vị tăng thưa: "Kẻ học đạo này hỏi đại đạo, mà thầy đáp là đường lớn, vậy không hiểu ngày nào mới đạt được đại đạo?".
Sư đáp: "Mèo chưa biết bắt chuột?".
Tăng thưa: "Con mèo có Phật tánh không?".
Sư đáp: "Không" (1).
Tăng liền hỏi: "Hết thảy hàm linh đều có Phật tính, sao riêng Hoà thượng lại không?".
Sư đáp: "Không, ta không phải hàm linh".
Tăng thưa: "Đã không phải hàm linh, vậy có phải Phật không?"
Sư đáp: "Ta không phải Phật, cũng không phải hàm linh"(2).
Có người hỏi: "Phật là gì? Pháp là gì? Thiền là gì?".
Sư đáp: "Đấng Pháp vương vô thượng, ở thân là Phật, ở miệng là Pháp, ở tâm là Thiền. Tuy là
ba phần, nhưng điểm kết là một. Ví như nước của ba con sông kia, tuỳ chỗ đặt tên, tên gọi tuy không giống, nhưng tính của nước thì không khác" (3).
Ngày 14 tháng 6 năm Quảng hựu thứ 4 (1088) [23b1]khi sắp thị tịch, Sư nói bài kệ sau:
Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu
Rỗng không tâm ngộ có gì đâu
Trên non ngọc đốt màu thường đẹp
Sen nở trên lò ướt chưa khô. (*)
Nói kệ xong, Sư vui vẻ ra đi, thọ 69 tuổi. Môn đồ để tâm tang ba năm.
____________
Chú thích :
(1)
Thiền sư Triệu Châu (778-897).Có vị sư hỏi: "Con chó có Phật tánh không?". Châu trả lời: "không". Xem Vô môn quan tờ 292c21.
(2)
Thiền sư Duy Khoan (735-817). Có v ịsư hỏi: "Thế nào là đạo?". Sư đáp: "Núi đẹp lớn". Tăng nói: "Kẻ học đạo mà hỏi thầy về đạo, sao thầy lại nói về núi đẹp?" Sư đáp: "Ngươi chỉ biết có núi đẹp thì làm sao mà đạt đạo". Tăng hỏi: "Con chó có Phật tính không?" Sư đáp: "Có". Tăng hỏi: Hoà thượng có không?". Sư đáp: "Ta không có". Tăng hỏi: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, Hoà thượng vì sao mà riêng không có?" Sư đáp: "Ta chẳng phải là tất cả chúng sanh". Tăng hỏi: "Đã chẳng phải là chúng sanh thì là Phật sao?" Sư đáp: "Chẳng phải Phật". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a1u26-22.
(3)
Thiền sư Duy Khoan. Bạch Cư Dị thường đến hỏi Sư: "Thiền sư lấy gì mà thuyết pháp?". Sư đáp: "Vô thượng bồ đề, mặc ở thân là luật, nói ở miệng là pháp, hành ở tâm là thiền. Ứng dụng nó thì có ba, nhưng đích nó là một. Ví như sông Dương tử, sông Hoàng Hà, sông Hoài, sông Hán tùy theo chỗ mà đặt tên, tên tuy không phải là một, nhưng tính nước không phải là hai. Luật tức là pháp, pháp tức là thiền, thì làm sao trong đó có thể dối dấy lên sự phân biệt". Xem Truyền đăng lục7 tờ255a25-29.
-----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
妙性虛無不可攀,
虛無心悟得何難。
玉焚山上色常潤,
蓮發爐中濕未桿。
Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.
hoatihon
06-10-2015, 11:24 AM
Liên phát lô trung
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Hoa-trong-lua-do_zps66dd27a9.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:27 AM
Thế Hệ Thứ Chín (8 người, 3 người khuyết lục)
18. THIỀN SƯ Đạo Huệ(? - 1073)
Chùa Quang Minh, núi Thiên phúc, Tiên du. Người Chân hộ, Như nguyệt, họ Âu. Tướng mạo đoan chánh, tiếng nói rổn rảng. Năm 25 tuổi đến xuất gia với Ngô Pháp Hoa (1), tại chùa Phổ ninh nắm thấu lẽ huyền, hiểu sâu áo chỉ của Hoa. Sau đến chùa Quang minh trác tích, tu luyện giới luật, tập tành thiền định, lưng không dính chiếu, ròng rã sáu năm, bèn đạt được "Tam quán tam ma địa" (2). Môn đồ có hơn nghìn người. Ngày đêm trì kinh, cảm hóa được các loài khỉ vượn trong núi. Chúng tụ họp kéo nhau đến nghe pháp. Do đó tiếng Sư vang tới kinh đô. Năm Đại Định thứ 20 (1159), Thụy Minh hoàng cơ đau (3), vua sai sứ triệu Sư đến xem bệnh. Lúc ra đi khỉ vượn buồn kêu như biết lưu luyến. Đến cung, lúc Sư còn đang ở ngoài cửa phòng, thì bệnh của Hoàng cơ liền bớt. Vua Lý Anh Tôn hết sức vui mừng, mời Sư đến ở chùa Báo thiên (4). Trong vòng một tháng, các quan viên và bạn đạo khâm phục phong cách của Sư, kéo đến đông không kể xiết, Sư liền mở trường dạy dỗ, không trở về núi nữa. Cháu con nối dõi, thịnh thành một phái.
Ngày mồng một tháng tám năm Nhâm thìn Chánh Long Bảo Ứng thứ10 (1172). Sư thị bệnh than rằng:
"Loạn lạc tứ tung
Do đâu mà đến?"
Rồi nói kệ:
Đất, nước, gió, lửa, thức.
Nguyên lai tất cả không
Như mây tan rồi hợp,
Trời Phật chiếu vô cùng. (*)
Lại nói:
Sắc không cùng diệu thể,
Chẳng hợp chẳng lìa xa,
Nếu ai muốn rõ biết,
Trong lò một cành hoa. (**)
Vào canh ba đêm đó, Sư lặng lẽ đi luôn. Môn đồ là Quách tăng thống, sắm đủ lễ vật, đem về quận mình làm lễ trà tỳ. Khi chịu tâm tang xong, bèn xây tháp tại chùa Bảo khám núi Tiên du, rồi rước xá lợi về tôn trí.
____________
Chú thích :
(1)
Tức Thông Biện, Biện họ Ngô mà vì giỏi kinh Pháp hoa, nên cũng gọi là Ngô Pháp Hoa. Ngô Pháp Hoa cũng là Ngộ Pháp Hoa đấy.
(2)
Tam quán tam ma địa, tức lối Thiền định dùng ba lối quán tưởng. Có tam quán của tôn Hoa nghiêm. Có tam quán của tôn Duy thức. Có tam quán của tôn Luật. Có tam quán của tôn Thiên thai. Và có tam quán tam ma địa của kinh Viên Giác. Tam quán tam ma địa ở đây có thể là tam quán của kinh Viên giác, mà truyện Viên Chiếu đã nói tới và đã giải thích, và nó là một thứ thiền định thường được ưa chuộng trong Thiền tôn Việt nam. Nhưng bởi Đạo Huệ là đệ tử của Thông Biện, một chuyên viên về kinh Pháp hoa nổi tiếng đến nỗi có tên là Ngộ Pháp Hoa, tam quán tam ma địa ở đây, do thế, có thể chỉ tam quán của Thiên thai tôn đã dùng kinh Pháp hoa như một văn kiện nghiên cứu và tu hành cơ bản. Phép tam quán của tôn này gồm có Không quán, Giả quán và Trung quán. Không quán tức nhìn sự vật bằng bản chất không của chúng, nghĩa là nhìn chúng xuất hiện do điều kiện. Khi nhìn được thế rồi, ta tiến tới được cái nhìn giả, tức giả quán, nghĩa là ý thức được rằng sự vật nằm trong một sự liên hệ hỗ tương, nên chúng phải tùy thuộc vào sự liên hệ đó, mà không thể có sự độc lập tuyệt đối được. Sau khi đạt được cái nhìn đó, ta tiến thêm một bước thứ ba, đấy là cái nhìn trung đạo, tức cái nhìn nhận sự vật trong chân tướng của nó, không còn nhìn nó hoặc như một xuất hiện hoàn toàn do điều kiện, hoặc hoàn toàn lệ thuộc vào những điều kiện ấy. Nó cũng có một hiện hữu nào đấy trong hệ thống liên hệ hỗ tương.
(3)
Nguyên văn: Đại Định nhị thập niên Thụy Minh hoàng cơ đắc tật. Nhưng cứ Toàn thư B4 tờ 10a3 thì "Đại Định năm thứ 12 mùa đông tháng 10 (1151) Thụy Minh công chúa mất". Như vậy vào năm 1151 công chúa Thụy Minh tức bà cô của Lý Anh Tôn và là con của Thần Tôn, đã mất. Do thế, không thể nào đến năm Đại Định thứ hai mươi, tức năm 1159, lại còn bị đau. Phải chăng chữ nhị thập ở đây là một viết ngược của chữ thập nhị? Đây là có thể gần thật nhất, bời vì Thiền uyển tập anh có nhiều điều viết ngược tương tự, như tên của Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm là một thí dụ. Tuy nhiên, Toàn thư đôi khi có những sai khác với những sử liệu khác như Đại Việt sử lược, nhất là về một số niên đại của một số nhân vật nên ta không nhất thiết phải tin hoàn toàn ở Toàn thư. Chẳng hạn, theo Toàn thư B5 tờ 5b7 thì Nguyễn Nộn mất vào năm Kiến Trung thứ 5 (1229),
nhưng theo Đại Việt sử lược 3 tờ31b3 thì Nộn đã chết trước đó 10 năm, tức năm Kiến Gia thứ 9 (1219).
(4)
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Chùa Báo thiên ở tại thôn Tiên thị, huyện Thọ xương, xưa gọi là phường Báo thiên, do vua Lý Thánh Tôn dựng. Vua lại xây bảo tháp Đại thắng tư thiên, cao vài chục trượng, hình thức nó gồm 12 tầng. Vua phát đồng 12000 cân để đúc chuông. Đến đời Nhuận Hồ, đỉnh tháp rơi. Quan An phủ sứ đông đô vì không báo tai biến đó, bị biếm chức.
Cuối đời Lê, Ngụy Tây gỡ lấy gạch ngói để dùng việc xây cất khác. Các ngói gạch ấy đều có khắc niên hiệu thời Lý. Nay những hòn đá xanh còn lại có hình hoa sen là những hòn đá xây bề ngoài của tháp, còn những viên có tám góc là những viên xây bệ tháp. Chúng đều những vật xưa cả". Tang thương ngẫu lục quyển hạ viết: "Bảo tháp Đại thắng tư thiên tại chùa Báo thiên dựng từ thời vua Lý Thánh Tôn. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng. Tương truyền bốn vật lớn của An nam thì tháp này là một.
Khoảng Minh Tuyên Đức, Thái Tổ hoàng đế của tiên triều tiến binh vây Đông đô. Viên tướng giữ thành là Thành sơn hầu Vương Thông, phá hủy tháp lấy đá chế súng để giữ thành. Tiên triều nhân nền cũ đắp các núi đất phủ lên trên. Sau hồi thay đổi triều vua, người ta lại bỏ chùa để làm chợ Báo thiên, dùng các núi đất làm chỗ để xử tử người tội. Năm Giáp dần (1794) lại cho đào lấy những gạch đá ở nền tháp để tu bổ thành lũy Thăng long. Khi phá nền tháp, thấy có tám pho tượng Kim cương chia đứng bốn cửa. Ngoài ra còn có những tượng người tiên, chim muông, cả đến những giường ghế, chén bát, các thứ lặt vặt không thể kể xiết, toàn bằng đá cả. Những hòn gạch hoa, hòn nào cũng thấy khắc những chữ "Lý gia đệ tam để Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo".
Mẩu tin của Tang thương ngẫu lục liên quan đến việc nhà Lê cho đắp nền đất trên nền tháp Báo thiên chắc chắn là sai, bởi vì cả Toàn thư B11 tờ 10a9-b2 và Cương mục chính biên 16 tờ 11b4 đều ghi việc trùng tu chùa Báo thiên vào năm 1434. Đây là một cuộc trùng tu lớn, như chính Toàn thư thừa nhận với cái mô tả"thợ mộc trọng đại" do nhà nước đảm nhận sáu năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng khỏi bọn xâm lược Minh. Không những thế, cả Toàn thư B12 và Cương mục chính biên 18 tờ 5b4 đều nói năm 1448 Lê Nhân Tôn cùng mẹ đến chùa Báo thiên để cầu mưa. Như vậy, rõ ràng không phải "Tiên triều đã nhận nền cũ của chùa để đắp các núi đất phủ lên trên". Tiên triều đấy có thể chỉ đời Lê Trung Hưng chăng?. Dẫu sao đi nữa, nền cũ chùa Báo thiên hiện nay nằm trên nền nhà thờ lớn Thiên chúa giáo Hà nội. Cũng cần thêm là, Đại Việt sử lược và Toàn thư B4 tờ 14b1 nói Chính Long Bảo Ứng năm thứ 10 (1162) thì phải là năm Nhâm thìn, chứ không phải Ất hợi. Thật ra, trong khoảng Chính Long Bảo Ứng, tức từ năm 1163 đến 1172, không có năm nào là năm Ất hợi hết. Do thế, Ất hợi là một chép lầm của Nhâm thìn. Tự dạng những chữ đó rất giống nhau.
----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
地水火風識,
原來一切空。
如雲還聚散,
佛日照無窮。
Địa thuỷ hoả phong thức,
Nguyên lai nhất thiết không.
Như vân hoàn tụ tán,
Phật nhật chiếu vô cùng.
(**)
色身與妙體,
不合不分離。
若人要甄別,
爐中花一枝。
Sắc thân dữ diệu thể,
Bất hợp bất phân ly.
Nhược nhân yếu nhân biệt,
Lô trung hoa nhất chi.
hoatihon
06-10-2015, 11:28 AM
Phật nhật chiếu vô cùng
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/diathuyhoaphongthuc_zpsafde5ed3.jpg
hoatihon
06-10-2015, 11:31 AM
Lô trung hoa nhất chi
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/sacthandudieuthe0_zps78b842ec.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:35 AM
19. THIỀN SƯ Biện tài
Chùa Vạn tuế, kinh đô Thăng long. Người Quảng châu, đến nước ta vào thời vua Lý Thánh Tôn, là người nối pháp của Quốc sư Thông Biện, vâng lịnh vua biên sửa "Chiếu đối lục" (1).
________________
Chú thích :
(*)
Chiếu đối lục : Cứ một câu truyện Thần Nghi thì cũng gọi là Chiếu đối bản. Theo câu đấy, thì tác giả của Chiếu đối bản là Thông Biện, chứ không phải là Biện Tài. Phải chăng Chiếu đối lục và Chiếu đối bản là hai tác phẩm? Ta có thể nói rằng Chiếu đối bản là một tác phẩm hoàn toàn của Thông Biện, còn Chiếu đối lục là một tác phẩm do Biện Tài phụng sắc vua sửa lại Chiếu đối bản của Thông Biện mà thành. Dĩ nhiên, những thêm thắt sửa sai của Tài chắc chắn tương đối phải ít, bởi vì Tài là đệ tử nối dòng của Thông Biện, và do đó, dẫu có thêm bớt sửa sai Chiếu đối bản, Tài làm vậy để làm rạng rỡ uy danh của thầy mình. Vì vậy, ta không có gì đáng ngạc nhiên, khi thấy về sau những người như Thường Chiếu và Quách Thần Nghi chỉ nhắc tên Thông Biện trong liên hệ với Chiếu đối bản, mà không nhắc gì tới Biện Tài, và cũng từ đó ta có thể nói Chiếu đối lục tức cũng là Chiếu đối bản với
một vài tu chỉnh nào đấy, mà ngày nay ta không biết. Cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã tán thất hiện nay chưa tìm thấy. Tây hồ chí viết khoảng sau năm 1851 là tác phẩm duy nhất nói tới Chiếu đối lục của Biện Tài.
hungcom
06-10-2015, 11:36 AM
20. THIỀN SƯ Bảo Giám (? - 1173)
Chùa Bảo phúc, Quân chương, Mỹ lương. Người làng Trung thụy, họ Kiều tên Phù, là người trung tín, thành thực, điềm đạm, giản dị. Nhỏ theo Nho nghiệp: Thi, Thư, Lễ, Dịch không thứ gì là không khảo cứu, lại viết đẹp, vẽ khéo, làm quan dưới triều Lý Anh Tôn, chức Cung hầu xá nhân.
Năm 30 tuổi Sư từquan, đến xuất gia với v ịchủ chùa Bảo phúc, tại Đa vân. Cả tạng kinh chùa đó đều tự tay Sư chép ra. Đến khi vị chủ chùa mất, Sư kế chân làm trú trì, tự sống đời đạm bạc, mình thường mặc áo vải, không dùng tấc lụa, nhiều năm như thế, lòng không thối chí. Thường bảo đồ chúng rằng: "Bước lên chiếc xe của Phật là nhờ siêng năng, thành tựu Chánh giác của Phật là do trí tuệ. Giống như mũi tên bắn đi, nó tới được ngoài trăm bước, là nhờ cái lực, nhưng trúng được đích, không phải nhờ vào lực vậy" (1).
Ngày mồng 7 tháng 5 năm Chánh Long Bảo ứng thứ 11 (1173) khi sắp viên tịch, Sư nói kệ:
Được thành chánh giác ít nhờ tu
Trí tuệ ưu tiên thoát ngục tù
Nhận lẽ ma ni huyền diệu ấy
Như kìa trời rộng tỏa vừng ô. (*)
Lại nói:
Người trí như trăng chiếu khắp trời
Sáng trùm mọi cõi chẳng vì ai
Nếu người muốn biết nên phân biệt
Man mác chiều non khói toả khơi. (**)
Lại nói:
"Tâm ý của đức Như Lai, đều không thể hiểu được, chỉ nên dùng Vô lượng trí (mới hiểu nổi thôi). Cho nên, biết rằng tâm của Như Lai ví như hư không, là nơi nương tựa của tất cả sự vật, thì trí tuệ của Như Lai cũng như vậy". Nói xong, Sư mất. Môn đồ thu xá lợi xây tháp.
________________
Chú thích :
(1)
Động Sơn Lương Giới, Bảo kỉnh tam muội ca:
"Nghệ dĩ xảo lực
Xạ trúng bách bộ
Tiển phong tương trực
Xảo lực hà dự"
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ321b5.
---------------
Chú thích của hungcom :
(*)
得成正覺罕憑修,
祗為牢籠智慧懮。
認得摩尼玄妙理,
正如天上顯金烏。
Đắc thành chánh giác hãn bằng tu,
Chỉ vị lao lung, trí tuệ ưu.
Nhận đắc ma ni huyền diệu lý,
Chỉ như thiên thượng hiển kim ô.
(**)
智者猶如月在天,
光含塵剎照無邊。
若人要識須分別,
嶺上扶疏鎖暮煙。
Trí giả do như nguyệt tại thiên,
Quang hàm trần sát chiếu vô biên.
Nhược nhân yếu thức tu phân biệt,
Lĩnh thượng phù sơ toả mộ yên.
hoatihon
06-10-2015, 11:39 AM
"Mài gạch làm gương"
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Maagraveig1EA1chlagravemg1B001A10ng_zps9b9aceff.jp g
hoatihon
06-10-2015, 11:44 AM
Như nguyệt tại thiên
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Nhunguyettaithien_zps28a51013.jpg
hungcom
06-10-2015, 11:46 AM
21. THIỀN SƯ Không Lộ ( ? - 1119)
Chùa Nghiêm quang, Hải thanh, họ Dương. Dòng dõi làm nghề chài, sau bỏ nghề chài, hướng lòng theo Phật, thường trì tụng đà la ni môn. Trong khoảng Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065) cùng bạn đạo là Giác Hải cất bước vân du, tạm đến chùa Hà trạch (1)nương thân, mặc áo cỏ, ăn lá cây, đến nỗi quên chính thân mình. Ngoài dứt ruỗi dong, trong tu thiền định, tâm thần tai mắt ngày một nhẹ nhàng, bèn bay lên không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi (2).
Sau Sư về quận mình lập chùa. Một hôm, có thị giả thưa rằng: "Từ ngày con đến đây, chưa được
thầy dạy bảo chỗ tâm yếu, nhưng con mạn phép xin trình một bài kệ:
"Rèn luyện thân tâm mới được trong
Sum suê cây thẳng ngó sân không
Có người đến hỏi Không vương pháp, (3)
Ảnh rập hình ngồi cạnh chấn phong".
Sư xem xong bảo: "Ngươi đem Kinh đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước đến, ta vì ngươi uống, thì có chỗ nào mà ta lại không cho ngươi tâm yếu?" (4). Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường nói kệ rằng:
"Chọn chỗ đáng nương, đất rắn rồng,
Tình quê suốt buổi mãi vui rong
Có khi lên thẳng đầu non quạnh
Huýt một hơi dài lạnh cõi không" (5) (*).
Ngày mồng 3 tháng 6 năm Kỷ hợi, Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119), Sư viên tịch. Môn đồ thu thập xá lợi táng trước cửa chùa.
Sau đó, vua ban chiếu sửa rộng chùa này và đặc cách cho thuế hộ 20 người để trông coi hương khói. (Vị Sư này không có niên đại có thể truy cứu, nay dựa theo thứ tự truyền pháp trong Nam tôn đồ mà mô tả ra đây) (6).
________________
[SIZE="3"]Chú thích :
(1)
Chùa Hà trạch này chắc là chùa của Lôi Hà Trạch, tên một vị Thiền sư mà Thông Biện nói tới như người đồng thời với Mai Viên Chiếu và Nhan Quảng Trí. Xem chú thích (22) truyện Thông Biện. Việt sử tiêu án1 tờ 109b3 ghi lời bàn của Ngô Thời Sỹ thế này:
"Triều Lý sùng Phật, từ Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta ưa theo. Tiếp đến có Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều người Hải thanh, thờ sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Chân nhân Thông Huyền cũng nổi tiếng phép thuật, nên Nhân Tôn có lời khen: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo lại huyền". Nhưng kêu rồng xuống làm cọp nép, đấy chẳng phải tài phò nguy định loạn. Đi trên không, bay giữa trời, đấy chẳng cách trị dân giữ nước ..."
(2)
An nam chí nguyên 3 tờ211 dẫn đoạn này nói về Không Lộ. Nó viết: "Thiền sư Không Lộ là sư huyện Giao thủy, có thể bay giữa không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi".
(3)
Không Vương pháp, pháp của Không Vương, tức của Phật, đo đạt được bản tính không của vạn hữu mà thiết lập. Xem câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục :
Bất tằng bác lãm Không Vương giáo
Lược tá huyền cơ thế đạo khan
(4)
Bài kệ rập theo bài thơ tặng Duy Nghiễm của Lý Cao trong Truyền đăng lục. Cao hỏi Nghiễm: "Thế nào là đạo?". Nghiễm giơ tay chỉ trên dưới nói: "Hiểu không?". Cao đáp: "Không hiểu". Nghiễm nói: "Mây trên trời, nước trong bình". Cao bèn mừng rỡ sụp lạy và viết bài kệ:
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết
Vân tại thanh thiên thủy tại bình
(Rèn được thân hình giống hạc hình
Dưới tùng ngàn cỗi đôi hòm kinh
Ta đi hỏi đạo không thêm nói
Mây tại trời xanh, nước tại bình)
Thiền sư Sùng Tín nói với Thầy mình là Đạo Ngô: Tôi từ thuở tới đây không được thầy chỉ thị tâm yếu? Ngô đáp: "Từ lúc ngươi tới đây ta chưa từng không chỉ thị tâm yếu cho ngươi". Tín nói: "Chỉ thị chỗ nào?". Ngô đáp: "Ngươi mang trà đến ta tiếp cho ngươi, ngươi mang cơm đến ta nhận cho ngươi. Lúc nào ngươi chào ta, ta liền cúi đầu. Thế thì chỗ nào là ta không chỉ thị tâm yếu?".
Xem thêm truyện Thiền sư Thiện Hội nói với một tiểu thị giả: "Ngươi nấu cơm, ta nhóm lửa. Ngươi dọn bàn, ta dở bát. Ta phụ rãy ngươi ở chỗ nào đâu?".
(5)
Thiền sư Dược Sơn một đêm kinh hành trên núi, mây vẹt trăng tỏ, bèn cười vang, truyền dài 90 dặm đông tới Phong dương. Thứ sử Lý Cao nhân đó làm bài thơ tặng:
Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời, trực thượng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.
(6)
Bản in đời Nguyễn của An Thiền dưới cái tên Trùng khắc đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng chép về một truyện sử hoàn toàn khác với truyện sử đây về Không Lộ. "Trong khoảng Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tôn, có Thiền sư Không Lộ, người Lại trì, huyện Chân định, tỉnh Nam định, họ Nguyễn, thường cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh kết làm đồng chí. Năm ông 29 tuổi ba người đi qua nước Thiên trúc, theo học với một vị Sa môn. Được lục trí thần thông rồi, bèn
quay trở về quê mình, dựng chùa Diên phúc, chuyên trì chú Đại bi. Bấy giờ Không Lộ muốn tạo cho nước Đại nam bốn món đồ, chỉ hiềm vì dân nghèo sức mọn. Một hôm ông nghĩ tới nước Tống đất rộng tất có nhiều đồng tốt có thể dùng cho việc đúc tạo, bèn liền rút ngắn đường, đi lên phương Bắc, khách trú ở nhà một trưởng giả, rồi xin đất sáu tấc để dựng chùa. Vị trưởng giả cười nói rằng: "Xưa Lương Thái tử dựng chùa, đất rộng ngàn dặm, vàng ròng khắp đất. Sao bây giờ lại lấy sáu tất đất như thể chỗ chuồng gà mà làm chi?". Đêm đó Sư bèn tung áo cà sa phủ khắp mười dặm đất. Vị trưởng giả thấy ông có phép làm thần, bèn đem hết vợ con đến lạy tạ. Từ đó, cả nhà đều qui y Tam bảo.
Ngày hôm sau, ông mặc pháp phục, cầm gậy vào triều, thẳng đứng giữa sân rồng. Vua bấy giờ đang buổi thị triều chính văn võ hai ban, thấy vị Sư già, bèn triệu vào hỏi: "Lão ông là dân người phương nào, tên họ là chi, đến đây có việc gì?" Vị
Sư già thưa: "Tôi là bần tăng của một nước nhỏ, xuất gia đã lâu năm, nay muốn tạo bốn món đồ cho Đại Nam, nhưng vì sức không theo lòng, cho nên tôi không ngại vượt núi băng rừng ngàn dặm đến đây. Ngưỡng mong Thánh đế mở rộng tấm lòng bố thí cho một ít đồng tốt, để tiện việc tạo đúc". Vua hỏi: "Đồ đệ đi theo có bao nhiêu vị?". Sư đáp: "Chỉ một mình bần tăng thôi, xin đầy một bao đồng, tự mình vác về là đủ". Vua nói: "Phương Nam đường sá xa xuôi, cho phép Sư tùy sức mà lấy, chẳng cần đếm ghi". Vị quan giữ kho thấy nhà Sư nghèo đã lấy hết kho đồng rồi, mà vẫn chưa đầy một bao, bèn le lưỡi lắc đầu, vào triều tâu việc đó. Vua ngạc nhiên hối tiếc, nhưng nghiệt vì đã hứa cho, nên không thể làm sao được. Vua đem trăm quân tiễn đưa về nước. Vị Sư nghèo từ chối, nói rằng: "Một bao đồng, tự mình đủ sức mang đi, chẳng nhọc đưa gánh". Vị Sư nghèo đi ra ngoài rồi, bèn lấy gậy quảy bao mà đi một cách nhẹ nhàng. Qua sông bèn lấy nón làm ghe, rồi trở về.
Trong phút chốc đã tới bến Hoàng giang, bèn tới chùa Quỳnh lâm, huyện Đông triều, tỉnh Hải dương, đúc tượng Đại Phật Di Đà, tháp Báo thiên ở kinh đô một ngọn, chuông lớn chùa Phổ lại một quả, vạc lớn chùa Phổ minh một cái. Số đồng còn lại đem đúc hồng chung cho chùa ở xã mình, nặng ba ngàn ba trăm cân. Lại đúc cho chùa Diên phúc, huyện Giao thủy một quả hồng chung nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, bèn làm bài kệ tán rằng:
Cỡi nón vượt biển lớn
Một giây muôn dặm đường
Tống đồng một bao hết
Tay múa sức ngàn cân.
Bấy giờ Hoàng đế Nhân Tôn xây điện Hưng Long năm sau mới xong, cực kỳ tráng lệ. Bỗng nghe trên rường hai con ễnh ương kêu lớn, tiếng như sấm to. Vua ủ rũ không vui. Lúc ấy, vị chỉ huy sứ tâu: "Chỉ có Không Lộ và Giác Hải mới trừ được loài quái vật đó".
Chỉ huy sứ tức thì nhận lệnh vào hôm rằm tháng giêng đến trước am sư, Sư hỏi: "Chỉ huy đến sao trễ thế?" Vị chỉ huy trả lời:
"Thầy sao biết trước chức tước của tôi?" Sư đáp: "Ta cỡi trăng đạp mây nhân vào thành vua, nên sớm biết việc đó". Ngày đó Sư đến kinh đô. Vua đem một cây đinh lớn đóng vào cột điện, nói rằng: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì làm Pháp chủ". Không Lộ lấy tay bật cái đinh ra một cách nhẹ nhàng và mật tụng thần chú thì hai con ễnh ương nghẹn cổ không còn kêu và giây lát rớt xuống đất. Vua thưởng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang năm trăm mẫu và phong làm Quốc sư.
Bấy giờ vua Thần Tôn tuổi mới 21, bỗng nhiên biến làm một con cọp dữ, xông xáo cắn người, nanh vuốt dễ sợ. Vua phải làm một cái chuồng vàng mà nhốt đi. Thì nghe con nít huyện Chân định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tôn
Triều đình muôn chuyện thông
Muốn yên bệnh thiên hạ
Phải được Nguyễn Minh Không
hungcom
06-10-2015, 11:47 AM
Vua xuống chiếu cho vị chỉ huy rằng: "Đem thuyền đi đón Sư". Vị chỉ huy đến am, Sư cười nói: "Phải chăng chẳng là chuyện cứu con cọp dữ đó sao?". Vị chỉ huy hỏi: "Thầy làm sao biết sớm vậy?". Sư đáp: "Ba mươi năm trước đây ta đã biết chuyện này rồi". Sư đến, lên trên điện vua ngồi, lớn tiếng nói: "Trăm quan vui lòng đem đỉnh dầu lớn đến đây". Trong đấy, Sư để thêm một trăm cái kim, rồi nổi lửa đốt cháy hừng hực. Bên cạnh để cái chuồng giữ vua. Sư lấy tay mò vào trong đỉnh, lấy ra một trăm cái kim, phóng vào mình vua, quyết rằng: "Làm Thiên tử là quý". Vua tự nhiên lông đuôi vuốt nanh rớt rụng hết và trở lại làm thân vua. Vua trả ơn bằng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang một ngàn mẫu, vĩnh viễn làm ruộng chùa không ghi vào sổ thuế.
Sư ra đời ngày 14 tháng 8 năm Bính thìn, đến ngày 13 tháng 6 năm Giáp tuất thì mất. Hiện nay, trước huyện lỵ Thọ Xương, tỉnh Hà nội có đền thờ Lý Quốc Sư thờ thần tượng Sư hiện có bia ký. Thị dân đạo Tiên muôn đời đèn nhang phụng sự".
Trên đây là tiểu sử của Không Lộ theo bản in đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh do Hoà thượng Phúc Điền thực hiện vào năm 1858 dưới cái tên Trùng khắc Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng. Nó rõ ràng là một hỗn hợp khá lộn xộn những việc làm khác nhau của ba người khác nhau vào một, đấy là chuyện đi xin đồng của Không Lộ theo truyền thuyết mà đã nổi tiếng từ thế kỷ thứ 14, như An nam chí lược 15 tờ147 đã ghi lại chuyện Giác Hải cùng Thông Huyền làm rơi hai con ễnh ương và chuyện chữa bệnh vua Lý thần Tôn của Minh Không. Chuyện của Giác Hải thì đã ghi trong tiểu sử Giác Hải. Chuyện của Minh Không cũng thế. Chúng tất do đó, không thể nào xảy ra với Không Lộ được. Tiểu sử dịch trên của Không Lộ như vậy chắc chắn là một tạo dựng hậu kỳ khá vụng về, tối thiểu là từ bản in đời Lê vào năm 1715 trở đi. Vấn đề bây giờ là ai đã tạo dựng nên nó? Phải chăng Hoà thượng Phúc Điền, người đứng khắc bản in 1858 trên?
Trong lời tựa viết cho bản in năm đó, mà bộ Phật điển tùng san cho in lại trong Ngự chế thiền điển thống yếu kê đăng lục , Phúc Điền nói: "Về phía nước ta thì xưa có Thiền uyển lục là Thiền uyển, tên là Tập anh, ghi lại những bậc thạc đức cao tăng của ba triều (Đinh, Lê, Lý) và trình bày sơ cuộc đời họ". Nhưng trong lổ ngổ không phải một và sai trái thật khó nghe.
Cho nên tôi đã hiệu đính lại, rồi cho chép sạch ra, đểin mà công bố, nhằm giữ lại bản xưa, riêng in làm quyển thượng. Viết thế này, phải chăng Phúc Điền đã khẳng định rằng mình không phải là người đã tạo dựng nên nó?. Vậy phải chăng nó đã đến từ cái để bản, mà Phúc Điền dùng và gọi là "Cựu bản Tiêu sơn tự" nghĩa là " bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn?" Đây là một có thể. Nhưng về "Cựu bản Tiêu sơn tự" này nó in năm nào và do ai? Ta không biết một tí gì hết. Có kẻ sẽ nghĩ rằng "Cựu bản Tiêu sơn tự" này chính là bản Thiền uyển tập anh in năm 1715 đây. Song, đấy dĩ nhiên chỉ là một cách nghĩ vô căn cứ, nếu không là hoàn toàn sai lầm, khi ta thấy sự sửa đổi trầm trọng đã xảy ra ở trên trong bản tiểu sử của Không Lộ. Tính tạo dựng hậu kỳ trên của bản tiểu sử càng bộc lộ rõ rệt với sự đồng nhất của truyện Dương Không Lộ trong Lĩnh nam trích quái truyện với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh của chúng ta không những về cốt truyện, mà ngay cả về văn từ. Lĩnh nam trích quái truyện tờ 35: "Hải thanh, Nghiêm quang tự, Không Lộ Thiền sư. Tánh Dương Thị, nãi Hải thanh nhân giả, thế nghiệp điếu ngư, Sư xả kỳ nghiệp nhi tăng yên, cư thường niệm gia trì Đà la ni môn Kinh. Chương Thánh Gia Khánh niên gian, dự Giác Hải vi đạo hữu, tiềm chí Hà trạch tự thê thân yên, thảo y mộc thực đãi vong kỳ thân, ngoại tuyệt tha cầu, nội tu thiền định, tâm thần nhĩ mục, nhật giác sảng nhiên. Tiên năng phi không lý thủy, phục hổ hàng long, vạn quái thiên kỳ, nhân mạc chi trắc. Hậu tầm quy cố hương, sáng tự cư chi. Nhất nhật hữu thị giả khải vân: "Mỗ tự đáo lai vị mông chỉ thị tâm yếu, cảm trình kệ vân:
Đoàn luyện thân tâm thỉ đắc thanh
Sum sum trực cán đối hư linh
Hữu thân lai vấn không không pháp
Thân tại bình biên ảnh tập hình.
Sư giác chi, viết: "Nhữ tương kinh lai, nhữ tương kinh lai, ngô vị nhữ thọ, ngô vị nhữ ái, hà xứ bất dự nhữ tâm nguyện?" Nãi kha kha đại tiếu. Sư thường thuyết kệ vân:
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã hình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Hội tường Đại Khánh thập niên Lý Nhân Tôn niên hiệu Kỷ hợi lục nguyệt sơ tam nhật, thị tịch, môn nhân thu xá lợi hàm táng vu tự môn. Hữu chiếu quảng kỳ tự, quyên hộ tam thiên dĩ phụng hương hỏa".
Đọc qua truyện này, có thể thấy nó đồng nhất với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh, trừ một vai sai khác nhỏ nhặt do việc tam sao thất bổn. Cũng cần thêm là, sự đồng nhất thật đáng ngạc nhiên. Phải chăng cả Thiền uyển tập anhlẫn Lĩnh nam trích quái truyện đã sao truyện của mình từ một bản gốc chung mà Thiền uyển tập anh cho biết là Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu? Hay chúng hoặc những người hiệu đính chúng đã sao chép lẫn nhau? Đây là một vấn đề khá lôi cuốn cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh.
----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
擇得龍蛇地可居,
野情終日樂無餘。
有時直上孤峰頂,
長叫一聲寒太虛。
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Ngoài ra theo một số bản khác Thiền Sư Dương Không Lộ còn có một bài thơ thứ hai, ý tứ cũng trác tuyệt, nhưng Học giả Lê Mạnh Thát cho rằng của một nhà sư đời Đường bên Tàu, nên không ghi vào, đó là bài "Ngư nhàn" :
萬里清江萬里天,
一村桑柘一村煙。
漁翁睡著無人喚,
過午醒來雪滿船。
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
hoatihon
06-10-2015, 11:49 AM
Trường khiếu nhất thanh
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/truongkhieunhatthanh_zpsbc520839.jpg
hoatihon
06-11-2015, 08:35 AM
Ngư nhàn
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nguongthuytruoc_zps26e51f17.jpg
hungcom
06-11-2015, 08:38 AM
22. THIỀN SƯ Bản Tịnh (1100 - 1176)
Am Bình dương, núi Chí linh, Kiệt đặc. Người Phù Diễn, Vĩnh khương, họ Kiều. Sư nhỏ hiếu học, rõ lẽ sinh tử nhà Phật, theo dấu nhân nghĩa nhà Nho, nhận được ý chỉ nơi Thiền sư Mãn Giác chùa Giác nguyên. Năm Đại Định thứ 2 (1141), Sư thẳng đến núi đó trác tích. Hữu bật Ngụy Quốc Bảo hâm mộ phẩm cách và đức độ của Sư, nên kính Sư như bậc thầy. Sau Sư nhận lời mời của Thành Dương công chúa, đến trụ trì chùa Càn an, thường phát đại nguyện rằng:
"Đời đời kiếp kiếp
Ý Phật không mê
Tự giác, giác tha,
Không chia đó đây,
Đề huề phương tiện,
Một nẻo cùng về". (*)
Vào một hôm trong tháng Giêng năm Trịnh Phù thứ 1 (1176), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy:
Một nẻo, một nẻo
Mèo đá đuôi vẫy
Xông đến vồ chuột
Hóa ra là quỷ
Nếu tỏ rõ được
Vàng từ lệ thủy (1) (**).
Rồi nói bài kệ sau:
Thân huyễn vốn từ Không tịch sinh,
Giống như trong kính hiện ra hình,
Hiểu rành hết thảy đều không huyễn,
Thật tướng phút giây thân huyễn thành (2) (***).
Nói kệ xong, Sư tịch, thọ 77 tuổi (3)
_____________
Chú thích :
(1)
Kim sinh Lệ thủy, chữ và ý rút ra từ thiên Đảo ngôn trong Hàn phi tử, theo đây thì trong sông Lệ của đất Kinh nam có vàng. Có lệnh cấm đãi vàng, mà nếu phạm tội thì phải tội phanh thây ở chợ. Nhưng người ta vẫn tiếp tục đãi trộm vàng, vì nghĩ rằng mình có thể không bị bắt. Cho nên Hàn phi tử kết luận: "Vì không bắt hết được, thì tuy có hình phạt phanh thây, chuyện ăn trộm vàng vẫn không chấm dứt".
(2)
Nguyên văn:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kính trung (nội tâm) xuất hình tượng
Giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều chép như vậy. Chúng tôi tham chiếu bài kệ thị pháp của Phật Tỳ Bà Thi trong Truyền đăng lục 1 tờ 204c22-23, theo đó:
Thân tùng vô tướng trung sanh thọ
Do như huyễn xuất chư hình tượng
Huyễn nhân tâm thức bản lai vô
Tội phúc giai không vô sở trụ.
Và đề nghị tái thiết lại bài kệ thị tịch của Bản Tịnh như sau:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kính trung xuất hình tượng
Giác liễu tâm nội nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
(3)
Cứ đây thì Bản Tịnh mất năm 1176 và thọ 77 tuổi. Do đó Tịnh sinh năm 1100. Nếu thế làm sao có thể nói "Tịnh nhận được ý chỉ nơi Thiền sư Mãn Giác của Giác Nguyên?" Bởi vì Mãn Giác mất năm 1096 lúc ông 45 tuổi, nghĩa là mất lúc Tịnh chưa ra đời. Vậy hoặc năm mất của Giác chép sai, hoặc tuổi thọ của Tịnh ghi lộn. Chúng tôi nghĩ rằng cả hai trường hợp đều có thể. Tuổi thọ của Tịnh có thể đúng ra là 97, nhưng vì chữ Hán viết chữ cửu dễ lộn với chữ thất, nên đã chép lộn thành 77. Nếu Tịnh quả sống đến 97 tuổi thì ông phải sinh vào năm 1080, nghĩa là sinh ra 16 năm trước khi Giác mất. Nhưng với tuổi 16 này, dù lịch sử phái thiền cũng có ghi một số vị đắc pháp với số tuổi đó hay ít hơn như trường hợp Đạo Tín, chúng tôi vẫn nghĩ nó còn ít quá để cho một người đắc pháp. Vì thế, năm mất của Mãn Giác có thể bị chép sai.
----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
世世生生,
不昧佛旨。
自覺覺他,
無間彼此。
方便提攜,
入於一揆。
Thế thế sinh sinh,
Bất muội Phật chỉ.
Tự giác giác tha,
Vô gian bỉ thử.
Phương tiện đề huề,
Nhập ư nhất quỹ.
(**)
一揆一揆,
石貓搖尾。
擲身捉鼠,
還化為鬼。
若要分明,
金生麗水。
Nhất quỹ, nhất quỹ,
Thạch miêu dao vĩ.
Trịch thân tróc thử,
Hoàn hoá vi quỷ.
Nhược yếu phân minh,
Kim sinh Lệ thủy.
(***)
幻身本自空寂生,
猶如鏡中出形像。
形像覺了一切空,
幻身須臾證實相。
Huyễn thân bản tự không tịch sinh,
Do như kính trung xuất hình tượng.
Hình tượng giác liễu nhất thiết không,
Huyễn thân tu du chứng thực tướng.
hoatihon
06-11-2015, 08:40 AM
Lời Phát nguyện
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/loiphatnguyen2_zps5d10484c.jpg
hoatihon
06-11-2015, 08:42 AM
Hư Huyễn
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/huhuyen2_zpsdfc60d18.jpg
hoatihon
06-11-2015, 08:45 AM
Như Huyễn
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhuhuyen_zps358e6426.jpg
hungcom
06-11-2015, 08:46 AM
Thế Hệ Thứ Mười (Gồm 12 người, 2 người khuyết lục)
23. THIỀN SƯ Minh Trí (? - 1196) (Trước tên Thiền Trí)
Chùa Phúc thánh, Điển lãnh, Người làng Phù cầm, họTô. Sư bẩm tính thông tuệ, đọc khắp các sách. Đến tuổi 20, gặp Đạo Huệ thượng sĩ, bèn bỏ tục xuất gia, gõ trúng bảng huyền. Hiểu rõ tôn chỉ các kinh Viên giác, Nhân Vương (1), Pháp hoa và sách Truyền đăng. Sư giảng dạy đồ chúng không biết mệt mỏi, nên được ban hiệu Minh Trí.
Một hôm, Sư cắt cỏ, có một vị Tăng khoanh tay đứng bên trái. Sư ném chiếc liềm đến trước mặt vị Tăng, cắt đứt một gốc cỏ.
Vị tăng thưa: "Cổ nhân dạy Hoà thượng chỉ cắt được một cái đó sao?"
Sư cầm chiếc liềm đưa lên, vị Tăng nhận lấy, bèn đứng thế cắt cỏ.
Sư nói: "Lại nhớ được câu sau đó chăng? Ngươi chỉ cắt được cái đấy, mà không cắt được cái kia sao?" (2) Vị tăng nghĩ rồi bỏ đi.
Sư nói chuyện một vị Tăng, bên cạnh có một vị Tăng khác nói: "Nói hết sức tức là Văn Thù, im lặng hết sức tức là Duy Ma" (3)
Sư bảo: "Không nói không im lặng, chẳng phải là ông sao?". Vị Tăng gật đầu.
Sư bảo: "Sao chẳng hiện thần thông?"
Vị Tăng thưa: "Chẳng từ chối việc hiện thần thông, chỉ sợ hoà thượng thâu vào giáo".
Sư bảo: "Ngươi chưa phải là con mắt ở ngoài giáo điển (4). Bèn nói kệ:
"Ngoài giáo khá riêng truyền
Cao sâu vực Tổ Phật
Nếu ngươi muốn rõ đích,
Tìm khói giữa diệm dương." (5)(*)
Một ngày tháng nào đó của năm Bính thìn Thiên Tư Gia Thụy thứ 11 (1196), lúc sắp tịch, Sư nói
kệ sau:
"Gió tùng trăng nước tỏ,
Không ảnh cũng không hình
Sắc thân là cái đó,
Không không tiếng vọng tìm". (**)
Nói kệ xong, Sư yên lặng mà mất.
________________
Chú thích :
(1)
Tức Phật thuyết nhân vương bát nhã ba la mật kinh. Cưu Ma La Thập dịch, giả thiết rằng bản dịch này là bản lưu hành nhất vào thời Lý, bởi vì có một bản dịch thứ hai do Bất Không thực hiện khoảng năm 765 cũng có tên Phật thuyết Nhân vương hộ quốc bát nhã ba la mật kinh.
(2)
Thiền sư Ẩn Phong(...), một hôm, trong khi Thạch Đầu cắt cỏ, Sư khoanh tay đứng một bên. Thạch Đầu liệng cái liềm đến trước mặt Sư, làm đứt một cọng cỏ. Sư nói: "Hoà thượng cắt được cái này, không cắt được cái kia". Thạch Đầu đưa cái liềm lên. Sư đón bắt được, làm thế cắt cỏ. Thạch Đầu nói: "Ngươi cắt được cái kia, không cắt được cái này".
(3)
Văn Thù, Duy Ma Cật và 32 vị Bồ tát thảo luận về pháp Bất Nhị. Các vị kia, mỗi vị, tuỳ trường hợp, đều nói: "lìa đối đãi là bất nhị". Văn Thù nói: "Vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vượt ngoài đối đáp là bất nhị". Rồi hỏi Duy Ma Cật. Duy Ma im lặng. Nhân đó Văn Thù tán thán. Xem Duy Ma Cật sở thuyết kinh quyển trung, phẩm Bất nhị pháp môn.
(4)
Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch trong lúc đang nói chuyện với một vị tăng; một vị tăng khác đứng bên cạnh, nói: "Nói là Văn Thù, im lặng là Duy Ma". Sư nói: "Không nói không im lặng, há không phải là ông sao?". Vị Tăng im lặng. Sư nói: "Sao không hiện thần thông?" Tăng nói: "Không từ chối gì sự hiện thần thông, chỉ sợ Hoà thượng thâu vào giáo điển". Sư nói: "Xét chỗ ngươi đến, thì chưa có con mắt ởn goài giáo điển". Xem Truyền đăng lục
(5)
Nguyên văn: Dương diệm mích cầu yên. Dương diệm tức là thứ ánh nắng mùa Xuân có trộn lẫn với bụi mờ giữa nội. Những con nai khát nước nhìn thấy ánh nắng đó tưởng là nước, rồi cứ đuổi theo cho đến lúc chết. Xem Lăng già kinh 2.
-----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
教外可別傳,
希夷祖佛淵。
若人欲辨的,
陽焰覓求煙。
Giáo ngoại khả biệt truyền,
Hy di Tổ Phật uyên.
Nhược nhân dục biện đích,
Dương diệm mịch cầu yên.
(**)
松風水月明,
無影亦無形。
色身這個是,
空空尋響聲。
Tùng phong thuỷ nguyệt minh,
Vô ảnh diệc vô hình.
Sắc thân giá cá thị,
Không không tầm hưởng thanh.
hoatihon
06-11-2015, 08:48 AM
Dương diệm mịch cầu yên
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/duongdiem_zpsccc6af83.jpg
hoatihon
06-11-2015, 08:51 AM
Không tiếng há có vang !
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Khongtienghacovang2_zps4bc2c2a8.jpg
hungcom
06-11-2015, 08:52 AM
24. THIỀN SƯ Tín Học (? - 1200)
Chùa Quán đỉnh, núi Không Lộ. Người châu Minh, phủ Thiên đức, họ Tô. Đời đời chuyên nghề khắc kinh. Nhỏ thờ Thanh giới, không giao du bừa bãi.
Năm 32 tuổi, theo Du thiền sư đến núi Tiên du, thế phát với Đạo Huệ. ở hầu hạ ba năm. Sư sâu hiểu tôn chỉ, nhân đó một mình chống gậy du phương, đến ở chùa Quán đỉnh.
Có lần ở trước tượng Phật, Sư đốt ngón tay và phát nguyện rộng lớn rằng: "Trần lao nhiều kiếp, dứt không vướng lại". Sư chuyên tu pháp Tam quán trong kinh Viên giác. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, hình dung khô gầy. Nhiều năm như thế, hoàn toàn không có vẻ gì chán nản, nên sau đạt phép Tam quán chính thọ (1).
Công khanh sĩ thứ, rất ngưỡng mộ phong thái cao nhã của Sư, đua nhau theo hầu. Sư thường dạy:
Có lợi tất có nhiễm
Có nhiễm tất có lợi
Có lợi có nhiễm
Bồ tát không làm
Không lợi không nhiễm
Bồ tát mới làm.
Ngày 9 tháng giêng năm Canh thân (2), Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200), Sư cáo bệnh, gọi chúng đến đọc bài kệ :
"Núi rừng cọp beo
Vằn vện lẫn lộn
Nếu muốn phân biệt
Con kêu mẹ mổ" (3)(*)
Nói xong Sư tịch.
__________________
Chú thích :
(1)
Chính thọ là một dịch nghĩa của chữ Tam muội (samàdhì). Quán kinh huyền nghĩa phần nói:
"Gọi là Chính thọ, khi tưởng và tâm đều dứt, duyên và lự đều quên, tương ứng với Tam muội, thì gọi là Chính thọ".
(2)
Nguyên văn: Thiên Tư Gia Thụy ngũ niên Canh thân. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 tất phải nhằm năm Canh tuất, chứ không phải năm Canh thân. Nếu là năm Canh thân, thì nó phải là năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200). Ở đây, chúng tôi nghĩ rằng vì chữ tuất khó viết lộn thành chữ thân nên cho rằng nguyên văn có lẽ thiếu chữ thập trước chữ ngũ, nên đềnghị đọc lại thành Thiên Tư Gia Thụy thập ngũ niên, và dịch theo đó.
(3)
Nguyên văn: Tử tối mẫu trác. Đại sư Hương Nghiêm tập Đăng. Trí Nhàn tụng, "Độc cước":
Tử tối mẫu trúc
Tử giác vô xác.
----------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Sơn lâm hổ báo,
Hoành văn ban bác.
Nhược dục phân biệt,
Tử thốt mẫu trác.
"Con kêu mẹ mổ" nguyên văn là "Tử thốt mẫu trác" :
Khi gà con "khẻ mỏ", nó mổ vào vỏ trứng và cất tiếng kêu đầu đời "chíp, chíp !" thì gà mẹ mổ vỏ trứng giúp cho con sớm ra chào đời.
Cụm từ này ẫn dụ :
Khi hành giả đã công phu đến giai đoạn "chín" (thục) thì Bậc Giác Ngộ như Mẹ Hiền giúp vào một chút để cho hành giả chứng ngộ Chân lý. Sự thành tựu, nở hoa của một Chân Phật tử, là sự tương thông của Bậc Giác và đệ tử _ Tha Lực _ chứ không phải hoàn toàn do tự lực.
hoatihon
06-11-2015, 09:11 AM
Con kêu mẹ mổ
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/conkeumemo_zps4b847f4a.jpg
hungcom
06-11-2015, 09:12 AM
25. THIỀN SƯ Tịnh Không (1091 - 1170)
Chùa Khai quốc, phủ Thiên đức. Vốn người Phúc xuyên(1), họ Ngô. Ban đầu xuất gia và thọ giới Cụ túc ở viện Sùng phúc tại Châu Minh.
Năm 30 tuổi, Sư đi hành cước phương Nam(*), đến chùa Khai quốc. Trải 5, 6 năm, tu hạnh đầu đà, mỗi ngày chỉ dùng một hạt gạo, hạt mè, ngồi hoài không ngủ, mỗi lần nhập định, thường trải nhiều ngày mới dậy. Đàn tín bốn phương đến cúng, chất cao như núi. Hoặc có kẻ đến rình ăn trộm, Sư tất bảo lấy những vật Sư hiện có.
Bấy giờ Nam Khương công chúa, ý muốn xuất trần, riêng đến xin Sư thụ giới. Sư bằng lòng thế độ. Triều đình hay được, xuống chiếu bắt Sư. Khi Sư tới khuyết, thần sắc thản nhiên, vua càng thêm kính, phong làm thạc đức danh tăng. Sư cố từ không được. Một hôm Sư thượng đường, có một vị Tăng cầm gậy đến hỏi: "Thế nào là Pháp thân?".
Sư đáp: "Pháp thân vốn vô hình?"
Lại hỏi: "Thế nào là Pháp nhãn?".
Sư đáp: "Pháp nhãn vốn không mờ". Rồi tiếp: "Trước mắt không pháp, ý ở trước mắt. Pháp chẳng là chỗ của tai mắt".
Vị tăng bật cười ha hả. Sư hỏi: "Cười điều chi?"
Vị Tăng đáp: "Hoà thượng là bậc xuất thế số một, nhưng chưa có tôn chỉ, phải đến tham vấn Đạo Huệ mới được!"
Sư hỏi: "Đến hỏi thầy kia thì được việc gì?"
Vị Tăng bảo: "Trên không ngói lợp; dưới không cắm dùi".
Sư bèn thay áo, thẳng đến Đạo Huệ ở núi Tiên Du(2).
Huệ nói: "- đây không phải không có tôn chỉ, nhưng thầy quyết chắc bằng cách nào?."Sư ngẫm nghĩ.
Huệ hét: "Ngay mặt quá đà rồi !"
Sư lãnh hội yếu chỉ, nhân đó ở lại nâng khăn, xách guốc cho Đạo Huệ 3 năm. Sau Sư trở về chùa cũ, thâu nhận đồ chúng. Một hôm Sư hội họp đồ chúng nói kệ:
"Trên không mảnh ngói lợp
Dưới không chỗ cắm dùi. (3)
Hoặc đổi áo thẳng đến
Hoặc xách trượng ra đi.
Động chuyển chuyển nhằm chỗ
Tợ rồng nhảy đớp mồi". (**)
Vị Tăng hỏi: "Từ trước "trực chỉ" là nói cái gì?"(4)
Sư đáp: "Ngày ngày đi gặt lúa
Giờ giờ kho lẫm không" (***)
Tăng thưa: "Con chẳng hiểu"
Sư dạy: "Trời trăng luôn sáng,
Mây nổi khuất che". (****)
Rồi sư đọc kệ:
Người trí không ngộ đạo
Ngộ đạo tức kẻ đần
Nằm dài chân khách duỗi
Sao biết ngụy cùng chân"(5)(*****)
Lại hỏi: "Thế nào là Phật?"
Sư đáp: "Nhật nguyệt sáng ngời muôn vạn cõi
Ai hay mây móc phủ non sông". (V*)
Sư đáp: "Mục đồng chỉ giỏi cưỡi lưng trâu
Sĩ có anh hùng vượt được y" (V**)
Lại hỏi: "Ý Tổ và ý Kinh giống hay khác?"
Sư đáp: "Muôn dặm thuyền tàu, đều chầu cửa khuyết".
Lại hỏi: "Hoà thượng có việc kỳ đặc, sao không nói cho học nhân biết?"
Sư đáp: "Ông thổi lửa, tôi vo gạo, ông khất thực, tôi cầm bát, ai phụ ông đâu?" (6)(V***)Vị Tăng liền tỏ ngộ.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Chính Long Bảo Ứng thứ 8 (1170), khi sắp thị tịch, Sư từ giã chúng, dặn dò: "Các con hãy khéo giữ mình như khi ta còn sống, chớ có đắm trước mà sinh ra quyến luyến buồn rầu".(7)
Nửa đêm hôm ấy, Sư ngồi kiết già mà tịch, thọ trên 80 tuổi.* (Cơ duyên thoại ngữ của truyện này cùng với chuyện của Hoà thượng Giáp Sơn trong Truyền đăng(8)rất hợp, song xét Liệt tổ yếu ngữ(9) của Huệ Nhật thì đều đã chép đủ, không dám cải chính)
_________________
Chú thích :
(1)
Phúc Xuyên, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Phúc Xuyên, quê hương của Phan Nhuệ, tiến sĩ khoa 1748, nhưng lại ghi làng Phúc xuyên ở hạt Tiên phong. Song Tiên phong là tên một huyện ở Sơn tây. Điều chắc chắn là nó phải nằm ở phía bắc phủ Thiên đức, bởi vì trước khi đến ở tại chùa Khai quốc phủ Thiên đức, Tịnh Không đã phải "hành cước Nam phương".
Bây giờ, truyện của Không cũng nói rằng Không "ban đầu xuất gia ở viện Sùng phúc châu Minh, nếu viện Sùng phúc ở đây là chùa Sùng phúc dựng tại làng Siêu loại vào năm 1115, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 21a2-3 ghi lại, thì làng Siêu loại như vậy thuộc vào Phúc xuyên. Và Phúc xuyên tên một châu đời Lý mà địa phận có thể gồm huyện Siêu loại, tức huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc ngày nay, với một số huyện khác chưa thể xác định được. Có lẽ Sùng phúc nguyên trước là một viện nhỏ. Đến năm 1115 nó được Linh Nhân thái hậu xây dựng lại và đổi thành chùa. Chắc vào năm này Không đã rời Sùng Phúc để hành cước xuống chùa Khai quốc ở phía Nam, bởi vì ta biết Không mất vào năm 1170, lúc ông hơn 80 tuổi, mà ông bắt đầu hành cước lúc ông 30 tuổi.
(2)
Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: "Một hôm Đạo Ngô cầm gậy đến gặp Sư thượng đường, Tăng hỏi: "Như hà thị Pháp thân?", Sư viết:
"Pháp thân vô tướng". Viết: "Như hà thị Pháp nhãn?". Sư viết: "Pháp nhãn vô hà". Sư hựu viết: "Mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền. Bất thị mục tiền pháp, phi nhĩ mục sở đáo". Đạo Ngô nãi tiếu. Sư nãi sinh nghi, vấn Ngô: "Hà tiếu?". Ngô viết: "Hoà thượng nhất đẳng xuất thế, vị hữu sư, khả vãng Chế trung, Hoa đình huyện, tham Thuyền Tử Hoà thượng khứ". Sư viết: "Phỏng đắc hoạch phủ?". Đạo Ngô viết: "Bỉ Sư, thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa". Sư toại dịch phục trực nghệ Hoa đình....
(3)
Giáp Sơn Thiện Hội. Đạo Ngô viết: "Bỉ sư thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa".
(4)
Tùng thượng trực chỉ, vi thập ma thuyết? Giáp Sơn Thiện Hội tăng vấn: "Tùng thượng lập Tổ ý, Giáo ý, Hoà thượng thử gian vi thập ma ngôn vô?" Sư viết: "Tam niên bất thực phạn, mục tiền vô cơ nhân".
(5)
Nguyên văn:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách,
Hề thức ngụy kiêm chân.
So sánh Giáp Sơn Thiện Hội : Sư có bài tụng:
Minh minh vô ngộ pháp
Ngộ pháp khước mê nhân
Trường thư lưỡng cước thụy
Vô ngụy diệc vô chân
(6)
Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: Một tiểu sư hầu hạ lâu năm, sau đó bỏ đi tham phương nhưng không có chỗ dụng tâm. Tiểu sư nghe đồn mọi người đang đổ xô về Thiện Hội học thiền, bèn trở về nói với Thiện Hội: "Hoà thượng có sự kỳ đặc như vậy, sao không sớm nói cho con biết?". Sư đáp: "Ông nấu cơm, tôi thổi lửa, ông khất thực, tôi cầm bát, thì chỗ nào là chỗ cô phụ ông?". Vị tiểu do đó mà ngộ nhập.
(7)
Giáp Sơn Thiện Hội: "Ngày 7 tháng 11 năm Tân sửu Đường Trung Hoà thứ nhất (881), Sư mời chủ sự tới nói: "Ta cùng với chúng tăng nói đạo nhiều năm, ý chỉ sâu sắc của Phật pháp, mỗi một người phải tự biết lấy, ta nay thân huyễn hết, thời tức phải đi. Các ngươi nên khéo giữ gìn, như khi ta còn sống, chớ có ùa theo người đời mà sinh ra buồn bã. Nói xong, đên nửa đêm Sư lặng lẽ mất".
(8)
Tức truyện của Hoà thượng (mà Nguyên văn ở đây viết là hòa cái) Thiện Hội ở Giáp sơn, Phong châu, Hội họ Liêu, người Kiến đình, Quảng châu, đệ tử của Đức Thành. Hội sinh năm 805 và mất năm 881 thọ77 tuổi. Với những dẫn chứng trên, rõ ràng cơ duyên thoại ngữ, tức những đối thoại giữa hai thầy trò Thiền sư nhằm tạo một cơ duyên cho sự giác ngộ, cho đến câu nói cuối cùng trước khi mất của Tịnh Không đều phần lớn lấy ra từ truyện của Thiện Hội.
(9)
Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, Thiền uyển tập anh dẫn hai lần, một ở đây và một ở truyện Nguyện Học. Cứ vào hai dẫn chứng này thì có thể nói đa số, nếu không tất cả những cơ duyên thoại ngữ của Thiền uyển tập anh đều lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Bởi vì ngay cả trong cả hai trường hợp dẫn đây, mặc dù cơ duyên thoại ngữ của Tịnh Không cũng như của Nguyện Học hầu như hoàn toàn đồng nhất với cơ duyên thoại ngữ của Giáp Sơn Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục, tác giả vẫn không thể loại bỏ, với lý do là: "chúng đã chép đủ trong Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật". Huệ Nhật này là ai và sống vào khoảng nào, ngày nay ta hiện chưa biết. Về nội dung của Liệt tổ yếu ngữ , ta đã biết một phần nào.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
"Hành cước Nam phương"
Bản khác ghi :
Tịnh Không thiền sư 凈空禪師 (1091-1170) họ Ngô 吳, người huyện Phúc Châu, Trung Quốc, thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông. Năm 30 tuổi sang nước ta, tu ở chùa Khai Quốc, phủ Thiên Đức.
(**)
上無片瓦遮,
下無卓錐地。
或易服直詣,
或策杖而至。
動轉觸處間,
似龍躍吞餌。
Thượng vô phiến ngoã già,
Hạ vô trác chuỳ địa.
Hoặc dịch phục trực nghệ,
Hoặc sách trượng nhi chí.
Động chuyển xúc xứ gian,
Tự long dược thôn nhị.
(***)
日日去獲禾,
時時空倉廩。
Nhật nhật khứ hoạch hoà,
Thời thời không thương lẫm.
(****)
日月長明,
浮雲蓋蔭。
Nhật nguyệt trường minh,
Phù vân cái ấm.
(*****)
智人無悟道,
悟道即愚人。
伸腳高臥客,
奚識偽兼真。
Trí nhân vô ngộ đạo,
Ngộ đạo tức ngu nhân.
Thân cước cao ngoạ khách,
Hề thức nguỵ kiêm chân.
(V*)
日月麗天含憶剎,
誰知雲霧落山河。
Nhật nguyệt lệ thiên hàm ức sát,
Thuỳ tri vân vụ lạc sơn hà.
(V**)
牧童祗慣臥牛背,
土有英雄跨得伊。
Mục đồng chi quán ngoạ ngưu bối,
Thổ hữu anh hùng khoá đắc y.
(V***)
汝吹火,我著米;汝乞食,我取缽, 誰辜負汝
Nhữ xuy hoả, ngã trước mễ; nhữ khất thực, ngã thủ bát. Thuỳ cô phụ nhữ?
hoatihon
06-11-2015, 09:14 AM
Ưng vô sở trụ
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ChuKhong_zps080a20fe.jpg
hoatihon
06-11-2015, 09:17 AM
Vô chứng
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vochung_zpsc791b4c7.jpg
hungcom
06-11-2015, 09:19 AM
26. THIỀN SƯ Đại Xả (1120 - 1180)
Chùa Báo đức, núi Vũ Ninh, người phường Đông tác họ Hứa. Nhỏ xuất gia theo Đạo Huệ, núi Tiên du, tập tành Thiền học, biết sơ nét chính của nó. Sư thường ngồi trì tụng thần chú Diệu môn Phổ Hiền trong kinh Hoa nghiêm (1) làm công việc hàng ngày. Có lúc Sư xỏa tóc, bỏ ăn, cư trú không nơi nhất định. Các Vương công đua nhau đến hầu hạ Sư.
Kiến Ninh Vương và Thiên Cực công chúa cũng hết lòng tôn kính. Sư thường ở Hổ nham tại Tuyên minh, lập chùa giáo hóa, học trò đến học rất đông. Có vị Sư nước Tống hiệu Nham ông, nghe tiếng cảm mộ, bèn đốt một ngón tay để cúng dường. Người ta nghi Sư có yêu thuật, nên trong khoảng Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175), Thái uý Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt vào trong cấm, hết lời nghiêm trách.
Sư vẫn không có vẻ gì là sợ hãi. Thiên Cực tâu xin thả ra, nên Sư được khỏi.
Một hôm, vua Lý Anh Tông cho mời Sư vào hỏi: "Trẫm nhiều phiền hoặc, có phép thuật gì trị chăng?"
Sư tâu: "Phép 12 Nhân duyên là căn bản của sự tiếp nối sinh tử, nếu dùng nó để trị, thì đó là phương thuốc vậy".
Vua lại hỏi về yếu chỉ của nó.
Sư tâu: "Vô minh nhân duyên hành, cho đến lo, buồn, khổ, não. Muốn cầu quả Bích Chi Phật nên nói đến 12 nhân duyên, để trị thân này thì không còn nghiệp phiền não nữa". Vua nói: "Thế thì Trẫm phải tĩnh tâm tu tập".(*)
Sư tâu: "Khi giữ được nghiệp thức an tịnh, tức là thanh trừng được phiền não, chớ không còn có phép nào khác đáng tu tập cả. Ngày xưa Lương Vũ Đế thường đem việc đó hỏi Thiền sư Bảo Chí (2), Bảo Chí cũng đáp như thế. Nay tôi cũng xin trộm trình với bệ hạ điều y hệt như vậy.(**)
Đến ngày mồng 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5 (1180) Sư dặn dò đệ tử rồi nói kệ:
"Bốn rắn cùng lồng (3)vốn trống trơn,
Núi cao năm uẩn (4)chẳng bà con,
Linh minh chân tính không ngăn ngại
Sinh tử Niết bàn nỡ vấn vương". (***)
Lại nói:
"Trơ trơ răng ngựa đá (5)
Tháng ngày kêu ăn mạ
Trên đường ai cũng qua
Không đi người trên ngựa. (****)
Đến canh 5, Sư uống thuốc độc rồi mất, thọ 61 tuổi. (*****)
_____________
Chú thích :
(1)
Hoa nghiêm Diệu môn Phổ Hiền thần chú, tức Tốc tật mãn Phổ Hiền hạnh nguyện Đà la ni, có lẽ do Bất Không thêm vào trong lời nguyện của Phổ Hiền trong bản dịch kinh Hoa nghiêm và sau này đã trích thành một bản văn riêng rẽ, mà người ta gọi là Phổ Hiền bồ tát hạnh nguyện tán : "Nẵng ma tát để rị giả địa vỹ ca nam đát tha nghiệt đa nam. Án a mậu phạ ra vĩ nghì dĩ sa phạ ha".
(2)
Bảo Chí (419 ?- 515), một nhà sư có những hành tung tương tự như của Đại Xả ở đây, có những liên hệ sấm ngữ với Lương Vũ Đế.
(3)
Hình ảnh lấy từ phẩm Quang minh biến chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ tát của kinh Đại Bát Niết Bàn, theo đấy có một ông vua đem bốn con rắn độc đựng chung vào một cái lồng, bảo người thị thần nuôi dưỡng. Nếu để cho chúng không vừa lòng thì người đó bị xử tử. Người đó bỏ chạy, vua cho năm người chiên đà la đuổi bắt lại. Đuổi không kịp, bèn sai một người giả bộ hiền lành đi dụ dỗ, thì người kia đi đến một làng trống vắng. Vừa tới, người kia nghe nói đêm đó sẽ có sáu tên cướp đến cướp. Bèn sợ hãi, chạy đến một con sông cuồn cuộn nước, bèn quyết ý vượt qua, bất giờ mới giải thoát thảnh thơi. Bốn con rắn độc ấy, kinh này nói là dụ cho bốn nhân tố vật chất tạo nên con người, đấy là đất, nước, gió, lửa. Từ Phật học Trung quốc gọi là tứ đại. Xem Đại Bát Niết Bàn kinh 23.
(4)
Hình ảnh lấy từ phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát của kinh Đại Bát Niết Bàn, ở đấy, sự sinh, già, bệnh, chết của con người được ví với bốn ngọn núi lớn "từ bốn phương đến muốn hại nhân dân". Ngũ ấm, tức năm nhân tố tâm vật lý tạo nên con người, đấy là vật chất, cảm giác, tưởng tượng, ý chí, và tri giác hay nhận thức. Từ Phật học Trung quốc thường gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
(5)
Ngựa đá, trâu đất, Thiền gia thường dùng để chỉ cho công vị của thiền. Thiền sư Thúy Nham, Công huấn vấn đáp:
"Nê ngưu ẩm tận trừng đàm nguyệt
Thạch mã gia tiên bất chuyển đầu".
(Trâu đất uống hết trăng đầm lặng
Ngựa đá roi quất chẳng ngoảnh đầu).
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Thiền sư dạy Thập Nhị Nhân Duyên cho nhà vua vì Giáo lý này phù hợp với căn cơ của Lý Anh Tông.
(**)
Chỗ này Ông Lê Mạnh Thát có chú thích bằng một trích đoạn tối nghĩa, nên h/c xin phép bỏ ra.
(***)
四 蛇 同 篋 本 來 空,
五 蘊 山 高 亦 不 宗.
眞 性 靈 明 無 罣 礙,
涅 槃 生 死 任 遮 龐.
Tứ xà đồng khiếp bổn lai không,
Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tông.
Chân tánh linh minh vô quái ngại,
Niết-bàn sanh tử nhậm già lung.
(****)
石 馬 齿 狂 拧,
食 苗 日 月鸣.
途 中 人 共 过,
馬 上 人 不 行.
Thạch mã xỉ cuồng ninh,
Thực miêu, nhật nguyệt minh.
Đồ trung nhân cộng quá,
Mã thượng nhân bất hành.
Câu "Mã thượng nhân bất hành" nghĩa là "Tuy ngồi trên lưng ngựa nhưng chẳng có đi đâu" mà ông Thát lại dịch là "Không đi người trên ngựa", thiệt là "hết ý cái ông này !", đã làm cho người sau đọc vào "càng đọc càng ngu".
(*****)
Nói "Sư uống thuốc độc rồi mất" là SAI. Vì :
1._ Giáo lý đạo Phật cấm tự sát.
2._ Một vị Giác Ngộ, nếu không hiện bệnh bỏ xác thì cũng "thâu thần tịch diệt", chớ không bao giờ nhờ đến thuốc độc hay mượn người khác giết mình (đây là cách hành xử của Ngoại Đạo, đã bị Phật quở)
hoatihon
06-11-2015, 09:22 AM
Mộng sự
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/mongsu2_zps0f71a172.jpg
hoatihon
06-11-2015, 09:24 AM
Như Không Hoa
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhukhonghoa_zps18942291.jpg
hungcom
06-12-2015, 08:09 AM
27. THIỀN SƯ Tịnh Lực (1112 - 1175)
Am Việt Vương trì, Tỉnh Cương, Vũ ninh, người Cát lăng, Vũ bình, họ Ngô, tên Trạm. Thuở nhỏ Sư thông minh, biện tài, sở trướng nghề văn, thể chữ càng giỏi. Trong khi du học, được gặp Đạo Huệ, núi Tiên du, bèn quyến luyến nhau, như cây kim hạt cải, nên gửi lòng đất Phật, mặc áo cỏ, ăn cây lá, phước huệ cùng tu, trải mấy tinh sương, lòng càng bền chặt. Đạo Huệ thường bảo: "Tâm ấn Chư Phật, người đã có sẵn, không cần theo ai mà được."
Sư thưa: "Đã được thầy chỉ dạy, nhưng nay nên trụ nơi nào?"
Đạo Huệ bảo: "Chẳng cần đi đâu xa, ở tại Vũ ninh là tốt". Sư thẳng lên núi, cất am cỏ, ở tu. Trong 12 thời, Sư lễ Phật sám hối, thâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội (1)nên âm thanh trong trẻo như tiếng Phạm thiên. Thường giảng kinh Viên giác, nghĩa lý nếu có chỗ nào chưa ổn, Sư đích thân cải chính. Người bấy giờ bảo trong miệng Sư (có) hùng hoàng (2).
Vào một tháng nào đó của năm Thiên Cảm thứ 2 (1175), Sư cáo bệnh gọi môn đồ đến dạy:
"Các ngươi hết thảy đều là kẻ học đạo. Lòng siêng cúng dường Phật, không ngoài việc chỉ nhằm khiến dứt trừ các ác nghiệp. Tâm và miệng niệm tụng phải tin, hiểu, nghe, biết. ở chỗ vắng vẻ yên lặng, gần gũi thiện tri thức, mở lời hoà vui, nói năng đúng lúc, trong không sợ khiếp, hiểu rõ nghĩa lý, xa lìa ngu mê, an trụ bất động, xem hết mọi pháp vô thường vô ngã, vô tác vô vi, ở chỗ lìa phân biệt. Đó là người học đạo. Ta nay hoá duyên đã xong". Rồi Sư nói bài kệ sau:
"Trước tuy nói cát sau nói hung
Từ đấy theo xưa huý chẳng tùng
Vì gặp thấy rồng làm con Phật (3)
Chợt trông chuột hiện lặng vô cùng". (4)(*)
Nói xong Sư ngồi ngay ngắn thị tịch, thọ 64 tuổi.
__________________
Chú thích :
(1)
Niệm Phật tam muội, Phạn: Buddhànusmrti-samàdhi. phương pháp Thiền định bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này hoặc bằng một lòng quán tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của pháp thân Phật thì gọi là quán tưởng niệm Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật thì gọi là danh xưng niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến khi vào thiền định mà thấy được chính Phật hiện ra trước mắt hay thấy được pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của việc niệm Phật tam muội. Xem Quán vô lượng thọ kinh ĐTK 365 và Niệm Phật tam muội kinh
(2)
Hùng hoàng theo Thần nông bản thảo kinh là một loại đá có thể làm cho người ta "nhẹ người thần tiên" và chống lại được bệnh do tà ma quỉ quái tạo ra. Ngô Phổ giải thích nó là thứ hùng của các loại đan nên gọi là hùng hoàng. Xem Thần nông bản thảo kinh và Bản thảo cương mục 9 tờ21b9-28b1. Đặc biệt đây là chất người Trung quốc thường dùng để bôi xoá những chữ viết sai. Cho nên về sau nói người nào có hùng hoàng trong miệng là muốn nói người đó giỏi biện luận, có thể sửa sai người khác.
(3)
Nguyên văn: Vị ngộ hiện long vi Phật tử. Hiện long là một từ lấy từ quẻ càn của Chu dịch: "Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân". (Rồng ra ở ruộng, lợi thấy đại nhân). Khổng tử giải thích: Đức rồng ở chính trung thì lời nói thường mà tin, việc làm thường mà cẩn thận, tránh điều tà mà giữ lòng thành, giỏi việc đời mà không khoe khoang, đức hạnh rộng để giáo hoá. Dịch nói: "Rồng ra ở ruộng, nên thấy đại nhân, đó là đức của vua vậy."
(4)
Nguyên văn: Hốt tào thử xuất tịch vô cùng. Chuột trong câu này là chỉ bọn bầy tôi phá hoại quốc dân, một từ lấy ra ở thiên Chính lý của Thuyết uyển: "Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: "Nước có nạn gì?" Quản Trọng đáp: "Nạn là nạn chuột xã". Hoàn Công hỏi:
"Sao gọi thế ?" Quản Trọng đáp: "cái xã là do bó cây mà trét đất lên. Chuột nhân đó đến ở gá vào. Đốt chúng đi thì sợ cháy cây. Tạt chúng đi thì sợ lở đất. Chúng do đó không thể giết được là vì ngôi xã. Nước cũng có loại chuột xã, tức là kẻ hầu hạ hai bên vua vậy. Bên trong thì chúng bưng bít việc thiện ác đối với vua. Bên ngoài thì chúng mua bán quyền hành đối với dân. không diệt chúng thì nước loạn, mà giết chúng thì bị vua xét hỏi. Nên chúng cứ chiếm lấy vua mà sống. Đấy tức là bọn chuột xã của nước vậy".
-----------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
先雖言吉後言凶,
自是太祖諱不從。
為遇見龍為佛子,
忽遭鼠出寂無窮。
Tiên tuy ngôn kiết, hậu ngôn hung,
Tự thị Thái Tổ huý bất tùng.
Vi ngộ kiến long vi Phật tử,
Hốt tao thử xuất tịch vô cùng.
hungcom
06-12-2015, 08:10 AM
28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? - 1190)
Chùa Thanh tước, núi Du hý, làng Cát lợi hy, Thường lạc. Người Ô diên Vĩnh Khương, họ Nguyễn, nguyên là cậu của Thái úy Tô Hiến Thành, triều vua Anh Tôn nhà Lý. Bỏ tục xuất gia, ở tại chùa núi đó, thường mặc áo rách, ăn gạo lứt, 10 năm chưa thay một chiếc áo, ba ngày không nấu một nồi cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô gầy. Thấy một kẻ nghèo thì vòng tay tránh đường, gặp một sa môn thì quỳ gối lễ bái. Siêng tu thiền định, đến 6 năm thì đạo thành, bèn chống gậy xuống núi, hoặc sửa cầu đường, hoặc dựng chùa tháp, tuỳ duyên khuyến khích mọi người, không màng lợi dưỡng.
Có lần, có vị Tăng hỏi: "Sanh từ đâu lại, chết sẽ về đâu?".
Sư trầm ngâm suy nghĩ, thì vị tăng ấy bảo: "Trong lúc ngẫm nghĩ thì mây trắng đã bay xa ngàn dặm".
Sư không đáp được. Vị Tăng ấy liền quát: "Chùa tốt mà không có Phật".(1) Nói rồi bèn bỏ đi. Sư tự than rằng: "Ta tuy có tâm xuất gia, nhưng chưa đạt được yếu chỉ của người xuất gia. Như kẻ đào giếng, dù đào đến chín nhẫn mà không tới mạch, còn phải bỏ giếng, huống là tu thân mà chẳng ngộ đạo thì phỏng có ích gì?". Từ đó, Sư đi khắp bốn phương, tìm hỏi các hàng tri thức. Nghe Đạo Huệ đang giáo hoá ở núi Tiên du, bèn đến bái kiến hỏi rằng: "Sinh từ đâu đến, chết rồi lại đi đâu?".
Huệ đáp: "Sinh không từ đâu lại, chết cũng chẳng về đâu".
Sư thưa: "Thế chẳng lẽ rơi vào chỗ hư vô sao?"
Huệ bảo: "Chân tính tròn đầy mầu nhiệm, bản thể vốn không tịch, vận dụng tự tại không đồng với sinh tử. Vì lẽ đó mà sinh không từ đâu đến, chết cũng chẳng về đâu".
Sư nghe lời bèn tỉnh ngộ, rồi nói:
"Chẳng nhân gió cuốn mây bay sạch,
Sao thấy trời xanh muôn dặm thu?"(2)(*)
Đạo Huệ hỏi: "ông thấy được gì?"
Sư thưa:
"Quen nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người !" (3)(**)
Rồi từ tạ trở về núi. Từ đấy, Sư nói ngang, nói dọc như chọi đá nháng lửa. Một hôm Sư thăng đường, Tăng tục đông nghẹt, có người hỏi: "Thế nào là tri túc?"
Sư đáp: "Người xuất gia, tại gia đều dừng lại ở tri túc. Nếu tri túc thì ngoài chẳng lấn người, ttrong không tổn mình. Vật nhỏ nhặt như lá rau ngọn cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy.
Huống gì những vật khác thuộc của người. Hãy dấy lên cái ý tưởng đó là vật của người thì mình rút cuộc không vì chúng mà sinh lòng trộm cắp. Cho đến thê thiếp của người, hãy dấy lên cái ý tưởng đó là thê thiếp của người, thì mình cũng không vì thế mà sinh lòng dâm. (***)
Các người nghe ta nói kệ:
"Bồ tát của mình biết đủ thôi,
Của người chẳng muốn chỉ thương yêu .
Lá rau không biếu, ta không lấy,
Không tưởng của người, đức ngọc treo,
Bồ tát vợ mình biết đủ thôi.
Sao còn ham muốn vợ con người,
Thiếp thê ai nấy lo gìn giữ,
Sao nỡ lòng mình nghĩ lả lơi".(4)(****)
Đến ngày 14 tháng 4 năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), triều vua Lý Cao Tôn, Sư cáo bệnh rồi mất. Đệ tử làm lễ hoả táng, thu linh cốt, xây tháp thờ tại cửa núi.
_________________
Chú thích :
(1)
Ý và chữ lấy từ câu nhận xét về Vô Nghiệp của Đạo Nhất. Khi Nhất lần đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao lớn. Tiếng nói như chuông, Nhất bảo: "Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có Phật" (nguy nguy Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền đăng lục 8. Xem thêm chuyện Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến học với Bách Trượng rồi trở về, thầy Tán hỏi: "Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ có được sự nghiệp gì không?" Tán đáp: "Không có sựnghiệp gì ráo", nên bị thầy sai hầu hạ.
Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói: "Điện Phật đẹp mà Phật không thiêng". (Hảo sở Phật điện, nhi Phật bất thánh). Xem Truyền đăng lục.
(2)
Có người hỏi Tôn Triệt: "Tính địa nhiều u tối làm sao hiểu rõ?" Triệt đáp: "Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong".
(3)
Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: "Hoà thượng có thấy rõ ràng chỗ thấy không ?" Bị đáp: "Biết nhau khắp thiên hạ" (Tương thức mãn thiên hạ).
Thiền sư Kế Bằng thượng đường, chấp tay hỏi:
"Biết nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người".
(Tưởng thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 12 :
Can mộc phụng Văn hầu
Tri âm hữu kỷ nhân.
(4)
Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương Ly cấu của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: "Bồ tát ư tự tư tài, thường tri chỉ túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm. Nãi trí thảo diệp, bất dự bất thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư tự thê tri túc, bất cần tha thê. Ư tha thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc môi định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhim chi tâm, hà huống tùng sự, huống ư phi đạo".(**)
(Bồ tát đối với của cải mình, biết vừa đủ, đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật thuộc của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không cho, mình không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết đủ đối với vợ mình, mà không vợ người. Đối với thê thiếp của người, con gái do người bảo hộ, mình còn không móng lòng tham nhim, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa là nơi phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh
----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
不因風卷浮雲盡,
爭見青天萬里秋。
Bất nhân phong quyển phù vân tận,
Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu?
(**)
相識滿天下,
知音能幾人。
Tương thức mãn thiên hạ,
Tri âm năng kỷ nhân?
(***)
夫出家在家,止於知足。若能知足, 不侵人,內無損我。草葉微威制之細 彼所不與,我不當取。況他物屬他, 起他物想,終不於此而生盜心。乃至 妻妾,起他妻妾想,亦不於此而生淫
- Phù xuất gia tại gia, chỉ ư tri túc, Nhược năng tri túc, ngoại bất xâm nhân, nội vô tổn ngã. Thảo diệp vi tế, bỉ sở bất dữ, ngã bất đương thủ. Huống tha vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử nhi sinh đạo tâm. Nãi chi tha thê thiếp, khởi tha thê thiếp tưởng, diệc bất ư thử nhi sinh dâm tâm.
(****)
菩薩資財知止足,
於他慈恕不侵欲。
草葉不與我不取,
不想他物德如玉。
菩薩自妻方知足,
如何他妻起貪欲。
於他妻妾他所護,
安忍自心起心曲。
Bồ tát tư tài tri chỉ túc,
Ư tha từ thứ bất xâm dục.
Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ,
Bất tưởng tha vật đức như ngọc.
Bồ tác tự thê phương tri túc,
Như hà tha thê khởi tham dục?
Ư tha thê thiếp tha sở hộ,
An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc.
hungcom
06-12-2015, 08:11 AM
29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 - 1165)
Chùa Sóc Thiên vương, núi Vệ linh, chợ Bình lỗ. Người Trường nguyên, Tiên du, họ Phan, giòng dõi Thích tử.
Lúc đầu xuất gia, được Đạo Huệ chùa Quang minh ấn khả, bèn đi thẳng vào núi đó ẩn tu. Mặc áo cỏ, ăn hạt dẻ. Sư suốt ngày làm bạn với suối đá, khỉ, vượn. Trong 12 thời, Sư tôi luyện thân tâm, thuần nhất một mảnh, dùng để trì kinh. Trải 5, 6 năm, người ta chưa từng nom được bóng dáng. Vua Lý Anh Tôn nghe danh, ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư, muốn gặp mà không thể được. Vua bèn sai bạn cũ của Sư là Phiên thần Lê Hối, đi dụ Sư về kinh đô, khi tới kinh, để Sư ở chùa Hương sát. Sư tự hối hận, trốn trở về, gọi môn đồ đến dạy rằng: "Hạng người thân khô lòng nguội, không phải để cho thế gian trá ngụy làm vật. Bởi vì chí hạnh của ta chưa được thuần phục, nên suýt nữa bị các thứ bẫy lồng vây khốn. Hãy nghe kệ ta đây:
"Rừng xanh con nhỏ vượn ôm về (1)
Hiền thánh ngàn xưa chẳng thể ghi,
Oanh hót xuân về hoa nở rộ,
Cúc cười thu đến dáng hình chi".
Lại thường bảo mọi người: "Lạ thay ! Lạ thay ! Các chúng sinh đây, sao có đầy đủ trí tuệ của Như Lai mà ngu si, mê hoặc chẳng thấy, chẳng biết, ta thường đem đạo lý dạy dỗ khiến cho họ vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng chấp trước để trong tự thân, mà thấy được trí tuệ rộng lớn của Như Lai, lợi ích an lạc". (*)
Đến ngày mồng 7 tháng 6 năm Chính Long Bảo Ứng thứ 3 (1165), Sư nhuốm bệnh, nói kệ rằng:
"Tại quang tại trần (2),
Thường lìa quang trần,
Lòng dạ trong vắt,
Cùng vật không thân
Thể ở tự nhiên,
Ứng vật vô ngần,
Lưỡng nghi trời đất,
Đãi bỏ nhân luân
Nuôi nấng vạn vật, (3)
Cùng vật vui xuân,
Làm múa gái sắt,
Khua trống mộc nhân" (4)(**)
Nói kệ xong, Sư hóa, thọ 56 tuổi
________________
Chú thích :
(1)
Thiện Hội ở Giáp sơn, có người hỏi về cảnh Giáp sơn, đáp:
Viên bảo tử quy thanh chướng lý
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền
(Vượn bồng con về trong núi xanh
Chim ngậm hoa rơi trước hang biếc)
(2)
Những từ chủ yếu trong 4 câu này đều lấy từ chương 56 của Đạo đức kinh: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng, cố bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi lợi, bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị thiên hạ vi" (Người biết không nói, người nói không biết, ngậm miệng lưỡi, bịt tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng cho nên không thể được mà thân, không thể được mà sơ, không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà sang, không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ).
(3)
Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51 của Đạo đức kinh, "Đạo sinh chi, đức súc chi ... trưởng chi, dụ chi, đình chi, dưỡng chi, phú chi..." (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, ..., lớn đó, nắn đó, đúc đó, dưỡng đó, che đó).
Xem thêm Biện mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ7b13- 8a8: "Rằng sinh hết muôn vật thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là tự nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình vậy ..., sinh ra, không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ..." (Phù thông sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự nhiên, tự nhiên giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên ...., sinh chi, vô đình độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí).
(4)
Gai sắt, người gỗ, Thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của Thiền. Thiền sư Đông An Sát, Thập huyền đàm:
"Mộc nhân dạ bán xuyên ngọa khứ
Thạch nữ thiên minh đái mạo quy"
(Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi
Sáng mai gái đá đội nón về)
Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn đáp:
"Mộc nhân tuy bất ngữ
Thạch nữ dẫn hồi đầu".
(Người gỗ tuy không nói
Gái đá hết ngoảnh đầu)
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Đây là câu mà đức Phật Thích Ca bật thốt lên sau khi chứng quả Bồ Đề.
(**)
Tác vũ thiết nữ,
Đả cổ mộc nhơn.
Toàn bộ bài thơ kệ đa phần là tư tưởng Lão Trang, chỉ có 2 câu này là nói lên ý nghĩa "Vạn Pháp Hư Huyễn" của Giáo Lý Bát Nhã.
Rất tiếc câu "Tác vũ thiết nữ" mà ông Lê Mạnh Thát dịch là "Làm múa gái sắt" tuy rất sát nghĩa, nhưng khiến hậu nhân đọc vào không hiểu gì hết.
Nên chăng ta dịch lại là :
Người gỗ đánh trống
Gái sắt múa may.
hungcom
06-12-2015, 08:15 AM
30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? - 1207)
Chùa Quốc thanh, núi Bí linh, phủ Nghệ an {Có chỗ chép chùa Quốc thanh, phủ Trường an}. Người Mão hương, Ngung giang, Lô hải, họ Chu, tên Hải Ngung
Xuất thân hàn vi, nhưng tính tình thuần hậu. Lúc nhỏ theo học chữ Nho. Đến năm 26 tuổi Sư mang bệnh mộng thấy thiên thần cho thuốc, tỉnh giấc bệnh lành ngay. Sư bèn quyết chí xuất gia, đến ở với một vị kỳ túc trong làng, dần thọ được giới Cụ túc, chuyên thực hành giới luật. Nghe nói Lãng sơn thanh vắng, có thể ở được, Sư xách gậy đi về phương Đông. Trải 7 năm tham học, Sư gặp Bảo Giác chùa Viên minh qua một câu nói, Sư liền khai ngộ. Tháng 10 năm Quý tỵ Chánh Long Bảo Ứng (1173), lúc Bảo Giác sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Sanh, già, bệnh, chết, đời thường là thế, há ta riêng khỏi?"
Sư hỏi: "Hôm nay Tôn đức thế nào?"
Bảo Giác gật đầu mỉm cười, nói bài kệ rằng:
"Muôn pháp về không chẳng chỗ vin
Chân như vắng lặng trước mắt duyên,
Lòng viên ngộ được không cần chỉ
Nước lặng trăng lòng dứt mọi xen". (1)(*)
Nói kệ xong, Bảo Giác truyền Pháp cụ (**) cho Sư. Từ đấy, Sư tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc thanh, dừng lại ở đó cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, nên hàng long phục hổ, cảm hóa chư thần. Châu mục Phạm Từ nghe Sư danh đức, càng thêm lễ chuộng, xin Sư cho đúc một quả hồng chung để trấn cửa núi.
Mùa hè năm Trinh Phù thứ2 (1177), gặp hạn, vua ban chiếu cho danh tăng khắp thiên hạ cầu mưa, nhưng không ứng nghiệm. Vua Lý Cao Tôn, lâu nghe danh Sư, sai sư đón về chùa Báo thiên ở kinh đô. Nửa đêm, Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống. Vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy mưa(2). Nhân đó triệu vào tiện điện, hỏi các pháp yếu, ban thưởng rất hậu.
{Tục truyền Sư xuất gia lúc tuổi Đinh tráng, thiếu thuế nạp quan. Bà chị Chu Thị hàng năm thay Sư nạp thuế. Sư mỗi khi nghĩ tới, vẫn không có cách miễn được. Lúc nghe triều đình xuống chiếu cầu mưa, bèn lén về nhà chị, bí mật khiến đào một cái ao trong vườn sâu sau nhà. Đêm đến, đốt hương đứng cầu. Chốc lát, mưa xuống chỉ ở trong vườn đó. Quan sở tại đem chuyện kinh lạ tâu về triều đình. Vua rất vui, sai sứ đón về chùa Báo thiên ở kinh sư. Đúng trong đêm đó, quả mưa xối xả. Bèn được độ làm Sư, lại được làm hợp lệ sổ thuế cho cả họ} Năm Trinh Phù thứ 4 (1174), chùa Chân giáo, núi Vạn bảo làm thành, vua cho mời các bậc kỳ túc, đến làm lễ khánh tán. Sư vâng chiếu vào triều, ngụ tại gác Lâm tiêu. Bây giờ trời bắt đầu mưa ròng rã, đường sá lầy lội, phương hại đến việc lễ hội, Sư khấn, liền tạnh. Hội xong 7 ngày thì trời lại mưa như xưa. Sau Sư trở về làng cũ trùng tu chùa Quảng thánh và quyên tiền đúc chuông. Trong khi đốt lò thì mây kéo đến muốn mưa, Sư đứng giữa sân, dộng gậy trừng mắt giây lát, trời lại quang tạnh. Sau này, trải bao binh lửa, nhưng chuông Sư đúc đến nay vẫn còn. Rồi Sư trở về chùa cũ dạy dỗ học trò.
Có vị Tăng hỏi Sư về Phật lý, Sư đáp: "Chính ta và ngươi ".
Lại thường nói: "Tâm là tính nên nói Như Lai tạng, tâm tức tính nên tự tính tâm là thanh tịnh".
Ngày mồng 7 tháng 7 năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3 (1207), lúc sắp thị tịch, Sư nói kệ sau:
"Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm". (***)
Lại nói:
"Ngực áo thu về khí lạnh xâm
Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm
Cười bấy khách thiền ai dại dột
Sao đem lời lẽ để truyền tâm".(3)(****)
Nói xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này đại khái cùng Quốc sử và Bia văn không giống, nay xin khảo chính lại}
___________________
Chú thích :
(1)
Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chơn như mục tiền ky
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi.
Câu 2 theo luật thơ phải là "Chân như quy tịch mục tiền ky". Còn chữ"nghi" trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi. và nghi cũng có nghĩa là "hướng đến", nên "mẫn tâm nghi" chúng tôi dịch là "đứt mọi xen", tức dứt mọi thú hướng của tâm.
Tư tưởng "vạn pháp qui không" là một tư tưởng lớn và căn bản của những trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ Không đó có nghĩa gì thì mọi trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền.
Phúc Khê có người hỏi: "Duyên tán qui không, không qui hà sở?". Sư đáp: "Ta". "Mục tiền ky" là cơ duyên trước mắt, thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục
Khốc thanh sư dĩ hiểu
Dĩ hiểu phục thùy tri
Đương thì Ma kiệt quốc
Kỷ táng mục tiền ky
(2)
Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời Lý Anh Tôn. Truyện đó viết: "Lý Anh Tôn, nhân có hạn, sai Thiền sư Tịnh Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem, bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì họ đáp: "Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm mưa". Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ sư để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ lai, vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân".
Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một lần hạn nào cả cho đến 1188. Năm đấy, Toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói: "Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5 hạn, vua thân hành đến chùa Pháp vân ở Luy bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. (L.M.Thát chú) cầu mưa, nhân đó nghênh tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên. Như vậy, phải chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tôn? Chúng tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sửlược3 tờ7b9 thì "năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh phu nhân ở ngoài cầu Tây dương." Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do Lý Anh Tôn phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở"ngoài cầu Tây dương", nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ sư. Trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tôn, năm lần hạn đã xảy ra, khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn
này lại kéo dài thường từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc "vua ban chiếu cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa" như truyện Tịnh Giới đã ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham gia việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện đã viết, là để hợp thức hoá số thuế của Giới, mà "người chị Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế". Với một mục đích đấy, Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tôn, như Việt điện u linh tập đã có.
Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc thanh. Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90 tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ những năm 1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô
căn cứ.
(3)
Kiến văn tiểu lục 4 tờ13b6-8 chép:
Thu lai lương khí giáp khâm trung
Bắt đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm.
-------------
Chú thích của hungcom :
(*)
萬法歸空無所依,
歸寂真如目前機。
達悟心圓無所指,
水水心月泯心儀。
Vạn pháp quy không, vô sở y,
Quy tịch, chân như mục tiền ky.
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ,
Thuỷ thuỷ tâm nguyệt dẫn tâm nghi.
(**)
Cụm từ "Pháp cụ" ở đây không phải là cụ túc giới (vì sư đã thọ cụ túc giới rồi) mà là một vật gì khác, thí dụ như Y, bát, chuông, khánh, chuỗi hạt, .......
(***)
Bài này :
"Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".
Có lẻ do gõ sai, căn cứ vào nguyên tác bên dưới, nên chăng sửa lại là :
"Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
Chỉ bởi như kia đạo táng tâm
Sao giống Tử Kỳ đa sầu cảm ?!
Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".
此時說道罕知音,
只為如斯道喪心。
奚似子期多爽慘,
聽來一達伯牙琴。
Thử thời thuyết đạo hãn tri âm,
Chỉ vị như tư đạo táng tâm.
Hề tự Tử Kỳ đa sảng sẩm,
Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm.
(****)
秋來涼氣爽胸襟,
八斗才高對月吟。
堪笑禪家癡鈍客,
為何將語以傳心。
Thu lai lương khí sảng hung khâm,
Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.
Kham tiếu thiền gia si độn khách,
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm.
hoatihon
06-12-2015, 08:19 AM
Vạn pháp quy không
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vanphapquykhong_zps1d5bf935.jpg
hoatihon
06-12-2015, 08:21 AM
Nỗi buồn Mạt pháp
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/noibuonmatphap_zps338b28d6.jpg
hoatihon
06-12-2015, 08:23 AM
Biết nói gì .....?
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/bietnoigi2_zps0ce0a9e7.jpg
hungcom
06-12-2015, 08:24 AM
31. THIỀN SƯ Giác Hải
Chùa Diên phúc, Hải thanh, người Hải thanh, họ Nguyễn, nhỏ thích đánh cá đi câu, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh khắp sông biển. Năm 25 tuổi, Sư bỏ nghề, xuống tóc làm Tăng.
Ban đầu, Sư và Không Lộ cùng thờ Hà Trạch. Sau Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ.
Đời vua Lý Nhân Tông, Sư thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát Liên manh hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo "Đang còn một con, để đó cho Sa Môn". Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen:
"Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông cùng biến hóa
Một Phật, một thần tiên" (1)
Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, Tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải thanh, vua tất đến chùa Sư trước. Một hôm, vua hỏi Sư: "Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng? Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho Sư một kiệu vai, để ra vào cửa khuyết.
Đến đời Thần Tôn, nhiều lần triệu vào, nhưng Sư từ chối, viện cớ già bệnh mà không tới.
Có vị Tăng hỏi:
"Phật và chúng sanh ai khách, ai chủ?".
Sư dùng bài kệ đáp:
"Gái tơ chỏm tóc bạc (2)
Báo ngươi tác giả biết
Nếu hỏi cảnh giới Phật
Long môn gặp điểm trán". (3)(*)
Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng đến dạy kệ :
"Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,
Cần nhau hoa bướm biết nhau khi
Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn
Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi". (**)
Đêm ấy có ngôi sao lớn rớt ngay góc Đông nam phương trượng của Sư. Nói xong, Sư ngồi ngay ngắn mà mất (4). Vua xuống chiếu cho thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho hai người con của Sư làm quan để tỏ lòng khen thưởng (5)
________________
Chú thích :
(1)
Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục " Tăng đạo thần thông" chép y chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài thơ.
(2)
A giác nữ đầu bạch người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. Thiền sư Đầu Tứ Đại Đồng được hỏi:"Hoà thượng sống ở đây có cảnh giới gì?", Sư đáp: "A giác nữ bạch đầu ty" (Người con gái còn để hai chỏm tóc, nhưng đầu đã bạc như tơ).
(3)
Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về. Linh Thứu Nhàn thiền sư, có Hoà thượng Minh Thủy hỏi: "Thế nào là mau được pháp thân?". Sư đáp:
"Nhất thấu Long môn vân ngoại vọng
Mạc tác Hoàng hà điểm ngạch ngư".
(Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
Thì chớ làm cá sông Hoàng hà bị chấm trên trán)
Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ xuyên ở Trung quốc, ở đấy có cái vực rất to ăn thông với sông Dương tử. Tương truyền ở đó có cái ao tên Vũ môn. Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy qua cửa đáy. Con nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ 13b4-7 thì Long môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc châu, ở đấy "có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn
lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8 tháng 4, các bầy cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ cá chép một hai con thì có thể được. Giao châu ký nói: có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn lên đó thì hoá thành rồng".
(4)
An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có sao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b8.
(5)
Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một vài sai lầm chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục do "Đạo nhân Quán tam thanh" thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, song cũng không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An nam chí lược 15 tờ 147 về"hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại quốc xin đồng về đúc chuông" hai cái để tại chùa núi Phổ lại, và việc "Giác Hải giỏi lặn dưới nước" cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định niên đại những truyền thuyết thần kỳ về những vị sư này.
---------------
Chú thích của hungcom :
(*)
不覺女頭白,
報你作者識。
若問佛境界,
龍門遭點額。
Bất giác nữ đầu bạch,
Báo nhĩ tác giả thức.
Nhược vấn Phật cảnh giới,
Long môn tạo điểm ngạch.
(**)
春來花蝶善知時,
花蝶應須共應期。
花蝶本來皆是幻,
莫須花蝶向心持。
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
hoatihon
06-12-2015, 08:31 AM
Vấn Phật cảnh giới
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vanphatcanhgioi_zpse8d47727.jpg
hoatihon
06-12-2015, 08:32 AM
Mặc bướm, mặc hoa.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hoabuom_zps3314aab5.jpg
hungcom
06-12-2015, 08:33 AM
32. THIỀN SƯ Nguyện Học (1)(?- 1181)
Chùa Quảng báo, làng Chân hộ, Như nguyệt, người Phù cẩm, họ Nguyễn. Thuở nhỏ Sư thọ pháp với Viên Trí chùa Mật nghiêm. Khi được yếu chỉ, trước tiên Sư đến ẩn ở núi Vệ linh, chuyên tu phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền quán đến 3 ngày mới dậy. Sư thường trì Hương hải đại bi đà la ni, nên việc cầu mưa, trị bệnh, không việc gì là không hiệu nghiệm tức khắc.
Vua Lý Anh Tôn, thấy các điều thần hiệu của Sư, ban chiếu cho vào ra cung cấm, để dùng chú chữa bệnh.
Sau Sư cáo lão về trụ trì chùa Quảng Báo. Môn đồ không dưới 100 người. Đến ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175), lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy:
Đạo không hình tượng
Trước mắt chẳng xa,
Xoay lại tìm kiếm,
Chớ cầu người ta
Dẫu cho cầu được (2)
Được chẳng thật đâu,
Ví có được thật
Thật đó vật nào?
Vì thế chư Phật ba đời
Lịch đại sư tổ
Ấn thọ tâm truyền
Cũng nói thế cả. (*)
Hãy nghe ta nói kệ:
"Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ khơi
Linh thông biến hoá, hiện thật tướng
Ngồi, nằm, đi, đứng riêng siêu nhiên
Ứng hiện hoá thân chẳng thể lượng.
Hư không đầy dẫy tuy lấp khắp,
Xem qua chẳng thấy như có bóng
Thế gian không vật hay kịp sánh
Mãi hiện ảnh thiêng sáng rạch ròi
Thời thường dạy dỗ bất tư nghị
Không được một câu đáng làm lời"(3)(**)
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất.
__________________
Chú thích :
(1)
An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Nguyện Học là sư châu Vũ ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta đều quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng dường". Nhưng rõ ràng đấy là văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ16b1 cũng chép Pháp Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ 16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: "Thiền sư Nguyện Học là Sư
châu Vũ ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất". Do thế, những gì viết về Nguyện Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc chép nhảy hàng gây ra, bởi vì cả Học lẫn Hiền đều nói là "sư châu Vũ ninh", nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả về Học, nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.
(2)
Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư :
Đạo nguyên bất viễn
Tánh hải phi diêu
Đản hướng kỷ cầu
Mạc tùng tha mích
Mích tức bất đắc
Đắc diệt phi chân.
(Nguồn đạo không ngại
Bể tính chẳng xa
Chỉ nhắm mình tìm
Chớ tìm ở người
Tìm tức không được
Được cũng chẳng chân)
(3)
Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Án hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc toạ thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất biến vi trần tướng
Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
道無影像,
觸目非遙。
自反推求,
莫求他得。
縱饒求得,
得即不真。
設使得真,
真是何物?
Đạo vô ảnh tượng,
Xúc mục phi dao.
Tự phản suy cầu,
Mạc cầu tha đắc.
Túng nhiêu cầu đắc,
Đắc tức bất chân.
Thiết sử đắc chân,
Chân thị hà vật ?
(**)
了悟身心開慧眼,
變化靈通現實相。
行住坐臥獨卓然,
應現化身不可量。
雖然充塞遍虛空,
歡來不見如有相。
世間無物可比況,
長現靈光明朗朗。
嘗時演說不思議,
無得一言以為當。
Liễu ngộ thân tâm khai tuệ nhãn,
Biến hoá linh thông hiện thực tướng.
Hành, trụ, toạ, ngoạ độc trác nhiên,
Ứng hiện hoá thân bất khả lượng.
Tuy nhiên sung tắc biến hư không,
Hoan lai bất kiến như hữu tướng.
Thế gian vô vật khả tỷ huống,
Trường hiện linh quang minh lãng lãng.
Thường thời diễn thuyết bất tư nghị,
Vô đắc nhất ngôn dĩ vi đáng.
hoatihon
06-12-2015, 08:36 AM
Chân thị hà vật ?
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Chanthihavat_zps606952ff.jpg
hoatihon
06-12-2015, 08:38 AM
Liễu ngộ thân tâm...
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/lieungothantam_zpsfce9ebee.jpg
hungcom
06-12-2015, 08:39 AM
Thế Hệ Thứ Mười Một (9 người, 8 người khuyết lục)
33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 - 1190)
Chùa Tịnh quả, Trung thụy, Trương canh, người Đan phụng, họ Nguyễn. Sớm mất cha mẹ, Sư theo người cậu là Bảo Nhạc thọ nghiệp, đấy là bước đầu phát tâm. Nghe Trí Thiền (1)giáo hóa ở chùa Phúc thánh tại Điển lãnh. Sư liền đến đó tham vấn. Một hôm, nghe Thiền giảng Tuyết đậu ngữ lục (2) đến chuyện hai vị tôn túc Đạo Ngô và Tiệm Nguyên, tới nhà người chết hỏi việc sống chết (3), Sư như có điều tỏ ngộ, liền hỏi: "Một câu thoại đầu ấy, cổ nhân nói, nhân trong sống chết còn có lý không?".
Thiền đáp: "Người thể nhận được lý do đó chăng?"
Sư thưa: "Thế nào là lý không sinh tử?"
Thiền đáp: "Chỉ ở trong sinh tử, mới khéo hiểu được nó"
Sư thưa: "Thế là đã vô sinh rồi"
Thiền bảo: "Tức cũng tự mình hiểu lấy"
Nghe xong, Sư hoàn toàn được giải đáp, bèn hỏi: "Làm cách nào để quyết chắc?"
Thiền đáp: "Rõ rồi cũng giống như chưa rõ".
Sư sụp lạy, Từ đấy, tiếng tăm Sư vang khắp Thiền lâm.
Lúc đầu Sư đến chùa Khánh ân tại Siêu loại trác tích. Binh bộ Thượng thư Bằng Giáng Tường nghe danh kính mộ, thỉnh Sư về trụ trì chùa Tịnh quả. Sư nêu cao tôn chỉ, Thiền lữ đến học đều không đến suông.(4)
Một hôm có đệ tử nhập thất là Thường Chiếu, nêu kinh Kim Cang ra hỏi:
"Pháp mà Như Lai đạt được, pháp đó không thật, không hư vậy nó là pháp gì?" (5)
Sư đáp : "Người đừng có chê khéo đức Như Lai"
Chiếu đáp: "Hoà thượng đừng có chê khéo lời kinh".
Sư hỏi: "Kinh đó do ai nói?"
Chiếu đáp: "Hoà thượng đừng có đùa lâu với con, há chẳng phải Phật nói sao?"
Sư đáp: "Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh lại bảo: "Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết pháp, tức là huỷ báng Như Lai" (6)
Chiếu không nói được.
Có vị Tăng đến hỏi: "Pháp thân là gì?"
Sư đáp: "Pháp thân vốn không tướng".
Lại hỏi: "Thế nào là Bát nhã?"
Sư đáp: "Bát nhã không hình"
Hỏi: "Thế nào là cảnh Tịnh quả?".
Sư đáp: "Cây thông, cây thu bên bãi tha ma xưa".
Hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?"
Đáp: "Một mình ngồi bít miệng bình".
Lại thưa: "Chợt gặp tri âm, làm sao tiếp đây?"
Sư đáp: "Tuỳ duyên nhướng đôi mày".
Lại thưa: "Làm sao mới là con cháu Kiến sơ và dòng dõi Âu công?" (7)
Sư đáp: "Người Ngu nước Sở".
Vị Tăng không đáp được.
Đến ngày rằm tháng 2 năm Canh Tuất Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), lúc sắp tịch, Sư nói bài kệ sau:
"Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt
Được vô sinh sau nói vô sinh
Làm trai có chí xông trời ấy
Chớ hướng Như Lai hành xứ hành" (8)(*)
Nói kệ xong, Sư chấp tay ngay ngắn mà mất, thọ 69 tuổi. Bằng công làm lễ hỏa táng, dựng tháp thờ.
______________
Chú thích :
(1)
Nguyên văn chép Trí Thiền. Nhưng truyện Minh Trí ở trên nói "tên trước của Trí là Thiền Trí". Vậy Trí Thiền chắc là một chép lộn của Thiền Trí hay ngược lại.
(2)
Tức Minh Giác Thiền sư ngữ lục, của Thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết đậu ở Minh châu, sau khi mất, được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác.
(3)
Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đi điếu tang. Nguyên vỗ quan tài nói: "Sống ư? Chết ư?". Ngô nói: "Sống, không nói. Chết không nói".
Nguyên hỏi: "Vì sao không nói?". Nguyên đáp: "Không nói là không nói". Xem Bích nham lục 6
(4)
Nguyên văn: Hư vãng, Trang tử "Đức sung phù": "Lập bất giác, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thật nhi quy".
(5)
Kim cang kinh: "Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư"
(6)
Đại Châu Huệ Hải hỏi một giảng sư kinh Kim cang: "Kinh đó là ai nói?" Vị sư lên tiếng đáp: "Hoà thượng nói giỡn sao: Há không biết Phật nói sao?. Sư nói: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người đó không biết nghĩa ta nói ..."
(7)
Kiến Sơ chỉ cho Vô Ngôn Thông, thiền phái của Thông cũng gọi là phái Kiến Sơ. Âu công chỉ cho Đạo Huệ, Đạo Huệ họ Âu.
(8)
Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm:
"Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai hành xứ hành".
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
離寂方言寂滅去,
生無生后說無生。
男兒自有衝天志,
休向如來行處行。
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
hoatihon
06-12-2015, 08:41 AM
Độc bộ
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/dochanh_zps057e5c4f.jpg
hungcom
06-12-2015, 08:41 AM
Thế Hệ Thứ Mười Hai(Có 7 người, 6 người khuyết lục)
34. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? - 1203)
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức, người làng Phù ninh, họ Phạm. Triều Lý Cao Tôn, Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng từ, Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa Tịnh quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông mạc để giảng diễn giáo chỉ, sau đó dời sang chùa Lục tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông. Có vị Tăng hỏi: "Khi vật và ta duyên nhau thì làm thế nào?" Sư đáp:
"Ta vật đều quên,
Tâm tính vô thường
Dễ sinh dễ diệt
Giây phút không ngừng,
Ai kẻ vin bắt ?
Sinh thì vật sinh
Diệt thì vật diệt
Pháp kia có được
Thường không sinh diệt"
Vị Tăng thưa: "Người học chưa hiểu, xin thầy dạy lại". Sư bảo: "Rõ tâm tình mà tu đạo, thì ít sức mà dễ thành; không rõ tâm mình mà tu đạo, thì chỉ phí công vô ích mà thôi".
Lại hỏi: "Pháp thân biến khắp mọi nơi là thế nào?"
Sư đáp: "Như một lỗ chân lông, biến khắp cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế. Nên biết không có một chút nào mà không có thân Phật. Vì cớ sao? Vì pháp thân ứng hóa thành Đẳng chánh giác, không chỗ nào không đến. Phải biết như vầy: Đức Như Lai dùng sức tự tại của tâm, không khởi, không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ pháp nói đoạn nên không đoạn, mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp đều lìa biên kiến. Lìa cõi Dục và cõi Phi Dục mà chuyển pháp luân, vì vào cõi hư không của tất cả các pháp. Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả các pháp đều không thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết rõ tất cả các pháp là tính Niết bàn(1). Ấy gọi là không có tính tướng, không có tính tận, không có tính sinh, không có tính diệt, không có tính ngã, không có tính phi ngã, không có tính chúng sinh, không có tính phi chúng sinh, không có tính Bồ tát, không có tính pháp giới, không có tính hư không cũng không có tính thành Đẳng chánh giác(2)
.
Bèn nói tiếp bài kệ sau:
"Tại thế làm thân người
Tâm là tạng Như Lai
Chiếu ngời khắp mọi cõi
Vắng bóng lúc tìm tòi". (*)
Đến ngày 24 tháng 9 năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ2 (1203), Sư tỏ ra đau tim, nhóm chúng nói kệ rằng:
" Đạo vốn không nhan sắc
Ngày ngày mới mới khoe
Ngoài đại thiên sa giới
Nơi đâu chẳng phải nhà". (**)
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. Đệ tử Thần Nghi làm lễ trà tỳ, thu thập xá lợi, dựng tháp phụng thờ. Sư thường soạn Nam tôn tự pháp đồ 1 quyển(3) còn lưu hành ở đời.
____________
Chú thích :
(1)
Câu nói này lược dẫn một đoạn trong phẩm Như Lai Xuất hiện của kinh Hoa Nghiêm do Thật Xoa Nan Đà dịch Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật từ bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu nhất thiết chúng sanh số đẳng chư Phật thân, hà dĩ cố ? Như Lai thành chánh giác thân, cứu cánh vô sanh diệt cố. Như nhất mao khổng biến pháp giới, nhất thiết mao khổng, tất diệc như thị. Đương trí vô hữu thiểu xứ hứa, không vô Phật thân, Hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác, vô xứ bất chí cố. Tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo tràng bồ đề thọ hạ sư tử tòa thượng, dĩ chủng chủng thân, thành đẳng chánh giác...Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng vân hà tri Như Lai ứng chánh đẳng giác chuyển pháp luân?
Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng như thị tri Như Lai dĩ tâm tự tại lực, vô khỉ vô chuyển, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, hằng vô khỉ cố, dĩ tam chủng chuyển, đoạn sở ưng đoạn, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, ly biên kiên cố, ly dục tế phi tế, nhi chuyển pháp luân. Nhập thất thiết pháp, hư không tế cố, vô hữu ngôn thuyết, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, bất khả thuyết cố, cứu cánh tịch diệt, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, Niết bàn tính cố, nhất thiết văn tự, nhất thiết ngôn ngữ, nhi chuyển pháp luân. Như Lai âm thanh, vô xứ bất chí cố, tri thanh như hưởng, nhi chuyển pháp luân..."
Chúng tôi đã dựa vào xuất xứ này sửa sai một số văn cú của câu nói để dịch cho đúng đắn và dễ hiểu hơn. Chẳng hạn câu: "Đương tri vô hữu thiểu hứa xứ, không vô Phật thân" của kinh Hoa nghiêm, cả hai bản đời Lê và đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều viết: "Đương tri vô hữu thiểu hứa tâm, không vô Phật thân". Chữ tâm của câu sau đương nhiên là một chép sai của chữ xứ câu trước, nhất là khi chữ xứ viết tắt thì tự dạng của nó rất gần với chữ tâm. Chúng tôi do thế đề ngh ịsửa chữ tâm thành chữ xứ.
(2)
Câu này cũng là lược dẫn một đoạn khác của phẩm Như Lai xuất hiện trong kinh Hoa nghiêm. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật tử, Như Lai thành Chánh giác thời, ư kỳ nhân trung, phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập Niết bàn, giai đồng nhất tánh, sở vị vô tánh. Vô hà đẳng tánh?. Sở vị vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh tánh, vô diệt tánh, vô ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô phi chúng sanh tánh, vô bồ đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh, diệc phục vô hữu thành chánh giác tánh. (tri nhất thiết pháp, giai vô tánh cố, đắc nhất thiết trí, đại bi, tương tục cứu độ chúng sanh....."
(3)
Nam tôn tự pháp đồ, Thiền uyển tập anh dẫn nó hai lần, một ở cuối bản tiểu sử của Ma Ha và gọi bằng tên tắt Nam tôn đồ, và một ở cuối bản tiểu sử của Định Huệ. Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn ghi nó là do Thường Chiếu soạn. Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Nam tôn pháp đồ 1 quyển nhưng lại thêm một chi tiết khá lôi cuốn là nó có bài tựa của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vinh đậu trạng nguyên năm 1463. Vậy cuốn Nam tôn tự pháp đồ do Vinh đề tựa chắc chắn là bản in do Vinh hay người thời Vinh đứng in. Thế thì, phải chăng nó đã lưu hành cho tới thời Phan Huy Chú ? Cứ vào một câu viết của Thiền uyển tập anh ở bản tiểu sử của Thần Nghi, theo đó "Chiếu...đem Chiếu đối bản của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân tôn tự pháp" (Chiếu ...toại trừu xuất Thông Biện Đối chiếu bản cập ký kỳ tôn phái điều, vi phân tôn, tự pháp đồ...), thì nội dung của Nam tôn tự pháp đồ, mặc dầu văn bản nó ngày nay hiện vẫn thất lạc, có thể nó gồm hai phần. Phần thứ nhất là ghi những điều cần biết về các tôn phái thiền tại Việt nam như nguyên lai, thế thứ truyền thừa, và rất có thể niên đại cùng một số những chi tiết khác, cần thiết cho việc thiết lập những đồ biểu về các tôn phái đó. Còn phần sau là gồm những đồ biểu. Về số tôn phái, Thường Chiếu đã đi theo Thông Biện và chỉ thừa nhận có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và phái Vô Ngôn Thông, còn phái của Nguyễn Đại Điên cũng như của Nguyễn Bát Nhã cùng những chi phái khác, mà Thông Biện nói là "chia chẽ ra bao la không thể kể xiết", thì chắc chắn đã không được nói tới, như câu hỏi của Thần Nghi với Thường Chiếu đã xác nhận. Và cũng cứ vào câu trên thì cũng rõ ràng là, Nam tôn tự pháp đồ không phải đồng nhất hay hoàn toàn mô phỏng theo Chiếu đối lục.
Ngoài ra, cũng cần thêm là, cả Văn nghệ chí của Lê Quý Đôn lẫn Kinh tịch chí của Phan Huy Chú đều liệt kê một tác phẩm khác nữa của Thường Chiếu nhan đề Thích đạo khoa giáo 1 quyển, mà Thiền uyển tập anh không biết tới. Phải chăng, Thích đạo khoa giáo vẫn còn lưu hành vào thời Lê Quý Đôn hay Phan Huy Chú? Và đây chắc hẳn là một cuốn sách dạy học trò đi thi về những khoa Phật giáo tổ chức dưới triều Lý và Trần.
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
在世為人身,
心為如來藏。
照曜且無方,
尋之更絕曠。
Tại thế vi nhân thân,
Tâm vi Như Lai tạng.
Chiếu diệu thả vô phương,
Tầm chi cánh tuyệt khoáng.
(**)
道本無顏色,
新鮮日日誇。
大千世界外,
何處不為家。
Đạo bản vô nhan sắc,
Tân tiên nhật nhật khoa.
Đại thiên thế giới ngoại,
Hà xứ bất vi gia!
hoatihon
06-12-2015, 08:43 AM
Chữ Tâm
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Chu_Tam2_zps5d7d8625.jpg
hoatihon
06-12-2015, 08:45 AM
Hà xứ bất vi gia !
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/haxubatviqia_zps04aab4fe.jpg
hungcom
06-12-2015, 08:46 AM
Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 người, 3 người khuyết lục)
35. CƯ SĨ Thông Sư (1)(? - 1228)
Người Ốc hương, họ Đặng, ban đầu Sư cùng Quách Thần Nghi, chùa Thắng quang, thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy. Một hôm Sư vào thất, hỏi thỉnh ích (2)rằng: "Làm thế nào để hiểu rõ Phật pháp?"
Thường Chiếu đáp: "Phật pháp không thể hiểu được. Rõ được điều đó thì cần gì hiểu Phật pháp. Chư Phật như vậy tu hành. tất cả các pháp vốn là bất khả đắc".
Sư nhờ câu nói ấy mà lĩnh hội yếu chỉ.
Sau đó Sư trở về làng mình giảng pháp. Học giả theo học rất đông. Phàm có ai hỏi, Sư đều lấy tâm ấn mà ấn truyền.
Hoặc có kẻ hỏi: "Thế nào là người xuất thế?"
Sư đáp: "Há không thấy người xưa nói: Chỉ xem ngũ uẩn đều không, tứ đại vô ngã, chân tâm không tướng, không đi không lại, khi sinh tánh không đến, khi chết tánh không đi, tròn đầy vắng lặng, tâm cảnh như một. Chỉ cần trực nhận tức khắc như thế thì không còn bị ba đời ràng buộc. Đó là bậc xuất thế, dứt khoát không được có chút gì nhắm tới nữa".
Lại hỏi: "Nghĩa vô sinh là gì?"
Sư đáp: "Phân biệt các uẩn đây
Tính nó vốn vắng trơn
Trống không, nên không diệt
Đấy là nghĩa vô sinh".
Lại hỏi: "Thế nào là lý vô sinh?"
Sư đáp: "Điều phục được các uẩn
Mới tỏ được tánh không
Tánh không, không thể diệt
Đấy là lẽ vô sinh"
Tăng hỏi: "Phật là?"
Sư đáp: "Bản tâm là Phật, cho nên Đường Tam Tạng Huyền Trang nói:
"Chỉ rõ tâm địa
Nên gọi Tổng trì
Hiểu pháp vô sinh
Tên gọi Diệu Giác".
Sau đó, vào tháng 7 năm Mậu tý Kiến Trung thứ 4 (1228) của Hoàng triều, Sư viên tịch.
________________
Chú thích :
(1)
Tức Cư sĩ Thông Thiền trong truyện của Tức Lự. Gọi Thông Sư có lẽ để tỏ lòng tôn kính với Thiền. Và Thông Thiền đây chắc không phải là Ngô Thông Thiền môn đồ của Viên Học, bởi vì không những Thông Thiền đây họ Đặng, và Thông Thiền kia họ Ngô, mà còn vì Đặng Thông Thiền chết năm 1228, trong khi Ngô Thông Thiền thì đã lớn khôn để đưa đám thầy mình vào năm 1136. Ngô Thông Thiền do thế khó mà sống được tới năm 1228.
(2)
Thỉnh ích, theo Phần Dương "thì thiền tôn có cả thảy 18 lối hỏi, mà Phần dương thập bát vấn kê ra như sau: Thỉnh ích, trình giải, sát biện, đầu cơ, thiên tị, tâm hành, thám bạt, bất hội, kinh đảm, trí, cố, tá, thật, giả, thẩm, trưng, minh và mặc. Trong số này trừ lối cuối cùng tức lối hỏi bằng im lặng, mà Dương cho là "khó xác định vì phải biết ý người đến hỏi", những lối còn lại thì tùy theo cơ hội, và Dương cho một số thí dụ về những lối hỏi này.
hungcom
06-12-2015, 08:49 AM
36. THIỀN SƯ THẦN NGHI (? – 1216)
Chùa Thắng quang, làng Thị trung, Kim bài, người Ngoại trại, họ Quách, con nhà đời đời phạm hạnh. Lúc mới xuống tóc, Sư thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy. Ðến khi Chiếu sắp tịch, Sư hỏi: "Người ta tới giờ phút đây, làm sao lại chết theo lối thế tục?".
Chiếu đáp: "Ngươi nhớ được mấy người, mà không chết theo lối thế tục?".
Sư thưa: "Chỉ có Ðạt Ma, một người."
Chiếu hỏi: "Ngài có cái gì lạ lùng đâu?"
Sư thưa: "Một mình thong dong về Tây".
Chiếu hỏi: "Thế Hùng Nhĩ là cái gì?"
Sư thưa: "Là chỗ chôn quan tài của chiếc giày".
Chiếu nói: "Gạt kiếm lời là Thần Nghi"
Sư thưa: "Chớ bảo Tống Vân truyền nhảm, đến khi Trang Ðế quật mồ thì sao?"(1).
Chiếu quát lớn: "Ðó là chuyện chó sủa suông" (2)
Sư thưa: "Hoà thượng cũng theo thế tục sao?"
Chiếu nói: "Theo thế tục".
Sư thưa: "Vì sao như thế?"
Chiếu nói: "Ðể cho giống với mọi người".
Sư hốt nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy thưa: "Con đã hiểu lầm rồi".
Chiếu liền hét.
Sư lại thưa: "Con hầu Hoà thượng đã nhiều năm, mà không biết người truyền đạo này đầu tiên là ai, cúi xin chỉ dạy thứ lớp truyền pháp, khiến cho người học biết được nguồn gốc".
Chiếu khen Sư có lòng tha thiết thành khẩn, bèn đem Chiếu đối bản (3) của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân Tôn tự pháp, đưa cho Sư xem.
Sư xem xong, liền hỏi: "Sao không thấy nói đến hai phái Nguyễn Ðại Ðiên(4) và Nguyễn Bát Nhã?"
Chiếu nói: "Ắt Thông Biện có một ức ý nào đó".
Ngày 18 tháng 2 năm Bính tý Kiến Gia thứ 6 (1216), Sư đem Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối bản do Thường Chiếu trao (5) mà dặn lại đệ tử là Ẩn Không rằng: "Ngày nay tuy loạn lạc, nhưng ngươi khéo giữ gìn chúng, cẩn thận chớ để cho binh hỏa thiêu hủy, thì Tổ phong ta mới không bị suy sụp vậy".
Nói xong Sư vĩnh viễn ra đi. (Ẩn Không trước ở tại huyện Na ngạn (6) của Lạng châu, nên thời bấy giờ gọi là Na Ngạn Ðại sư).
________________
Chú thích :
(1)
Nhà Bắc Ngụy, Hiếu Trang Đế, năm Vĩnh An thứ 3 (530), Tống Vân đi sứ Tây vực, gặp Đạt Ma tại Thông lĩnh. Trang Đế nghe sự lạ bèn quật mồ, chỉ thấy còn lưu lại một chiếc dép. Do đó có thiền thoại "chích lý Tây quy". Xem Truyền đăng lục 3 tờ220a-b.
(2)
Tục ngữ thường được dùng trong thiền: nhất khuyển phê hư hoặc cũng nói là nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật. Xem truyện Diên Chiểu trong Truyền đăng lục 13 tờ303a28-29, truyện Chân giác 18 tờ 82 352b2 và truyện Thủ Trừng quyển 20 tờ 368a21-23. Nguyên xuất xứ nó là trong Thiên Hiền nạn của Tiềm phu luận: "Nhất khuyết phệ hình, bách khuyến phệ thanh..."
(3)
Về Chiếu đối bản, xem chú thích (3) truyện Biện tài.
(4)
Nguyễn Đại Điên (? - 1110) chắc chắn là sư Đại Điên đánh chết cha của Đạo Hạnh, để rồi bị Hạnh đánh chết lại trong truyện Đạo Hạnh. Xem chú thích (8) truyện Đạo Hạnh.
Còn Nguyễn Bát Nhã tức Thiền sư Bát Nhã chùa Từ quang phúc thánh ở làng Dịch vương, Trương Canh, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây ngày nay. Sư là đệ tửcủa Thảo Đường.
(5)
Nguyên văn: Sư dĩ chiếu sở thọ đồ bản. Hai chữ đồ bản trong đó, chúng tôi hiểu là Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối bản.
(6)
Tức huyện Lục ngạn, tỉnh Bắc giang ngày nay.
hungcom
06-12-2015, 08:51 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN
(GỒM NĂM NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
37. THIỀN SƯ TỨC LỰ {Một tên là Tĩnh Lự}
Chùa Thông thánh, làng Chu Minh (1), phủ Thiên đức, người làng Chu minh. Lúc nhỏ thông minh, đọc khắp sách đời. Một hôm Sư bỏ sở học của mình đến thờ cư sĩ Thông Thiền làm thầy, học hỏi chỗ huyền yếu. Thường vào ngày giải hạ, Sư đặt bẫy bắt được con chim Mãi quỷ (2) đem vào dâng thầy.
Thiền kinh ngạc hỏi: "Ngươi đã làm thầy tu, sao lại phạm sát? Quả báo ngày sau thời sao?".
Sư thưa: "Chính khi ấy con chẳng thấy có con vật đó, cũng chẳng thấy có thân con và cũng chẳng biết có quả báo sát sinh, cho nên mới làm như thế".
Thiền biết Sư là pháp khí, bèn cho vào hàng nhập thất, mật truyền tâm ấn rằng: "Ông nếu dùng đến chỗ đất ấy, thì dù có tạo tội ngũ nghịch, thất già cũng được thành Phật"(3)
Có vị Tăng bên cạnh trộm nghe lời này, bèn kêu to lên rằng: "Khổ thay ! Dẫu có việc như thế tôi cũng không thể tin được !".
Thiền lên tiếng quát: "Ðồ giặc ! Ðồ giặc ! Ðâu để cho loài phi nhân (4) được sự tiện lợi của nó?"
Sư nghe câu nói ấy liền giác ngộ. Sau Sư trở về chùa mình, nghiên giảng tôn chỉ Thiền để dạy học trò. Cư sĩ Ứng Thuận là kẻ kế thừa Sư vậy.
________________
Chú thích :
(1)
Tức khoảng địa phận quanh làng Phù cầm, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.
(2)
Mãi quỷ, một tên khác của chim Đỗ Quyên hay chim cuốc.
(3)
Tội ngũ nghịch tức năm tội trọng đấy là : giết cha, giết mẹ, giết A la hán, gây đỗ máu nơi thân Phật, phá hoại sự hòa hợp của chúng tăng.
Tội thất già tức bảy trọng tội không cho phép của một người được thọ giới Bồ tát, đấy là: "Gây đổ máu nơi thân Phật, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma chuyển pháp luân, giết thánh nhân". Xem Phạm võng kinh quyển hạ.
(4)
Phi nhân: tức loài quỷ thần thông không phải là loài người.
hungcom
06-12-2015, 08:53 AM
38. THIỀN SƯ HUYỀN QUANG (? – 1221)(*)
Núi Yên Tử (1), người Kinh sư, họ Lê, tên Thuần. Là người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ, mồ côi từ bé trải nhiều gian khổ.
Năm vừa 11 tuổi, Thường Chiếu chùa Lục tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử. Sư học vấn thông tuệ, mỗi ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông Tam học. Nhưng tôn chỉ môn thiền Sư chưa kịp suy cứu thì Thường Chiếu đã qui tịch. Về sau, cùng người biện luận tâm yếu tất bị bắt bẻ. Sư thường tự trách mình rằng: "Ta đây ví như con nhà giàu, lúc cha mẹ còn sống, ăn chơi lêu lổng, đến khi cha mẹ chết thì mờ mịt ngu muội, không biết châu báu trong nhà nằm ở đâu, đến nỗi cuối cùng thành nghèo thiếu".(2)
Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, tham học các hàng tri thức, gặp Trí Thông chùa Thánh quả dạy cho một câu, Sư chợt rõ tâm địa của mình, bèn ở lại đấy hầu hạ Thông. Sau vì nhân sự cúng dường của công chúa Hoa Dương(3) mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong. Sư nghe được, nói: "Phàm được người thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị hủy nhục. Nay ta là như thế sao? Vả, con đường Bồ tát thì rộng lớn, còn pháp Phật thì vô lượng, kẻ sĩ giữ đạo trung dung còn nhiều khi phải buồn tẻ khóc thầm(4). Nếu như không dõng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy việc tinh tấn làm khí giới, thì làm sao tránh được ma quân, phá được phiền não, cầu được giác ngộ vô thượng?"
Rồi Sư vào thẳng trong núi Uyên trừng, phủ Nghệ an, theo Thiền sư Pháp Giới thọ giới Cụ túc. Một hôm, Sư thấy thị giả dâng cơm, sẩy tay làm đổ xuống đất. Sợ quá, thị giả lấy tay hốt cơm lộn đất, Sư tự hối nói: "Ta sống vô ích cho người, chỉ nhọc cho họ cúng cấp để đến nỗi như thế kia".
Từ đấy bèn mặc áo lá, thôi nhận lương, trải hơn 10 năm. Lúc sắp tìm chỗ riêng để an dưỡng tuổi già, Sư bèn vào sâu trong núi ấy, kết cỏ làm am mà ở. Mỗi khi xuống núi kinh hành, Sư tất dùng gậy quảy một đẫy vải (5). Ðến ngồi nằm nơi nào, thú rừng trông thấy không con nào là không thuần phục.
Lý Huệ Tôn khâm phục đời sống cao thượng của Sư, đã nhiều lần lần sắp lễ đi đón. Sư lánh mặt, sai thị giả bảo lại với sứ giả rằng: "Bần đạo sinh trên đất vua, ăn lộc vua, ở trong núi thờ Phật trải đã nhiều năm, mà công đức chưa thành, rất lấy làm thẹn. Nay nếu về thăm vua thì không những không có ích gì cho việc trị an, mà lại bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật pháp đang thịnh hành, Sư trưởng trong đạo đã nhóm cấm túc ở gác điện Vũ nghi (6) thì sao phải chiếu cố một ông thầy tu thô hèn gởi mình trong núi đến thế?". Từ đó, Sư quyết không xuống núi nữa.
Có vị Tăng hỏi: "Hoà thượng ở trong núi bấy lâu làm được những việc gì"
Sư đáp:
"Dùng đức Hứa Do ấy (7)
Sao biết đời mấy xuân
Vô vi sống đồng rộng
Tự tại người thênh thang"
Mùa xuân năm Tân tỵ Kiến Gia thứ 11 (1221), khi sắp thị tịch, Sư ngồi trên một tảng đá nói kệ:
Pháp huyễn đều là huyễn,
Tu huyễn cũng là huyễn,
Chẳng là hai huyễn ấy
Tức trừ được mọi huyễn".
Nói xong, Sư an nhiên mà tịch. Môn đồ Ðại Viên sắm đủ lễ an táng Sư trong hang núi.{Lại Tự ngu tập nói Sư mất, không biết ở đâu}
_________________
Chú thích :
(1)
Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Yên tử ở tại xã Nam mẫu huyện Đông triều, một tên là Tượng sơn. Long mạch chi tả bổ xuống làm tổ các núi ở Hải dương. Cứ Đồ kinh thì núi ở hương Cấn. Mạch Quyết nói: "Nó nở như sen, nó bay như diều, hai cái không đều, sinh nhiều ngỗ nghịch". Hải nhạc danh sơn đồ đời Tống cho núi này là một trong bốn đất phúc. Xưa, An Kỳ Sinh đời Hán tu luyện ở đấy. Trên núi (Tiên) có chùa gọi Hoa yên, gọi Tử tiêu, lại có khe tên Giải oan, tên Long hàm, khéo léo thanh vắng,
thật là một bồng đảo của thiên nhiên...". Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục sơn xuyên.
(2)
Chuyện "Người cùng tử trong kinh Pháp hoa", sau một thời gian trôi giạt gặp bất ngờ cha mình trong cảnh giàu sang tột bực, nhưng không nhận ra đó là cha, mà chỉ bằng lòng nhận thân phận nô dịch.
(3)
Đại Việt sử lược 3 tờ10a11: "Trinh Phù năm thứ 5 (1180) mùa đông cho thủ lãnh châu Vị long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương". Công chúa Hoa Dương như vậy là con của Lý Anh Tôn.
(4)
Nguyên văn: Khấp kỳ. Từlấy ra ở thiên Nghi tợ của Lã th ịxuân thu 22 tờ21b12-13 về việc "Mặc tử thấy đường rẽ mà khóc". Thiên Thuyết lâm của Hoài nam tử17 tờ13b13-14 giải rõ hơn: "Dương tử thấy đường rẽ mà khóc vì nó có thể đi về nam hay bắc".
(5)
Bố Đại hòa thượng (...) thường dùng một cây gậy quảy một túi vải trên vai, viên tịch đời Lương, niên hiệu Trinh Minh thứ hai
(6)
Các sư tăng có lệ cấm túc, giới hạn trong một khu vực, trong một thời gian không ra khỏi giới hạn đó. Cuộc cấm túc này có lẽ xảy ra vào năm 1212, mà Đại Việt sử lược3 tờ 24a10 ghi lại việc Lý Huệ Tôn cùng thái hậu đến trước Phật thệ rằng: "Trẫm đem sức mọn mà trộm nối ngôi quí, đến nỗi phải gặp loạn ly, sắp đổ sự nghiệp trước, thậm chí cung giá phải dời đổi nhiều lần. Nay muốn lãnh ngôi trời để nhường cho người hiền đức" nói xong, vua lấy dao muốn cắt tóc thì (Trần) Tự Khánh đốt sạch cung điện như Đại Việt sử lược 3 tờ 26b4 ghi. Điện Vũ nghi không thấy tên trong sử.
(7)
Hứa Do là tên nhà cao sĩ đời thượng cổ Trung quốc, trước ở ẩn tại Bãi trạch, vua Nghiêu đem thiên hạ nhường cho, bèn không nhận, rồi trốn đến dưới núi Cơ ở Dĩnh thuỷ cày ruộng. Vua Nghiêu lại mời làm Cửu chân trưởng. Hứa Do không muốn nghe, bèn đến bên sông Dĩnh lấy nước rửa lỗ tai mình.
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Trùng tên với Thiền sư là :
Huyền Quang (玄光), 1254-1334, tên thật là Lý Đạo Tái (李道載), người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; là một Thiền sư Việt Nam, Tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử.
hungcom
06-12-2015, 08:58 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM
(Có 7 người _ Ở đây chỉ có một người)
39. CƯ SĨ ỨNG VƯƠNG. (1)
Người phường Hoa thị (2), kinh đô Thăng long, họ Ðỗ, tên Văn, tính tình giản dị, khoáng đạt, không bôn chôn theo việc đời. Ban đầu làm quan dưới triều Chiêu Lăng ta (3), chức đến Trung phẩm phụng ngự. Những khi rảnh việc quan, ông dốc chí học Thiền, tay không rời sách, tìm hết ý tổ, hiểu rõ Tâm tông. Ở cửa trường của Tức Lự chùa Thông thánh, ông thấu hết bí quyết của Lự. Do đó, Sư gió thiền không nghẽn, mắt đạo càng cao.
Khi được truyền tâm ấn rồi, ông là người tai mắt của tòng lâm, như những vị quốc sư Nhất Tôn, Thiền sư Tiêu Diêu(4), Giới Minh và Giới Viên ấy vậy.
______________
Chú thích :
(1)
Truyện của Tức Lự nói: "Ứng Thuận cư sĩ, ấy là pháp tự của Lự". Nhưng không hiểu sao đây gọi Ứng Vương, hoặc chữ Vương là một khắc sai của chữ Thuận. Hoặc là cách gọi để tỏ lòng tôn kính như trường hợp Thông Sư.
(2)
Phường Hoa thị này không biết thuộc phường nào của thủ đô Hà nội.
(3)
Tức triều Trần Thái Tôn (1225-1257). Khi Thái Tôn mất vào năm 1277 và đem táng vào lăng thì lăng của Thái Tôn gọi là Chiêu lăng. Xem Toàn thư B5 tờ 36a5
(4)
Cứ Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 7b thì Tiêu Diêu là đệ tử của Ứng Thuận và là thầy của Tuệ Trung. Ngoài Tiêu Diêu ra, nó còn cho biết Quốc Nhất, Đạo Sư, Quế Thâm và Chân Giám là những đệ tử khác của Thuận.
Và ngoài Tuệ Trung ra, thì Thạch Đậu Vị Hải, Đạo Tiềm, Thân Tán, Lại Tản, Thạch Lâu, Thôn Tăng, Thủ Nhân, Ngu Ông và Vô Sở là đệ tử của Tiêu Diêu.
Thượng sĩ hành trạng trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 38a8-b1 nói: "(Tuệ Trung) lúc còn để chỏm, rất chuộng cửa Không, đến học Thiền sư Tiêu Diêu ở Phước Đường, hiểu được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy". Còn bài tựa do Huệ Nguyên viết năm 1763 trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 3b1-3 nói: "Thượng tổ Tiêu Diêu... vừa đến nước ta, đã thoát thế vô y, cầm câu không lưỡi mà vào kinh thành". Như thế Diêu chưa hẳn là người nước ta. Lời tựa đây cũng nói Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm của Tiêu Diêu.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ Tiêu Diêu chắc quê quán Phước đường tại vùng Thanh từ ngày nay.
hungcom
06-12-2015, 09:01 AM
THIỀN UYỂN TẬP ANH NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
40. Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi (1)
Chùa Pháp vân, làng Cổ châu, Long biên (2). Người nước Nam Thiên trúc (3), dòng Bà la môn. Nhỏ đã mang chí xuất tục, đi khắp Tây trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm gậy sang Ðông Nam.
Ðời trần Ðại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp ngọ (4), Sư mới đến Trường an. Gặp lúc Chu Võ Ðế phá diệt Phật pháp (5), Sư muốn sang đất Nghiệp. Bấy giờ đệ tam tổ Tăng Xán vì tị nạn, nên mang y bát ở ẩn trong núi Tư không (6). Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên lòng như có sở đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: "Ðệ tử bấy lâu không gặp thuận tiện, nay nhờ Hoà thượng đại từ bi, cúi xin cho con theo hầu hạ hai bên".
Tổ dạy "Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu".
Sư từ biệt ra đi, đến Quảng châu trác tích chùa Chế chỉ. Trải qua 6 năm, Sư dịch được kinh Tượng đầu báo nghiệp sai biệt (7). Ðến tháng 3 năm Canh tý đời Chu Ðại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước ta ở tại chùa đó, lại dịch ra kinh Tổng trì, 1 quyển.
Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng:
"Tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
không thiếu không dư (8)
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên.
Nên giả đặt tên
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tình
Cũng dùng như thế mà được
Vả, Tổ ta Xán công
Khi ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa
Không nên ở lại đây lâu
Từng trải nhiều nơi
Mới đến được đây
Nay gặp phải ngươi
Quả hợp huyền ký
Ngươi khéo giữ gìn
Giờ đi ta đến.
Nói xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ. Khi ấy là năm Giáp dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).
Vua Lý Thái Tông có tặng phong và làm bài kệ truy tán:
"Mở lối sang nước Nam
Nghe ông giỏi tập Thiền
Mở bày niềm tin Phật
Xa hợp một nguồn tim
Trăng Lăng già vằng vặc
Sen Bát nhã ngát thơm
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền. (9)
________________
Chú thích :
(1)
Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc: (vinitaruci)
(a) Lịch đại tam bảo ký 10 tờ102c3-9: "Tam tạng Pháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi nước Ô trượng, Bắc Thiên trúc. Tùy dịch là "Diệt hỷ" (*). Khi đã nghe đức Hoàng đế ta phục hưng Tam bảo, nên có thể không cho 500 do tuần là xa, bèn chống gậy nhắm phương đến xem sự thạnh hóa đến mức nào. Bèn được mời vào, sai dịch kinh, tức ở nơi chùa Đại hưng thiện dịch ra (kinh Tượng đầu tinh xá và Đại thừa phương quảng tổng trì). Cấp sự Lý Đạo Bảo và thứ tử của Bát Nhã Lưu Chi là Đàm Bì, hai người truyền dịch. Sa môn chùa Đại hưng thiện là Thích Pháp Toản từ Trường an bút thọ thành chữ Hán, cùng chỉnh đốn so sánh văn nghĩa, Sa môn Ngạn Tôn viết tựa cho cả hai".
(b) Đại Đường nội điển lục 5 tờ275a14-19 chép như (a)
(c) Tục Cao tăng truyện2 tờ 433b2-5 chép y như(b)
(d) Khai nguyên Thích giáo lục 7 tờ 547c8-14 đại cương chép như (a) nhưng thêm chi tiết là các kinh kể trên "dịch vào năm Khai Hoàng thứ 2 (582) Nhâm dần đời Văn Đế", và thêm đính chính rằng "Trường Phòng tức (a) nói phiên dịch tại chùa Đại hưng thiện là sai".
(e) Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục 10 tờ646a8-14 chép như (đ). So sánh các tư liệu Trung Quốc vừa dẫn với nhau, ta thấy ngay một điểm bất thường nổi bật ngay, đấy là việc Khai nguyên Thích giáo lục nói Lịch đại tam bảo ký ghi Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch những kinh của ông tại chùa Đại hưng thiện là sai, nhưng không nói rõ nếu đúng thì dịch chúng ở đâu. Lịch đại tam bảo ký do Phí Trường Phòng viết xong năm 597, còn Khai nguyên Thích giáo lục do Trí Thăng soạn năm 730. Việc Thăng phản đối
Phòng về nơi dịch Kinh của Tỳ Ni Đa Lưu Chi rõ ràng muốn nói rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi không bao giờ dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện cả. Ngược lại, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch chúng ở những nơi khác. Nhưng nới khác đây là nơi đâu, Thăng không nói. Do thế, Thiền uyển tập anh không phải là không có lý, khi nói Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Tượng đầu ở Quảng Châu và kinh Tổng trì ở nước ta, dầu rằng nó có xuất hiện hậu kỳ. Từ kết luận đây, những chi tiết khác liên quan đến Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Phòng ghi lại vị tất là có thể đáng tin hoàn toàn. Sự thực, nếu Tỳ Ni Đa Lưu Chi không dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện, thì việc "mời vào khiến dịch kinh" khó có thể tin được.
(2)
Cương mục chính biên 3 tờ32a1-3 nói: "Chùa Pháp vân ở tại thôn Văn giáp huyện Thượng phúc tỉnh Hà nội. Tương truyền một hôm mây mưa sấm chớp nổi lớn, cây si ngã xuống, người trong thôn lấy gỗ nó khắc tượng dựng chùa thờ, nên có tên đó". Xác định chùa Pháp vân như vậy, các tác giả Cương mục đã sử dụng tài liệu của Bắc thành địa dư chí lục 3, theo đó "chùa Đại Pháp vân, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện ở làng Văn giáp, huyện Thượng phúc". Nhưng đương nhiên chùa Pháp vân nói tới đây không
phải là chùa Pháp vân làng Cổ châu, Long biên, mà thực ra chùa Pháp vũ hay chùa Thành đạo hay chùa Đậu, nơi thờ Pháp vũ.
Vậy chùa Pháp vân làng Cổ châu là chùa nào?.
Làng Cổ châu, Long Biên, nay gồm đất làng Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh. Tại làng này hiện có một chùa tên Diên ứng và một cây tháp tên Hoà phong.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan viết: "Chùa Diên ứng ở xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rõ có linh tích. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp, di chỉ nay còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì lúc Sĩ Nhiếp làm Thái thú cai trị thành Luy lâu, sư Khâu Đà La ở tại núi xanh phía tây của thành. Có người con gái của Tu Định là A Man bị Sư đụng đến, mà có thai sinh một đứa bé gái. Sư đem bỏ vào trong một cây lớn ở rừng sâu. Sau gió mưa nổi lớn, cây trốc gốc, trôi nổi trong sông, trôi đến bến Luy lâu. Người ta lấy làm lạ, vớt lên bờ, sai thợ đẽo bốn pho tượng Phật, dựng chùa gọi là chùa Thiền định...tức nay chùa Diên ứng..., đặt bốn pho tượng Phật phụng thờ. Sau mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, người ta đặt tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi. Thập Di ký của Lý Tế
Xuyên nói người Cổ châu mỗi năm đến ngày mừng Phật đản thì hội họp tại chùa Thiền định. Trần Nghệ Tôn có ban mỹ hiệu. Sử nhà Lê chép: Năm Thái Hòa thứ 6 đời Nhân Tôn sai Lê thái úy đến Cổ châu rước Phật Pháp vân về đến chùa Báo thiên ở kinh thành để cầu mưa".
Chùa Pháp vân ở Cổ châu, Long Biên tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu tại xã Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh ngày nay.
(3)
Tức Nam Ấn. Nhưng các tư liệu Trung Quốc, đã dẫn đều nói người bắc Thiên trúc, tức bắc Ấn.
(4)
Nguyên bản viết "Nhâm ngọ" là sai, Trần Đại Kiến thứ 6 năm Giáp ngọ.
(5)
Phật tổ lịch đại thông tải 10 tờ 557a: Năm Giáp ngọ, Chu Vũ Đế, niên hiệu Kiến Đức thứ 3 (574), tháng 5, ngày 17, xuống chiếu hủy Phật.
(6)
Tổ Tăng Xán, sau khi được truyền pháp, đến ẩn cư trong núi Hoàn công, Thư châu. Gặp lúc Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, ngài lánh sang núi Tư không, huyện Thái hồ sống không nhất định một nơi nào, trải qua 10 năm...Đến Tùy Khai Hoàng 12 (592), truyền pháp cho Đạo Tín. Xem Truyền đăng lục 3.
(7)
Nghiệp báo sai biệt kinh, 1 quyển; gọi đủ là: Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh, đời Tùy, Cù Đàm Pháp Trí dịch (xem ĐTK.80) Ghi chú của Trường Phòng: "Khai Hoàng năm thứ 2, tháng 2, dịch..." Bản dịch của Tỳ Ni Đa Lưu Chi phải chăng đã mất và chắc chắn nội dung không phải thuộc loại kinh này. Bởi vì học lý của Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuyên qua hai bản dịch trên, không thể nào để cho ông dịch một tác phẩm với một học lý, như nó thể hiện trong bản dịch Nghiệp báo sai biệt kinh ngày nay.
(8)
Tăng Xán, Tín tâm minh :
Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư
Lương do thủ xả
Sở dĩ bất như.
(9)
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hiệp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng già nguyệt
Phần phần bát nhã liên
Hà thời tái đắc kiến
Tương dự thoại trùng huyền.
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Diệt Hỉ : 滅喜
hoatihon
06-12-2015, 09:05 AM
Viên đồng thái hư
http://i1026.photobucket.com/albums/y321/cuong_lavinh/viendongthaihu2_zpse37e9069.jpg
hungcom
06-13-2015, 07:27 AM
DÒNG PHÁP CỦA Tỳ Ni Ða Lưu Chi CHÙA PHÁP VÂN.
THẾ HỆ THỨ NHẤT (MỘT NGƯỜI)
41. Thiền sư PHÁP HIỀN (? – 626)
Chùa Chúng thiện, núi Thiên phúc, Tiên du, người Châu diên, họ Ðỗ. Thân cao 7 thước 3 tấc. Ban đầu, Sư đến thọ giới cụ túc với Ðại sư Quán Duyên, chùa Pháp vân. Hàng ngày cùng với Tăng chúng nghe giảng về yếu chỉ của Thiền. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi từ Quảng châu đến ở chùa đó, thấy Sư, nhìn kỹ vào mặt hỏi: "Ngươi họ gì?"
Sư hỏi lại: "Hoà thượng họ gì?"
Lưu Chi lại hỏi: Ngươi không có họ sao?"
Sư đáp: "Họ thì không phải không có, nhưng làm sao Hoà thượng biết?"
Tỳ Ni Ða Lưu Chi quát: "Biết để làm gì?" (1)
Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được Thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật & ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò, Tăng chúng đến ở thường hơn 300. Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh.
Thứ sử Lưu Phương nhà Tùy đem tâu vua Cao Tổ rằng:
"Phương này bấy lâu sùng kính Phật giáo, mà lại trọng Sư đức độ tiếng tăm".
Vua Tùy sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sắc, sai Sư dựng tháp cúng dường (2). Sư xây tháp tại chùa Pháp vân ở Luy lâu (3) và những chùa danh tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái.
{Việc này nói rõ trong truyện của Thiền sư Thông Biện} Về sau, năm Bính tuất Ðường Vũ Ðức thứ 9 (626), Sư thị tịch.
__________________
Chú thích :
(1)
Tham chiếu Truyền đăng lục về cuộc đối thoại đầu tiên giữa Đạo Tín và Hoằng Nhẫn: "Một hôm Tín đến huyện Hoàng mai, giữa đường gặp một đứa trẻ cốt tướng kỳ vĩ, khác với trẻ thường. Sư hỏi: "Con họ gì?" Trẻ đáp: "Là họ Phật." Sư hỏi: "Ngươi không có họ sao?" Trẻ đáp: "Tánh không vậy". Sư lặng biết nó là một bậc tài giỏi của đạo, liền sai người hầu đến nhà nó gặp cha mẹ, xin cho nó xuất gia. Cha mẹ cho là có duyên xưa, nên không có chút vẻ làm khó khăn, liền cho đi làm đệ tử, có tên gọi Hoằng Nhẫn". (*)
(2)
Tục Cao tăng truyện 18 tờ 573b25-c14 trong truyện của Đàm Thiên ghi rõ là vua Tùy Cao Tổ ban xá lợi gồm cả thảy ba lần. Lần đầu cho 30 châu chỗ ở hơn ba mươi châu vào tháng 6, năm Nhân Thọ thứ nhất (601). Lần thứ hai cho 51 châu khác vào tháng giêng năm sau. Và lần thứ ba vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ 4 (604), ra lệnh các châu lớn xây thêm hơn một trăm bảo tháp, để nhận thêm xá lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì lần ban xá lợi thứ nhất, chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm một trong 30 chỗ xây tháp của Cao Tổ. Nhưng năm đó, cứ Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư 4 tờ23a1-8 và Tùy thư 2 tờ 10a6-7, nước ta hiện đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo của Lý Phật Tử, thì làm sao Cao Tổ có thể ban xá lợi qua được. Hơn nữa, nếu việc dẫn Pháp sư Đàm Thiên truyện ở trên của Thông Biện có thể tin được, thì hai năm sau, tức 504, khi mà chính quyền dân tộc của Lý Phật Tử đã bị Lưu Phương đánh dẹp, và khi mà Cao Tổ có những báo cáo rõ ràng về tình hình Giao châu, Cao Tổ đang còn lo cho việc Giao châu được giáo hóa theo Phật giáo. Nếu vậy, Giao châu làm gì mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 mươi chỗ khác của Trung Quốc? Cho nên, chắc phải sau năm 602 khi Lưu Phương đã dụ hàng thành công Lý Sư Lợi, người con nối nghiệp của Lý Phật Tử, thì mới có chuyện ban xá lợi cho Giao châu. Việc ban năm hòm xá lợi cùng một lần do thế là một có thể, và việc Pháp Hiền chọn chùa Pháp vân, chứ không phải chùa Thiền chúng của Xá lợi cảm ứng ký làm nơi xây bảo tháp là một sự thực.
(3)
Xá lợi cảm ứng ký của Quảng hoằng minh tập 17 tờ216b10 nói xây tháp tại chùa Thiền chúng để cúng dường xá lợi ở Giao châu. Nhưng đây nói là "xây ở chùa Pháp vân của Luy lâu", thì tỏ ra đúng sự thực hơn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ6a5-7 thì vào năm 1034 "các nhà sư Pháp vân ở Cổ châu dâng thư nói rằng trong chùa phóng ánh sáng ra vài luồng, theo ánh sáng đó mà đào lên thì được hòm đá một hòm, trong hòm có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình có xá lợi". Cái hòm nói đến đến đây dĩ nhiên là cái hòm xá lợi mà Tùy Cao Tổ đã ban, bởi vì theo Xá lợi cảm ứng ký của Quảng Hoằng minh tập 17 tờ213a18-22 đã mô tả với một sai khác không quan trọng là, thay vì bình bạc, nó có bình đồng bên trong bình đá.
-----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
"Tương truyền ngày kia Tổ Đạo Tín qua huyện Huỳnh Mai giữa đường gặp một đứa trẻ con cốt tướng kỳ tú, thần thái khác thường.
Tổ hỏi: Danh tánh là chi?
Đứa bé đáp: Có tánh, nhưng chẳng phải tánh thường.
Tổ: Là tánh gì ?
Đáp: Tánh Phật.
Tổ: Con không có tánh sao ?
Đáp: Nhưng tánh vốn là không.
Tổ liền nhận biết đó là pháp khí.
Đó là thuật chơi chữ, Tứ Tổ Đạo Tín hỏi là hỏi về danh tánh 姓 (tên họ là gì ?), còn cậu bé (Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn) đáp là đáp về tự tánh 性; mượn chữ đồng âm, người trả lời đã khéo léo biến một Thế gian pháp thành Xuất thế gian pháp.
hungcom
06-13-2015, 07:29 AM
THẾ HỆ THỨ HAI (MỘT NGƯỜI)
THẾ HỆ THỨ BA (MỘT NGƯỜI)
THẾ HỆ THỨ TƯ (MỘT NGƯỜI)
42. Thiền sư THANH BIỆN (? – 686)
Chùa Kiến dương, làng Hoa lâm, phủ Thiên đức, người Cổ giao, họ Ðỗ. Năm 12 tuổi theo Pháp Ðăng chùa Phổ Quang tu học. Khi Ðăng sắp tịch, Sư hỏi:
"Sau khi Hoà thượng đi, con sẽ nương tựa vào đâu?"
Ðăng dạy: "Con chỉ Sùng nghiệp mà thôi".
Sư hoang mang không hiểu. Pháp Ðăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp.
Một hôm có Thiền khách đến viếng hỏi:
"Kinh này là mẹ của ba đời các Ðức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?"
Sư đáp: "Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh".
Thiền khách hỏi: "Thầy trì kinh đã bao lâu?"
Sư đáp: "Ðã tám năm"
Thiền khách hỏi: "Thầy trì kinh đã tám năm mà ý một cuốn kinh không hiểu, thì dầu trì mãi đến trăm năm nào có ích gì?"
Sư bèn đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.
Người khách bảo nên đến Huệ Nghiêm ở chùa Sùng nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh nói:
"Ta nay mới biết lời nói của Pháp Ðăng, quả thật phù hợp". Bèn liền làm theo.
Vừa đến chùa, Huệ Nghiêm hỏi: "Ngươi đến đây có việc gì?"
Sư thưa: "Con trong tâm có chỗ chưa ổn".
Nghiêm hỏi: "Ngươi chưa ổn cái gì?"
Sư liền đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng:
"Ngươi tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: "Ba đời các Ðức Phật cùng giáo pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của các đức Phật, đều từ kinh ấy ra".(1) Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ Phật sao?"
Sư thưa: "Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy".
Nghiêm lại hỏi: "Kinh đó là người nào nói?"
Sư đáp: "Há không phải Như Lai nói sao?"
Nghiêm hỏi: "Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người ấy không thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật nói tức là hủy báng Phật; nếu bảo nó do Phật nói tức là hủy báng kinh. Ngươi phải làm sao? Nói mau ! Nói mau !" (2)
Sư sắp mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.
Hoá duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính tuất, đời Ðường Thùy Củng thứ 2 (686).
_______________
Chú thích :
(1)
Dẫn kinh Kim cang: "Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử Kinh xuất". (Tất cả các đức Phật và giáo pháp giác ngộ không gì hơn của các Đức Phật đó đều từ kinh đấy mà ra). (*)
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Phạn: Anuttara-samyak-sambodhi, nghĩa là sự giác ngộ đúng đắn không gì hơn.
(2)
Đại Châu Huệ hỏi một vị tăng giảng kinh Kim cang: "Kinh đó là do ai nói?. Tăng lên tiếng nói: "Thiền sư sắp đùa rồi đấy. Há không biết là Phật nói sao?". Sư đáp: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp là hủy báng Phật, người đó không hiểu ý nghĩa những điều do ta nói.(**) Nếu bảo Kinh đó không phải là do Phật nói tức là hủy báng Kinh. Xin Đại đức trả lời xem". Vị Tăng không trả lời được.
-----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
一 切 諸 佛 及 諸 佛 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 法 皆 從 此 經 出。
Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la Tam miệu Tam Bồ-Đề pháp giai tùng thử Kinh xuất 。
Tất cả chư Phật cùng pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều phát xuất từ Kinh này 。
(**)
若 人 言 如 來 有 所 說 法 即 為 謗 佛。 不 能 解 我 所 說 故。
Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố.
Nếu có người nói Như Lai có thuyết pháp tức là chê bai Phật, chẳng hiểu được lời của Ta.
hoatihon
06-13-2015, 07:33 AM
Kinh Kim Cang.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/KKC17_zps11af14a6.jpg
hoatihon
06-13-2015, 07:36 AM
Kinh Kim Cang.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/KKC63_zpsd10119cd.jpg
hungcom
06-13-2015, 07:41 AM
THẾ HỆ THỨ NĂM (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ SÁU (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ BẢY (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ TÁM (BA NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
43.Thiền sư ÐỊNH KHÔNG (? – 808)
Chùa Thiền chúng (1), làng Dịch bảng, phủ Thiên Ðức. Người Cổ pháp (2), họ Nguyễn, mấy đời là vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc, người trong làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.
Về già, Sư đến Pháp hội của Nam dương ở Long tuyền nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư phát tâm theo Phật.
Trong khoảng Ðường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Quỳnh lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ (*), chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp (**), chữ thổ chỉ chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ pháp {Tên cũ là Diên Uẩn}. Sư lại làm bài tụng rằng:
"Ðất bày pháp khí
Một món đồ ròng
Ðể Phật pháp được hưng long
Ðặt tên làng là Cổ pháp".(***)
Sư lại nói:
Hiện ra pháp khí
Mười hai chuông đồng
Họ Lý làm vua
Ba phẩm thành công".(****)
Sư lại nói:
"Mười cái xuống nước đất
Cổ pháp đấy tên làng
Gà sau tháng chuột ở (3)
Chính lúc Tam bảo hưng".(*****)
Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng:
"Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta.{Sau Cao Biền của nhà Ðường đến trấn yếm. Quả đúng} Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Ðinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy".
Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu tý Ðường Nguyên Hòa thứ 3 (808) (4). Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục tổ (5) và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi.
______________
Chú thích :
(1)
Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ hợp lý hơn. Làng Dịch bảng nay là làng Ðình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn có chùa nào tên Thiền chúng hay không, chúng tôi hiện chưa biết.
(2)
Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: "Cổ pháp, tên châu, đời Ðinh về trước là châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Ðông ngạn. Ðời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Nhưng truyện đây nói Ðịnh Không "đổi tên làng mình thành Cổ pháp rồi chua thêm "tên cũ là Diên uẩn". Như vậy, Cổ pháp nguyên là tên một làng từ thời Ðịnh Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu. Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn thành Cổ pháp thì tại sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh thành sấm báo hiệu sự lên ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: "Nguyên trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh", trong khi đó Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a9 chép: "Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét đánh". Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây là vào thời Lý. Thế sao, ở đấy truyện bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và Cổ pháp là làng Ðình bảng hay làng Dịch bảng sau này.
Cương mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói "chùa Cổ pháp (******) ở tại xã Ðình bảng, huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Làng Cổ pháp của Ðịnh Không do đó là làng Ðình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.
Trong cả bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi "Ðịnh Không cổ nhân", nhưng chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành "người Cổ pháp", bởi vì truyện Ðịnh Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp.
(3)
Nguyên văn: Kê cư loan nguyệt hậu. "Loan nguyệt" nghi là một viết sai của chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một câu tương tự: "Thố kê thử nguyệt nội", để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng con chuột, tức thử nguyệt của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2 (1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là "tháng chuột". Chữ loan và chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.
(4)
Nguyên văn: Ðường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Ðường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ Cựu Ðường thư thì phải là năm Mậu tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc chắn là một viết lộn của chữ Mậu.
(5)
Chùa Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng.
----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ : 古
(**)
chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp : 法
(***)
Điạ trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng
Trí phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp.
(****)
Pháp lại xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý thị hưng vương
Tam phẩm thành công.
(*****)
Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu
Kê cư thử nguyệt hậu
Chính thị hưng tam bảo.
(******)
Hình ảnh chùa Cổ Pháp :
http://chimviet.free.fr/lichsu/tranvietdien/tranVD_lyconguan/tranVD_lyconguan600.gif
Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3
hungcom
06-13-2015, 07:44 AM
THẾ HỆ THỨ CHÍN (BA NGƯỜI, ÐỀU KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ MƯỜI (BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
44. TRƯỞNG LÃO LA QUÝ
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, Phủ Thiên đức, người An chân, họ Ðinh. Thuở nhỏ vân du các phương, khắp hỏi các bậc thiền. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện ở chùa Thiền chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.
Khi Thiền sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Xưa thầy ta là Ðịnh Công, căn dặn ta rằng: con khéo giữ pháp của ta, gặp người họ Ðinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay đi vậy".
Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù sấm. Sư có lần ở chùa Lục tổ, đúc tượng Lục tổ bằng vàng, sau sợ trộm cướp nên đem chôn ở cửa chùa và dặn: "Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu".
Khi sắp tịch, Sư dạy đệ tử là Thiền Ông rằng: "Xưa kia, Cao Biền (1) xây thành bên sông Tô lịch, biết đất Cổ pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Ðiềm(2) và những ao Phù chẩn(3) v.v…đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa ở chùa Châu minh (4) ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ dứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy".
Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi.
Lại kể rằng, vào năm Bính thân đời Ðường Thanh Thái thứ 3 (936). Sư trồng cây bông gạo, thường có làm bài thơ kệ rằng:
"Ðại sơn đầu rồng ngững
Ðuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành(*)
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên". (5)
______________
Chú thích :
(1)
Cao Biền (? – 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866). Thành đây là thành Ðại la, nằm tại địa phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Ðại Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú thích (9) truyện Ðạo Hạnh.
(2)
Sông Ðiềm hay là Ðiềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Ðuống, tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên, sông Thiên đức chưa từng có tên sông Ðiềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có thể sông Ðiềm là sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Ðông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595, Nguyễn Nghi khoa 1619…
(3)
Ao Phù chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi một số người đậu các khoa tiến sĩ đến từ làng Phù chẩn, huyện Ðông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266, Nguyễn Thì Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588, Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Ðình Bảng khoa 1670 v.v… Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện Ðông ngạn.
Những ao khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không bao giờ ta biết, vì truyện nói "La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như xưa".
(4)
Cây bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sét đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mà Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại…Xem chú thích (8) truyện Vạn Hạnh.
(5)
Nguyên văn:
"Ðại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Ðịnh kiên nhật xuất thanh".
Ðây là một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Ðinh dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Chữ THẬP 十, chữ BÁT 八, chữ TỬ 子 ghép lại thành chữ LÝ 李 (ám chỉ Lý Công Uẫn 李公蘊 )
Đây là cách nói ẫn ngữ, dùng phép chiết tự chữ Hán.
hungcom
06-13-2015, 07:45 AM
45.THIỀN SƯ PHÁP THUẬN (925-990)
Chùa Cổ sơn, làng Thừ, quận Ải (1). Không biết người đâu. Sư họ Ðỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.
Ðang vào lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư (2).
Năm Thiên Phúc thứ 7 (987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:
"Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời". (*)
Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:
"Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi" (**)
Giác do đó thán phục (3)
Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh"(***)
Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời.
_________________
Chú thích :
(1)
Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ sơn, và nói "nó nằm tại phía đông huyện Tam dương, cách huyện lỵ 6 dặm". Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua "tục gọi là núi Trống". Núi này cũng "ở phía đông của huyện tại xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần". Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Ðó là một có thể.
Nhưng Hồng Ðức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Ải, rồi chua thêm "có núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không hở". Khảo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ nào tên chợ Ải cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng "núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó". Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ải quận phải chăng là chợ Ải đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết khác.
(2)
Nguyên văn: Ỷ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Ðại Hành do Pháp Thuận thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn một lá thư xin cho Ðinh truyền do Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà Toàn thư B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để cho thấy một phần nào văn tài của Pháp Thuận.
Toàn thư chép: "Thần phụ mỗ huynh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo phong giới, cảm hữu bối vi, hản mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ kỳ diệt đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần, hựu lự khể tuy sơn dã khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung chi tâm, cử thánh đại diên".
Tổng hội yếu chép: "Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ, thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Liễn, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng nội tướng lại quân dân, phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi sự, Thần khẩn từ sổ tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di nghiệp, nhân phủ viễn di, đồng trụ chi hư già tuyên ngự hải chi lực tượng khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành". Những chữ x là tượng trưng cho những chữ bị thiếu trong bản chép.
(3)
Tham chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: "Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người lái đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng?
Ngửa mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng:
May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợt sứ Giao châu
Ðông đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả dòng đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.
Thuận đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: "Bài thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý ấy, ban thưởng rất hậu".
Bài thơ đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao, chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Ðường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép như:
Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
鵝鵝兩鵝鵝,
仰面向天涯。
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
(**)
白毛鋪綠水,
紅棹擺青波。
Bạch mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba.
(***)
國祚如藤絡,
南天裏太平。
無為居殿閣,
處處息刀兵。
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư đạo các
Xứ xứ tức đao binh.
hoatihon
06-13-2015, 07:47 AM
Nga nga lưỡng nga nga.
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngangaluongnganga_zpsaed03a5f.jpg
hoatihon
06-13-2015, 07:50 AM
Quốc tộ như đằng lạc
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/quoctonhudanglac_zps49e7591d.jpg
hungcom
06-13-2015, 07:53 AM
46.THIỀN SƯ MA HA {Tên cũ là Ma Ha Ma Gia}
Chùa Quan ái, làng Ðào gia, Cổ miệt, tổ tiên là giống người Chiêm thành, sau mạo tánh họ Dương. Cha tên Bối Ðà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối{Xưa gọi là Ðà Phan}(1). Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo mọi việc, học thông cả hai ngôn ngữ Hán và Phạn.
Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường vào những lúc diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: "Sao dùng cái học bên ngoài đó(2), chắc chắn không hiểu được nghĩa lý". Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Ðông lâm ngăn rằng: "Ðừng ! Ðừng !". Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.
Về sau, Sư đến chùa Cổ sơn thọ giáovới Ðỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Ðại bi tâm chú(3), trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.
Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Ðạt vân tại Trường an, ngày ngày siêng năng tu tập, đạt được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.
Hoàng đế Lê Ðại Hành(4) ba lần mời Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt đến lần thứ ba, Sư mới đáp: "Cuồng tăng ở chùa Quan ái". Vua cả giận, sai giam Sư ở chùa Vạn tuế trong Ðại nội, cho người khóa cửa canh gác. Ðến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.
Sư đi về phía Nam đến Ái châu, ở trấn Sa đảng. Phong tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại chuyên nghề sát sinh.
Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: " Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái".
Sư bảo: "Các ngươi nếu có thể bỏ ác làm lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu thế cho".
Dân làng thưa: "Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu ông chữa được bệnh này, chúng tôi sẽ theo lời khuyên".
Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.
Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: "Hoà thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời ngài dạy".
Sư bảo: "Ðã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi".
Họ Ngô mừng thưa: "Có đau thì Ngô tôi tự thay cho".
Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở hào hễn, van to: "Ông Ngô đâu chịu thay cho ta". Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.
Sư tự chấp tay niệm: "Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng(5), cứu con với". Giây lát, bèn mửa ra thịt thì biến thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh hãi.
Sư bảo: "Thân các ngươi bị bệnh, theo ta thì lành ngay. Ðến khi ta đau bụng, các ngươi không thay thế ta được. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?"Tất cả dân làng đều bái tạ xin vâng.
Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Ðô úy Nguyễn Quang Lỵ(6) thỉnh Sư trụ trì chùa Khai thiên ở phủ Thái bình. Ðược sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan châu. Sau không biết Sư mất ở đâu (Nam tôn đồ nói pháp tự của Nam dương, ấy là lầm).
[/COLOR]
_________________
Chú thích :
(1)
Bối thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ 269c18-19: Phật ngôn: "Thính nhữ tác thanh bối". So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham ârocesum: anujânâmi bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc bộ hoà ê ngũ phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka. Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh bối hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh theo lối ca hát với giọng dài của những người theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho là có tác dụng chính yếu là "làm cho mình và người khác tham trước", trong khi tác dụng của nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay Bhannaka có nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật giáo. Vậy nếu Bối Ða giữ chức Bối trong triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối nghiệp cha tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển tập anh còn chú thêm rằng, "Xưa gọi là Ðà phan". Chữ Ðà có lẽ là một khắc sai của chữ Xà. Và "Xà phan" quả là một phiên âm khá trung thực chữ Sarabhanna tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.
(2)
Tán Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.
(3)
Ðại Bi tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Ðại bi chú v.v…Ðây là bài chú rút ra từ kinh Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Ðạt Ma phiên âm trong kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni hiện nay trong ÐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài bản dịch của Già Phạm Ðạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các chùa chiền Việt nam và Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không, Trí Thông v.v…Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết nó chắc cũng thông dụng thời Lý.
(4) Hoàng đế Lê Ðại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha mới về tu tại núi Ðại vân, thì sự việc tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Ðại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào năm 1011, như Ðại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế, việc giam Ma Ha "tại chùa Vạn tuế trong Ðại nội" phải xảy ra sau năm 1011 ấy. Ngoài ra, núi Ðại vân vào thời Lê Ðại Hành là nơi Lê Ðại Hành xây dựng cung điện, như đã thấy, thì làm sao Ma Ha có thể "dời về ở núi Ðại vân tại Trường an ngày ngày siêng năng tu tập" được? Từ đó, Lê Ðại Hành chắc là một chép lộn của Lý Thái Tổ.
(5)
Nam mô Phật, Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Ðức Phật.
Nam mô Pháp, Phạn: namo dharmàya, nghĩa là kính lễ giáo pháp.
Nam mô Tăng, Phạn: namo sanghàya, tức kính lễ đoàn thể hòa hợp.
(6) Toàn thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm Thái úy. Ðây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ, chữ đô có lẽ là một cách viết sai của chữ thái.
hungcom
06-13-2015, 07:55 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI MỘT (BỐN NGƯỜI HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
47.THIỀN ÔNG ÐẠO GIẢ (902-979)
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, phủ Thiên đức(1). Người Cổ pháp(2), họ Lữ. Nhỏ học đòi việc đời, sau theo Ðinh Trưởng Lão(3) xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ mão Ðinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.
______________
Chú thích :
(1)
Tức nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc.
(2)
Tức làng Ðình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.
(3)
Ðinh trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Ðinh.
__________________________________________________ _________________________________
48.THIỀN SƯ SÙNG PHẠM (1004-1087)
Chùa Pháp vân(1), làng Cổ châu, Long biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.
Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương thành(2). Khi đã được tâm ấn, bèn dạo khắp Thiên trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm hiểu giới, định.
Về sau, Sư ở chùa Pháp vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Ðại Hành nhiều lần thỉnh Sư vào cung(3) để thưa hỏi Thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.
Năm Ðinh mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.
Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:
"Sùng Phạm ở nước Nam
Lòng vắng, đỗ đạt về(4)
Tai dài hiện tướng tốt
Pháp pháp thảy ly vy.(5)
_______________
Chú thích :
(1)
Tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Ða Lưu Chi.
(2)
Vô Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp vân.
(3)
Lê Ðại Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi thì tất không thể nào gặp Lê Ðại Hành được. Chữ Lê Ðại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái Tôn.
(4)
Bàng Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?" Tổ nói: "Ðợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước sông Tây, thì ta sẽ nói". Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ quy.(*)
Xem Bích nham lục 5 tờ 179c3-6
(5)
Ly vy là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa thế này:
"Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng phải hợp nhất với sự vật, cũng chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng ấy không hiệp nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhất hết thảy, nhưng không bị ô nhiễm. Năm sắc không thể làm nhớp năm âm không thể làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng có hằng sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy. Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu lý của đạo. (xem Bảo tạng luận tờ 146a7-15.)
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
十 方 同 聚 會
個 個 學 無 為
此 是 選 佛 場
心 空 及 第 歸
hoatihon
06-13-2015, 07:58 AM
Tâm không cập đệ quy
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamkhongcapdequy_zps646eb9d9.jpg
hungcom
06-13-2015, 08:08 AM
THẾ HỆ THỨ BẢY(BẢY NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
49.THIỀN SƯ VẠN HẠNH(?-1025)
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức, người Cổ pháp, họ Nguyễn, gia đình đời đời thờ Phật.
Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận(1), xem thường công danh.
Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Ðịnh Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa(2), lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Ðại Hành hết lòng tôn kính Sư.
Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn(3). Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp:
"Trong vòng 3, 7 ngày giặc phải lui". Sau quả nhiên như thế.
Ðến khi vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát(4), Sư tâu: "Xin mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội". Sau đánh quả nhiên thắng trận.
Thường có kẻ gian là Ðỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:
"Cây đất sinh nhau bạc với vàng(5)
Cớ sao thù địch mãi cưu mang
Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt(6)
Thật đến về sau chẳng hận lòng".(*)
Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.
Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ "Thiên tử"(7). Sét đánh vào cây bông gạo để lại dấu chữ(8). Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng(9). Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ "Quốc"(10). Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua(11) rằng:
"Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
"Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam(12)
Bốn phương gươm giáo dẹp
Tám cõi mừng bình an".(**)
Hai vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.
Ðến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)(13), Sư không bệnh, nói kệ bài:
"Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon
Tùy vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương".(14)(***)
Rồi Sư dạy đệ tử rằng: "Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ".
Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:
"Vạn Hạnh dung ba cõi
Thật hiệp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ pháp
Chống gậy trấn kinh đô"(15)
Về chuyện mộ Ðại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía mộ đều có tiếng:
Tiếng phía Đông nói:
Khánh vạn Tường nham với Quế phong
Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn
Triều tôn, Ðông liệt ba trăm thế
Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng(16) .
Tiếng phía Nam nói:
Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà
Ðời tươi trai gái lắm người ra
Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa
Tám phương gặp Nữ thường xuất vua(17).
Tiếng phía Tây nói:
Trông tây xa ngắm ngó Thiên trụ
Trai gái đời cao thượng tướng thủ
Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế
Thọ mạng quân vương chín chín đủ(18).
Tiếng phía Bắc nói:
Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ
Yên vui trai gái thường không khổ
Sống lâu Thiên đức sướng đời đời
Thế thế quân vương cầu Lục tổ(19).
Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:
Ðông có Vũ long xóm
Nam có Vũ long bờ
Tây có quán Rừng hạc
Bắc có Trấn hải hồ(20)
Chẳng lâu sau, sư lại nói:
Chỉ trong ba tháng thôi
Thân vệ lên ngôi xã tắc
Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười khẩu xuống nước đất(21)
Gặp thánh gọi Thiên đức.(****)
Sai vua cải Cổ pháp làm Thiên đức(22) ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.(23)
______________
Chú thích :
(1)
Ba học là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống của nước ta.
(2)
Tổng trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn ngữ. Kinh Ðại phẩm bát nhã viết: "Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có thể giữ hết những tam muội, nên gọi đà la ni tam muội". Luận Ðại trí độ viết: "Ðà la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn và trì đều tự nhiên mà được". Xem Ðại trí độ luận 40 tờ 398b24 và 401c27-28.
(3)
Ðại Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang". Toàn thư B1 tờ 14a1-3: "Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch Ðằng Giang".
(4)
Ðại Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: "Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v…đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm". Toàn thư B1 tờ 16a2-6: "Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt, vua nổi giận, đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi Thuế tại trận, Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm tranm người và thầy tu Ấn độ một người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm".
(5)
Nguyên văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Ðọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Ðỗ. Nguyên câu này chỉ Ðỗ Ngân. Ðỗ Ngân này là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả.
(6)
Nguyên văn: Ðương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt. Ðọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là "ta", thu với tâm là chữ sầu. Bồ Ðề Ðạt Ma tiên đoán cho Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:
Giang tra phần ngọc lãng
Quản cự khai kim toả
Ngũ khẩu tương cọng thành
Cửu thập vô bỉ ngã.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 220a.
hungcom
06-13-2015, 08:13 AM
(7)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b5-7: "Nguyên trước đó chùa Ứng thiên làng Cổ pháp sinh một con chó trắng, trên lưng mọc lông đen thành chữ "Thiên tử", đến lúc ấy vua sinh nhằm năm Giáp tuất". Toàn thư B2 tờ 1b 6-2a1: "Nguyên trước đó viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp sinh một con chó trắng có lông đen viền thành hai chữ "Thiên tử". Người biết việc nói rằng bởi đó là cái điềm của người sinh nhằm năm Tuất. Ðến lúc ấy Vua sinh nhằm năm Giáp tuất mà làm Thiên tử, nên điều ấy quả đúng". Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 nói chuyện này xảy ra tại chùa Thiên tâm.
(8)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a9-b3: "Trong làng vua ở có một cây bông gạo bị sét đánh, dấu để lại thành văn rằng:
Gốc cây nhiều công
Cơn lá xanh xanh
Hòa đao mộc rụng
Thập bát tử thành
Cung chấn trời hiện
Cung đoài sao chênh
Trong sáu bảy ngày
Thiên hạ thái bình(*****)
Vạn Hạnh bèn gọi vua bảo: "Tôi gần đây thấy sự lạ của sấm, biết nhà Lê đương mất, nha �Nguyễn đương lên. Họ Nguyễn không ai là có sự nhân từ, khoan thứ rất được lòng người như ông. Tôi tuổi 70 hơn rồi, chỉ sợ không kịp thay sự thịnh trị mà lấy làm hận".
Toàn thư , tờ 31a7-32a5: "Trước đó, cây bông gạo làng Diên uẩn, châu Cổ pháp bị sét đánh. Người trong làng thấy rõ dấu sét có văn rằng:
Gốc cây thăm thẳm
Cơn lá xanh xanh
Hoà đao mộc rụng
Thập bát tử thành
Ðông a vào đất
Cây khác tái sanh
Cung chấn trời hiện
Cung đoài sao chênh
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình.(*****)
Thầy Vạn Hạnh riêng tự mình bình rằng: "Gốc cây thăm thẳm, gốc là cái cội thì giống như vua vậy. Diểu là âm đồng với chữ yểu, nên viết chữ yểu. Một biểu thanh thanh, biểu là ngọn mà ngọn thì giống như bề tôi, còn thanh và thiên, âm chúng gần nhau, nên viết chữ thiên có nghĩa là thịnh vượng. Hòa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý. Ðông a là họ Trần. Vào đất là người phương bắc vào ăn cướp. Cây khác tái sinh là họ Lê lại sinh ra. Cung chấn trời hiện, chấn chỉ phương đông, hiện là ra, trời tức là thiên tử vậy. Cung đoài sao chênh, đoài chỉ phương tây, chênh cũng như mất đi, sao thì giống như dân thường. Cả bài trên muốn nói vua yểu, tôi thịnh, Lê rụng, Lý thành, phương đông Thiên tử ra đời, phương tây thứ dân chìm mất đi, trải khoảng sáu bảy năm thiên hạ thái bình vậy". Bèn gọi Lý Công Uẩn nói rằng: "Gần đây, tôi thấy sự lạ của phù sấm, biết họ Lý tráng thịnh thì việc dấy nghiệp là một chắc chắn vậy. Nay xem thiên hạ họ Lý rất nhiều nhưng không có ai khoan từ nhân thứ, rất được lòng người mà tay nắm binh quyền như Thân vệ. Làm tôn chủ muôn dân, mà bỏ Thân vệ thì ai sẽ cáng đáng cho. Tôi nay tuổi hơn 70, mong sao cho đừng mau chết, để thấy được sự đức hóa ra sao thì thật là sự may ngàn năm một lần vậy".
Việt sử tiêu án 1 tờ 75a-76b cũng chép sự việc và bài thơ như Toàn thư nhưng rút ngắn lời bàn của Vạn Hạnh lại thành: "Gần đây, tôi xét phù sấm, thì họ Lý đang lên, mà không có ai như Thân vệ cả". Song lại thêm một lời bàn khá dài nói: "Xét một cơn sét đánh thành văn chỉ bốn chục chữ, mà trong khoảng 1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết. Trời có nói gì đâu. Ðó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét bói, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn vào đó để tỏ ra thần dị, Lý Nhân Tôn tặng thơ nói:
Thật hiệp sấm trời xưa
Quê hương tên Cổ pháp
Chống gậy trấn kinh vua
Xem mấy câu bình văn trên cây ở trước, biện bạch rõ ràng không sai việc. Hạnh bình luận cả bài cho tới câu"Dị mộc tái sinh" thì sự biện luận đó rõ ràng không sai. Từ câu "Chấn cung…" trở xuống, lời văn hàm hồ, riêng có ý sâu huyền diệu, không chịu tỏ hết. Gần đây, có kẻ hiếu sự, riêng đem ý mình suy diễn, mê hoặc trí người, đến nỗi thứ gian phu dối toan làm việc phi phận, binh loạn không thôi. Cái hại của sấm cũng thật mãnh liệt thay".
(9)
Mộ Hiển Khánh đại vương tức mộ của cha Lý Công Uẩn. Khi lên ngôi, Uẩn truy phong cho cha mình là Hiển Khánh Vương. Xem Ðại Việt sử lược 2 tờ 2a1 và Toàn thư B1 tờ 34a6. Về những tiếng đọc tụng xung quanh mộ này, xem nguyên chú ở cuối truyện đây.
(10)
Chùa Song lâm đây tức là chùa Song lâm, làng Phù ninh phủ Thiên đức, nơi ở chính thức của Thiền ông, thầy của Vạn Hạnh.
(11)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b3 nói: "Tháng 11 nguyên niên (1009) vua lên ngôi…lấy anh vua Mỗ làm Vũ Uy Vương, em vua là Dực Thánh Vương". Toàn thư B1 tờ 34b5-6 viết: "…lấy Hoàng huynh làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc làm Vũ Ðạo Vương, con của Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con của Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản". Cương mục chính biên 2 tờ 8a4-7 chép lại Toàn thư thấy rõ Dực Thánh Vương không biết là ai, mà con cũng được phong làm Tổng quản, nên đã chua thêm là: "Thiên nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển nói Dực Thánh Vương là con thứ của Thái Tổ". Nhưng rõ ràng theo Ðại Việt sử lược thì Dực Thánh Vương là em của Lý Công Uẩn.
Cứ vào truyện Vạn Hạnh đây thì Lý Công Uẩn còn có chú và bác, và đều được phong vương. Bằng vào những dẫn chứng trên, thì chỉ Toàn thư và những sử chép theo nó mới ghi phong hiệu của người chú của Uẩn, đây là Vũ Ðạo Vương, còn trong đây thì không thấy nói. Ðoạn sử khoảng này của nhà Lý có nhiều ám muội chưa rõ.
(12)
Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý.
(13)
Cả hai bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều ghi Vạn Hạnh mất vào ngày 15 tháng 5 năm Thiên Ứng thứ 9, tức năm 1002. Nhưng đây dĩ nhiên là một khắc sai, bởi vì với một cuộc đời như vừa đọc, Vạn Hạnh tất không thể chết, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm 1010 được. Do thế, một số tác giả như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII (1932) 239 và Lược truyện các tác giả Việt Nam, nhà xuất bản Sử học, Hà nội, 1962, tr. 183) đã sửa Ứng Thiên thứ 9 thành năm Thuận Thiên thứ 9 và nói Vạn Hạnh mất vào năm 1018. Song sửa như thế là chưa chính xác cho lắm, bởi vì năm mất của Vạn Hạnh các bộ sử khác ghi rất kỹ và nó nhất định không phải năm Thuận Thiên thứ 9. Trái lại, cứ Ðại Việt sử lược 2 tờ 4a7 và Toàn thư B2 tờ 10a3-4 thì "năm Thuận Thiên thứ 16 thầy Vạn Hạnh hóa thân". Như vậy, Vạn Hạnh mất năm 1025, chứ không phải năm 1018, như từ trước tới nay thường chép. Từ đó, Ứng Thiên cửu niên là một chép sai của Thuận Thiên thập lục niên. Chữ thuận bị đoán lộn thành chữ ứng, còn chữ thập lục bị đọc rút thành cửu.
(14)
Việt sử tiêu án 1 tờ 83a7-b1, nhân ghi "thầy Vạn Hạnh chết", viết: "Vạn Hạnh không bệnh mà chết. Người bây giờ gọi đó là hóa thân. Vạn Hạnh thường có thơ.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Tùy vận thạnh suy hưu bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Vua thân hành đến điếu viếng, lập đàn siêu độ". (Những chữ in đậm là khác với bản ở đây).
(15)
Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a4-5 và Việt sử tiêu án 1 tờ 76b2-3 chép nguyên bài thơ. Tam tế, mà đây dịch là "ba cõi", tức chỉ cho quá khứ, hiện tại và vị lai. Xem Kiến văn tiểu lục 9 tờ 12a6-7 về chữ Tam tế. Vạn Hạnh dung tam tế, có nghĩa Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, thời hiện tại và thời vị lai.
(16)
Nguyên văn:
"Khánh vạn tường nham dự Quế Phong
Dương trường long thế dực tương tùng
Ðông liệt triều tôn thế tam bách
Lục tuất (thiếu hai chữ) đối thiên bồng".
Khánh vạn, Tường nham và Quế phong, chúng tôi nghi là ba tên đất. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Khánh duệ thuộc huyện Tiên du, quê hương của Nguyễn Ðán, tiến sĩ khoa 1580. Khánh vạn từ đó rất có thể là Khánh duệ đấy, nhưng chúng tôi chưa có bằng chứng gì đích xác. Còn Tường nham và Quế phong thì chưa thể khảo được. Ðông liệt và Triều tôn, chúng tôi cũng nghĩ là những tên đất, song chưa tìm thấy tài liệu chứng thực. Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Ðăng Thục, quê Bắc ninh, bảo tỉnh Bắc ninh hiện có làng tên Ðông liệt. Với những tên đất như thế, thì rõ ràng đây là một bài thơ nói về mạch đất của các nhà địa lý thời xưa với những từ địa lý rõ rệt như dương trường (chúng tôi nghi chữ dương, đúng ra phải đọc là ngưu) long thể. Thực thể, nếu câu thứ hai đọc "Ngưu trường long thể dực tương tùng", thì ý nghĩa địa lý của bài thơ trên khá phù hợp với quẻ tả huyệt thứ 6 trong Tả Ao chân truyền địa lý tờ 7b:
Ðiều điều phát tổ khỉ căn nguyên
Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền.
Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu
Bàn vu cục thế tợ ngưu niên
Ðương khai nội ngoại giai kỳ huyệt
Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên
Xa xa phát tổ nỗi căn nguyên
Uyển chuyển quanh co mạch khúc huyền
Hữu kiên đến trái mà rẽ phải
Nằm vào thế cục trâu lim dim
Trong ngoài nên mở đều huyệt thiệt
Núi soi sao lắm phước liên miên.
Qua bài thơ này, ta có thể thấy bài thơ trên là một thứ bói quẻ đất. Việt sử tiêu án 1 tờ 128b1, trong khi bình luận về việc nhà Lý mất ngôi,có dẫn viết: "Lại Cổ pháp địa quyết chép: Ngôi truyền tám lá, lá rụng âm sinh. Thì sự hưng vong cũng có do đất". Như thế, cái gọi là Cổ pháp địa quyết đấy phải chăng gồm những bài thơ loại thơ mộ Hiển Khánh đại vương ở truyện Vạn Hạnh đây? Phải chăng Cổ pháp địa quyết là một tác phẩm của Vạn Hạnh? Và bốn bài thơ ở mộ Hiển Khánh đại vương đây là rút ra từ nó? Chúng tôi nghĩ đấy là những có thể. Ðiều chắc chắn là bài thơ trên cùng với ba bài thơ tiếp theo là những bài địa quyết do Vạn Hạnh sáng tác.
hungcom
06-13-2015, 08:18 AM
(17)
Nguyên văn:
Chính Nam phù ninh hộ trạch thần
Vinh thế nam nữ đa xuất nhân
Thiên đức phú quý mãn ốc thành
Bát vạn hội nữ thường xuất quân.
Phù ninh như đã thấy là một tên làng. Truyện Thường Chiếu tờ 37b7 nói Chiếu "người làng Phù ninh". Rồi đến truyện của La Quý tờ 48a7 và truyện Thiền Ông tờ 51a8 thì chúng xác định rõ ràng là làng Phù ninh đấy là "làng Phù ninh, phủ Thiên đức". Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục cũng ghi một làng tên Phù ninh thuộc hạt Ðông ngạn là quê hương hay trú quán của một số người đậu trạng tiến sĩ dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Ðào Quốc Hiển khoa 1691 v.v…Ngày nay, tỉnh Bắc ninh hiện đang có một làng mang tên Phù ninh và ở đúng chính phía nam của làng Ðình bảng, tức đất Cổ pháp xưa. Vĩnh thế, chúng tôi nghi cũng là một tên làng. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Vĩnh thế thuộc hạt Siêu loại, quê hương của Nguyễn văn Hiển tiến sĩ khoa 1502, Nguyễn Bỉnh Khuê tiến sĩ khoa 1526, Nguyễn Ðịch Khanh khoa 1532, Nguyễn Thừa Hựu khoa 1535, Nguyễn Ðình khoa1580 v.v…Vĩnh thế, nghi là Vinh thế đổi ra, nhưng chúng tôi hiện chưa có bằng chứng gì rõ rệt. Làng này rất có thể là quê hương của Ðào Cam Mộc hay một trong những khai quốc công thần của triều Lý Thế Tổ. Thiên đức trong câu thứ ba và Bát vạn trong câu thứ 4 thì cả bản in đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết là Ðại đức và Bát phương. Chúng tôi sửa Ðại đức thành Thiên đức, không những bởi vì hai bài thơ tiếp theo đến câu thứ 3 thì bắt đầu bằng chữ Thiên đức, mà còn vì sau đó vài dòng thì có câu "đổi Cổ pháp là Ðại đức", nhưng ai cũng biết rằng Lý Công Uẩn đổi Cổ pháp làm Thiên đức, chứ không phải Ðại đức. Ðại đức trong câu ấy và Ðại đức trong bài thơ trên do thế là những chép sai của Thiên đức như vậy rõ ràng là một tên đất, và nó cũng rõ ràng "phú quý mãn ốc thành", như bài thơ nói, với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn. Và chữ bát vạn, mà những bản in đời Lê và đời Nguyễn đều viết là Bát phương, chúng tôi sửa chữ phương thành chữ vạn, không những vì chữ vạn viết tắt rất dễ biến thành chữ phương, nếu người ta bất cẩn thêm trên đầu nó một chấm, mà còn vì tại huyện Siêu loại trước đây, tức huyện Thuận thành ngày nay, có núi tên Bát vạn. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Bát vạn ở phía Ðông nam huyện Tiên du hai dặm, tương truyền Cao Biền đời Ðường dựng tháp Bát vạn, để yểm nó nên có tên đó". Chúng tôi hiện chưa biết có phải Lê Thánh Tôn đi cầu tự tại núi Bát vạn này, mà gặp Ỷ Lan trên đường đi không" Nhưng với văn ý của câu thứ 4 thì đó là một có thể. Dẫ�u sao chăng nữa, chúng tôi nghĩ chữ bát vạn hợp nghĩa hơn chữ bát phương.
(18)
Nguyên văn:
Tây vọng viễn vọng khán Thiên Trụ
Dao thế nam nữ thượng tướng thủ
Thiên đức phú quý dự viễn thế
Quân vương thọ mạng cửu thập cửu.
Thiên trụ là một từ của khoa địa lý bói huyệt đất. Sự liên hệ của Thiên trụ với việc sống lâu, mà bài thơ đây nói đến, Thiên địa tạo sơn thủy phú trong Tả Ao chân truyện địa lý tờ 27a10-b1 nói:
"Càn sơn cao như Thiên trụ, thọ tỷ Thương nham
Tốn thủy tụ tợ uyên minh, lộc hữu đỉnh nãi.
(Núi càn cao như Thiên Trụ, sống lâu như núi Thương
Sông Tốn họp tợ uyên minh, lộc vua có đỉnh chung)
(19)
Nguyên văn:
Chính bắc Phù cầm đương bạch hổ
An lạc nam nữ thường vô khổ
Ðại đại Thiên đức trường thọ lạc
Thế thế quân vương kỳ Lục tổ.
Phù cầm là một tên làng, mà chính Thiền uyển tập anh xác nhận trong truyện Minh Trí và truyện Nguyện Học, khi nó bảo cả hai người này đều quê quán làng Phù cầm. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tân lương, cũng có ghi một bến đò tên Phù cầm trong 17 bến đò của sông Nguyệt Ðức, nằm giữa hai bến đò Phù yên và Ðấu hàn. Ðấu hàn là quê quán của Ðỗ An Vĩnh tiến sĩ 1499 và Phù yên là quê quán của Lê Doãn Chấp tiến sĩ 1505, như Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục đã ghi lại. Và cả hai làng đó đều thuộc hạt Yên phong" nghĩa là thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đấy.
Còn chữ Bạch hổ nó có thể là tên riêng chỉ một cây cầu hay bến đò hay ngọn núi nào đấy. Nhưng nó cũng có thể là một từ thuần túy địa lý bói huyệt. Về trường hợp trước, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một địa danh Bạch hổ nào xung quanh Phù cầm, nên không thể trả lời được. Về trường hợp sau, thì trong cách bói huyệt thứ 13, Tả Ao chân truyền địa lý tờ 14b2-4 có viết:
Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên
Sơn cao huyền vũ thủy chi huyền
Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội
Thử địa vinh hoa phú quý tuyền.
Rồi nó chú tiếp thế này "Mạch bắt đầu từ cung Rồng, rồi chuyển đến cung phải lại đến cung trái mới vào huyệt. Cung rồng là án chầu phía trước. Cát bạch hổ trùng điệp, núi Huyền Vũ dốc cao, sông Minh đường nước đọng, nếu soi sáng vào trong huyệt thì con gái sinh nhiều phú quý. Ðây là một quý cách". Nếu hiểu từ "bạch hổ" theo lối đây, thì dĩ nhiên mặt đất của Phù cầm có những ngôi mộ làm sinh ra những người con gái có nhiều phú quí. Nếu vậy, phải chăng mẹ của Lý Công Uẩn là người Phù cầm? Sử không ghi rõ nên ta không biết được.
Cuối cùng, về chữ Lục tổ, đấy là đọc theo bản đời Lê, còn bản đời Nguyễn viết thành Ðại tổ. Nó hiển nhiên nhằm chỉ chùa Lục tổ, nơi Vạn Hạnh sống và dạy dỗ Lý Công Uẩn, và là nơi Uẩn trưởng thành.
(20)
Bốn câu thơ này để xác định ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương. Nhưng vị trí nó ngày nay ta chưa thể khảo được, bởi vì những tên đất đến tên ao như: Vũ long, Hạc lâm, và Trấ�n hải, ta hiện chưa phát ra vị trí của chúng. Riêng về Hạc lâm, nó có thể là chùa Hạc lâm của Pháp Thông, người đã cùng Huệ Sinh thờ Ðịnh Huệ làm thầy, như truyện Huệ Sinh tờ 57b11 đã ghi.
(21)
Nguyên văn: Thập khẩu thủy thổ khứ. Ðây là nhắc lại việc Ðịnh Không làm chùa Quỳnh lâm tại làng Ðình bảng, đào gặp 10 cái khánh, mà khi đem đi rửa chìm mất một cái xuống sông. Từ đó Không đề nghị đổi làng mình thành làng Cổ pháp. Chữ cổ là do chữ thập và khẩu ghép lại, mà hai chữ đó có nghĩa "mười cái". Chữ Pháp là do chữ thủy và chữ khứ ghép lại, và chúng có nghĩa "chìm xuống nước". Xem truyện Ðịnh Không ở trên.
(22)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 3a3 viết: "Năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) cải Cổ pháp làm phủ Thiên đức". Việt sử tiêu án 1 tờ 79b8 và Cương mục chính biên 2 tờ 11a1 cũng chép vậy.
(23)
Quốc sử chắc chỉ Ðại Việt sử ký của Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Ðại Việt sử lược và Toàn thư hiện tại chỉ ghi lại trong hai ba việc, mà tác giả Thiền uyển tập anh giả thuyết Quốc sử phải ghi đủ, đấy là chuyện chó chùa Thiên ứng tâm có lông thành chữ "Thiên tử" và chuyện sét đánh thành văn thôi. Còn chuyện sâu ăn cây đa chùa Song lâm thì bây giờ không thấy cuốn sử nào ghi tới. Nó chắc đã bị các tác giả sau Lê Văn Hưu tước bỏ.
-----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
土木相生艮畔金,
為何謀我蘊靈襟。
當時五口秋心絕,
直至未來不恨心。
Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm (kim),
Vị hà mưu ngã uẩn linh khâm?
Đương thì ngũ khẩu thu tâm tuyệt,
Trực chí vị lai bất hận tâm.
("Kim cấn" liền đôi như "thổ mộc",
Cớ sao toan chước hại nhau ngầm?
Thoạt nghe, bụng tớ "rầu" khôn xiết,
Nhưng thực về sau chẳng bận tâm.)
Chữ NGŨ 五 và chữ KHẨU 口 ghép thành chữ NGÔ 吾(Ta, tớ, tôi)
Chữ THU 秋 với chữ TÂM 心 ghép thành chữ SẦU 愁(buồn rầu)
(**)
蒺藜沉北水,
李子樹南天。
四方戈杆靜,
八表賀平安。
Tật lê trầm Bắc thuỷ,
Lý tử thụ Nam thiên.
Tứ phương qua can tĩnh,
Bát biểu hạ bình yên.
_ Tật lê là một loại cây có hoa vàng dùng trong Đông Y. Ở đây ám chỉ nhà Lê suy vong.
_ Lý tử là cây mận. Ở đây ám chỉ nhà Lý sẽ nối tiếp mệnh Trời lên làm vua nước Nam.
(***)
身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯。
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪。
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(****)
蓋三月之內,
親衛登住社稷。
落茶印國字,
十口水土去,
遇聖號天德。
Cái tam nguyệt chi nội,
Thân vệ đăng trụ xã tắc.
Lạc trà ấn quốc tự,
Thập khẩu thuỷ thổ khứ,
Ngộ thánh hiệu Thiên Đức.
Trong vòng ba tháng nữa,
Thân vệ lên nối ngôi.
Cây đa in chữ "quốc",
Đất Cổ Pháp này thôi,
Gặp thánh hiệu Thiên Đức.
(*****)
Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
hoatihon
06-13-2015, 08:20 AM
Thân như điện ảnh
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Thannhudienanh_zps691c6def.jpg
hungcom
06-14-2015, 08:09 AM
50.THIỀN SƯ ÐỊNH HUỆ
Chùa Quang hưng, làng An trinh, phủ Thiên đức, người Cảm điền, Phong châu, họ Khúc. Ban đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn.
Ðến khi tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.{Cứ Nam tôn tự pháp đồ thì nói là pháp tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay theo y bản truyện}.
__________________________________________________ _________________
51.THIỀN SƯ ÐẠO HẠNH (? – 1117)
Chùa Thiên phúc, núi Phật tích, họ Từ, tên Lộ, cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô án, thường đi học tại làng An lãng, lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ, sư là con nàng Tăng Thị vậy.
Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Ðêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.
Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.
Từ đấy ông cụ không lo nữa.
Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên(1). Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu(2). Hầu nhờ pháp sư Ðại Ðiên(3) dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô lịch(4). Xác trôi đến cầu Quyết(5) là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Ðại Ðiên. Ðại Ðiên đến nơi, đọc một câu kệ: " Tăng giận không cách đêm". Ðọc xong, xác đáp lại trôi đi.
Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Ðiên đi khỏi nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: "Ðừng, đừng! Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Ðại Ðiên. Ði đến xứ Mọi răng vàng(6), đường xá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Ðại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: "Ðệ tử là Tứ trấn Thiên vương(7), cảm công đức trì xứ của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo". Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây dương (8) dừng lại. Sư mừng nói: "Pháp ta thắng rồi". Bèn đến thẳng chỗ Ðại Ðiên. Ðiên thấy nói:
"Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?".
Sư ngửa mặt lên nhìn trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Ðại Ðiên phát bệnh chết.
Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình(9), Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:
"Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện
Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm".(*)
Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:
"Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong tỏ rõ ý thiền nao
Bồ-đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới còn xa mấy vạn sào".(**)
Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp vân hỏi: "Thế nào là chân tâm?".
Phạm hỏi lại: "Cái gì chẳng phải là chân tâm?".
Sư tỉnh ngộ, nói: "Làm thế nào bảo đảm?".
Phạm đáp: "Ðói ăn, khát uống".(10)
Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đấy pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm(11).
Có vị Tăng hỏi: "Ði, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?".
Sư dạy bài kệ:
"Tạo có, mảy may có
Làm không, tất cả không ,
Có không như trăng nước,
Chớ vướng có không không".(***)
Lại bảo:
"Trời trăng đỉnh núi cao
Người người mất hết châu
Kẻ giàu có ngựa tốt
Ði bộ chẳng cỡi câu".(****)
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh hóa dâng sớ tâu rằng: "Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết".
Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được, và nói: "Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập". Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.
Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: "Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối chánh pháp sao!".
Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: "Ðầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào".
Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng thánh, hợp quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: "Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn".
Hầu nhận lời. Ðến lúc hội nghị, quần thần đều nói: "Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liễu lĩnh dám làm chú giải, kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ".
Hầu chậm rãi thưa: "Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh’.
Vua xá tội(12).
Sư đến Nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư lén nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: "khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết".(13)
Ðến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: :Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương(14). Ðến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam. (15). Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa".
Ðồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng:
"Thu sang không báo nhạn về đây
Cười nhạt người đời thương xót thay
Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay".(*****)
Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.(16) (17) (18)
_____________
Chú thích :
(1)
Truyện Từ Ðạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn toàn giống truyện Từ Ðạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", nó lại thêm 7 chữ "Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh", trước khi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Truyện Ðạo Hạnh ở đây, sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", lại bỏ trống một đoạn đúng chỗ cho 7 chữ, rồi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Chúng tôi nghĩ rằng khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ hiện còn chép trong Lĩnh nam trích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh năm 1715 đã bị rách hay mọt ăn mất, nên người hiệu đính cho bản in đây đã để trống đúng 7 chỗ cho những chữ mất đó. Ðây là một ưu điểm lớn của bản in năm 1715 giữa những ưu điểm khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng trống nào cả, nên dù có bản của Lĩnh nam trích quái chăng nữa, ta cũng không thể nào nhận ra khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ trên vào chỗ trống ở tờ 53b10 của Thiền uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng…" và câu "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu" ở trước và sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu ấy bây giờ đọc: "Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ phụ Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu", mà ta có thể dịch thành: "Sau đó Sư ứng thi điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên. Chẳng bao lâu, cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu…"
Khoa Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng tôi hiện chưa thể khảo được.
(2)
Diên thành hầu (? – 1117) là con của Lý Thánh Tôn và em của Nhân Tôn. Tính tình của vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Ðại Việt sử lược 2 tờ 20a3 ghi lại một chứng sau: "Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày mồng một. Diên Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên an". Trung Nghĩa Hầu (? – 1117) cũng là con của Thánh Tôn và chắc là em của Diên Thành, và điện Thiên an là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan văn võ, Diên Thành đã lấy hốt đánh Trung Nghĩa.
hungcom
06-14-2015, 08:12 AM
(3)
Tức Nguyễn Ðại Ðiên, mà truyện Thần Nghi tờ 40a11 nói tới như đại biểu cho một Thiền phái thứ 4 của thời Lý. Cứ vào truyện Ðạo Hạnh ở đây, ta có thể đoán Ðại Ðiên bị Ðạo Hạnh đánh chết vào khoảng năm 1110 bởi vì cuối truyện có chua câu: "Giác Hoàng, hoặc có người nói là Ðại Ðiên ấy vậy". Mà Giác Hoàng theo Ðại Việt sử lược 2 tờ 21a4, thì vào năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 (1112) là đã 3 tuổi rồi. Vậy Hoàng phải sinh năm 1110. Bấy giờ, nếu bảo Giác Hoàng là Ðại Ðiên thì đương nhiên Ðiên phải chết vào năm Hoàng sinh, tức năm 1110 ấy, mới đầu thai thành Hoàng được, tối thiểu là bằng vào sự tin tưởng huyền thuật đương thời. Cho nên, việc liên hệ Ðại Ðiên với sự sinh của Giác Hoàng phải giả thiết rằng Ðiên chết vào năm Hoàng sinh.
Về nguyên quán của Ðiên, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi một vị sư tên Nguyễn Ðạo Hạnh và nói: "Sư người huyện Tiên phong là miêu duệ của Thiền sư Thái Ðiên, bình sanh cùng sư Nguyễn Minh Không và Từ Ðạo Hạnh làm bạn, học thuật tu luyện, sau hóa thân ở xã Chiêu nhân thổ nhân bèn lập đền thờ". Thái Ðiên đây, chúng tôi nghi cũng là Ðại Ðiên, bởi vì Việt sử tiêu án 1 tờ 108b9 dẫn Ngoại truyện nói: "Cha Ðạo Hạnh là Từ Vinh vì pháp thuật bị sư Thái Ðiên đánh giết". Như vậy quê hương của Ðại Ðiên là vùng đất huyện Tiên phong, tức huyện Quảng oai, tỉnh Sơn tây bây giờ. Kiến văn tiểu lục 9 tờ 16a1 17a2 viết rất là dài về cuộc đời nhà sư Nguyễn Ðạo Hạnh đây và nói: "Ông người xã Vịnh phệ, huyện Tiên phong". Nếu vậy Ðiên là người xã Vịnh phệ.
Cuối cùng, về ngôi chùa trú trì của Ðiên, Bắc thành địa dư chí lục 1 nhân viết về chùa Yên lãng dẫn trước nói "Ðạo Hạnh có thù với Thiền sư Ðại Ðiên xã Dịch vọng". Như thế, vào thế kỷ thứ 19 người ta coi Ðiên sống ở xã Dịch vọng. Làng Dịch vọng này, Toàn thư B3 tờ 3a3-8 nói là nơi có chùa Thánh chúa. Ở đây đã có vị sư dạy Nguyễn Bông cái thuật đầu thai thành Lý Nhân Tôn. Dã sử về thần tích của Ỷ Lan nói rõ ra vị sư chùa Thánh chúa, đấy không ai khác hơn là Ðại Ðiên. Từ đó, ngôi chùa Ðại Ðiên ở chắc không chùa nào khác hơn là Thánh chúa, làng Dịch vọng, huyện Từ liêm ngày trước, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Sự việc Nguyễn Bông xảy ra vào năm 1063. Thế thì, Ðiên sống tại chùa đấy vào khoảng từ năm đó.
(4)
Bắc thành địa dư chí lục 1 viết: "Sông Tô lịch ở phía đông của thành (Hà nội) phân lưu từ sông Nhị, theo thành từ phía Bắc mà chảy qua phía tây gặp sông Hà liễu và sông Nhuệ, hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa đông và xuân thì khô cạn, mùa thu và hạ thì thuyền đi được…Quốc sử của Ngô Sĩ Liên nói: "Sông này hễ khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược. Họ Ngô nói: "Sông Tô lịch chảy đi ra từ sông Nhị bắt đầu từ phường Hà khẩu chảy qua Tây hồ, Thụy Chương, Yên hoa và Yên quyết thì cạn thuyền đi không được, vì dân ở hai bên sông cứ để ngói đá lấp đầy, khi mưa to nước ứ lại không chảy được, nên phải chảy ngược lại thì không có gì là lạ".
(5)
An nam chí lược 1 tờ 24 viết: "Sông Tô lịch chảy quanh La thành. Sông có năm cầu đều rất đẹp". Nhưng nó không cho biết năm cầu đó. Ta ngày nay có thể truy nhận tối thiểu tên của ba cầu, đấy là cầu Tây dương, cầu Yên quyết và cầu Nhân mục. Toàn thư B10 tờ 21b 2-5 trong khi mô tả diễn tiến của chiến dịch Tốt động, Chúc động, đã viết về những hướng xuất quân của Vương Thông từ thành Ðông quan như sau: "Ngày mồng 6, Vương Thông v.v.…của nhà Minh đem lính cũ lính mới 10 vạn người phân làm ba đạo quân đánh ta. Vương Thông do ngã Khâu ôn qua cầu tây dương đến đóng ở bến Cổ sở, dựng cầu nổi cho quân đi. Phương Chính xuất quân từ cầu Yên Quyết, đóng ở cầu Sa đôi. Sơn Thọ và Mã Kỳ đi ra từ cầu Nhân mục, đóng ở cầu Thanh oai. Chúng dựng doanh trại vài chục dặm, cờ xí rợp đồng, giáp trượng sáng trời, tự bảo rằng chúng chỉ một lần đánh là bắt hết nghĩa quân".
Cầu Nhân mục, tên nôm gọi là cống Mọc, ngày nay thuộc làng Nhân chính, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông, và vết tích của nó hiện còn là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại làng đấy.
Còn cầu Yên Quyết, tên nôm nó gọi là cống Cót, ngày nay là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại địa phận làng Yên quyết huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông. Vì cầu Yên quyết có tên nôm là cống Cót, cho nên chữ Quyết kiều ở đây đúng ra phải dịch là cống Cót, nhưng vì không chắc chữ Cót phát âm như thế nào vào thời Lý, nên chúng tôi vẫn để nguyên và dịch là: "cầu Quyết". Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr.499 vì chấm câu lộn, nên đã đọc thành cầu Vu quyết. Về cầu Tây dương thì cứ trên đường hành quân của Vương Thông, nó phải là cầu Giấy, bởi vì để đi từ Ðông quan tới Cổ sở, người ta phải đi qua cầu Giấy ở sông Tô lịch, rồi qua cầu Diễn hay Phù diễn ở sông Nhuệ thì tới bến Cổ sở trên sông Ðáy thuộc làng Yên sở ngày nay. Như vậy, cầu Tây dương không gì khác hơn là cầu Thượng yên quyết, mà Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hànội, mục Tân lương, nói là "tục gọi cầu Giấy, cầu dài ba trượng, có lợp ngói ở về huyện Từ liêm".
(6)
Mọi răng vàng hay Kim xỉ man là tên một dân tộc ít người, vào thời Ðường thì đang còn ở phần đất thuộc Vương quốc Pyu, nhưng đến đời Nguyễn và cho tới nay thì phần đất ấy thuộc tỉnh Vân nam của Trung Quốc. Xem Nguyên sử 16 tờ 8a4.
Gọi là mọi răng vàng dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, "khi ăn thì lấy ra". Họ có nhiều giống, mà Tân đường thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra như giống Tú cước, giống Tú diện, giống Ðiêu đề, giống Xuyên tỷ. An nam chí lược 1 tờ 19 nói: "Ðà Giang Lộ tiếp giáp với Kim xỉ". Kim xỉ đây đương nhiên là Kim xỉ man. Và nếu như vậy, thì Ðạo Hạnh vừa mới vượt khỏi biên giới nước ta thôi.
(7)
Tức Tứ Thiên Vương, đấy là Trì Quốc ở phía đông, Tăng Trưởng ở phía nam, Quảng mục ở phía tây, và Tỳ Sa Môn ở phía bắc của tầng thứ tư núi Tu di, quản thủ bọn Dạ xoa và La sát. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ thế giới, theo vũ trụ quan thần thoại của một số trường phái Phật giáo.
(8)
Chú thích (7) trên cứ vào đường hành quân của Vương Thông do Toàn thư ghi lại, đã đồng nhất cầu Tây dương với cầu Giấy. Mà cầu Giấy theo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tân lương là tên nôm của cầu Thượng yên quyết. Làng Yên quyết thực ra có hai, đấy là làng Thượng yên quyết và Hạ yên quyết. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ hai làng đó như Ðặng Công Toản khoa 1520, Nguyễn Sằn khoa 1554, Nguyễn Dụng Ngãi khoa 1574, của làng Thượng yên quyết, Hoàng Quản Chí khoa 1393, Nguyễn Như Uyên khoa 1409, Nguyễn Khiêm Quang khoa 1523, Nguyễn Nhật Tráng khoa 1595, Nguyễn Dụng Triêm khoa 1602 v.v… của làng Hạ yên quyết. Vậy thì, cầu Quyết hay cầu Yên quyết của truyện đây là cầu Hạ yên quyết, còn cầu Tây dương hay cầu Giấy là cầu Thượng yên quyết. Bến Quyết cũng ở làng Hạ yên quyết. Xác định như thế, bây giờ nó trở thành rõ ràng là Ðại Ðiên trụ trì chùa Thánh chúa làng Dịch vọng ở sát làng Thượng yên quyết, thì khi đánh chết Từ Vinh, xác Vinh tất ném xuống sông Tô lịch từ khoảng cầu Tây dương, trôi xuôi cho đến cống Cót, nơi có nhà Diên Thành Hầu rồi dừng lại. Tới khi Ðạo Hạnh ném gậy mình từ bến Cót, nếu trôi ngược nó tất nhiên phải lên đến cầu tây dương hay cầu Thượng yên quyết, chứ không thể cầu nào khác.
Cầu Tây dương gọi là cầu Giấy tối thiểu bắt đầu từ thời Lý, bởi vì gần cầu đó có xóm chuyên chế tạo giấy, tên là xóm Chỉ tác hay xóm làm Giấy.
(9)
Thái bình đây chắc là phủ Thái bình, nơi có chùa Khai thiên do Nguyễn Quang Lỵ dựng, và Ma Ha trụ trì. Xem chú thích (10) truyện Ma Ha. Tuy nhiên, trong vùng Hưng yên, đất của phủ Thái Bình cũ, không thấy có làng nào thờ Ðạo Hạnh cả. Trái lại, theo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định mới có một số làng thờ Ðạo Hạnh thuộc huyện Nam chân như làng Chân nguyên, làng Vân chàng, làng Kinh lủng…rồi nó viết tiếp: "Hạnh thuở nhỏ ưa đi chơi đến xã Chân nguyên, dựng chùa Ðại bi, ở đấy trú trì, sau dân làng tôn làm Tổ sư. Thế thì, vùng Thái bình do Kiều Trí Huyền giáo hóa phải chăng nằm tại đất tỉnh Nam định? Ðây là một có thể. Về Kiều Trí Huyền, nay ta không biết gì hết về tông tích tôn phái của ông.
(10)
Cơ xan khát ẩm, cách ngữ của Thiền gia chỉ đạo lý thiền không ở đâu xa, mà ở ngay trong chính những công tác thường nhật nhất. Sư Nguyên Tân đến hỏi Thiền sư Ðại Châu Huệ Hải: "Hòa thượng tu đạo có dụng công không?". Hải đáp: "Dụng công". Hỏi "Dụng công ra sao?". Ðáp: "đói đến thì ăn cơm mệt lại thì đi ngủ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c 1-3.
(11)
An nam chí nguyên tờ 209 dẫn ý chính của đoạn này về Ðạo Hạnh: "Thiền sư Ðạo Hạnh là vị sư huyện Thạch thất, thường đi khắp tòng lâm tìm tòi bậc trí thức, khi duyên đạo đã chín, pháp lực có thêm, Sư có thể sai sử chim rừng thú nội họp nhau đến chịu phục. Sư cầu mưa trị bệnh, không gì là không ứng nghiệm, nay xác thịt đang còn".
Việc sử dụng những ngữ cú và văn ý đồng nhất với Thiền uyển tập anh như đây chứng tỏ tác giả An nam chí nguyên hay tác giả một cuốn sách khác mà ông vẫn phải sử dụng Thiền uyển tập anh. Do vậy, trước bản in năm 1715, Thiền uyển tập anh phải có in một lần nào đó. Chính qua bản in hay tối thiểu bản chép trước năm 1715 mà An nam chí nguyên hay một cuốn sách trước nó đã rút những dẫn trên về Ðạo Hạnh.
hungcom
06-14-2015, 08:14 AM
(12)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 21 a4-b5: "Hội Tường Ðại Khánh năm thứ 3 tháng 2 người Thanh hóa nói rằng: "ở Hải tân có một đứa bé lạ lùng, tuổi mới lên ba, mà hiểu được tiếng nói, tự xưng là đích tử của Hoàng đế, gọi mình là Giác Hoàng, hễ vua cử động thì không gì là nó không biết trước. Vua sai Trung sứ đến hỏi xem thì những gì người ta nói đều đúng cả, bèn rước về ở tại chùa Báo thiên. Vì sự linh dị của nó, vua thương yêu nó càng nhiều. Bấy giờ, vua không có người nối dõi, muốn lập nó làm Thái tử, quần thần không chịu, mới thôi. Bèn liền lập trai hội ở trong cung cấm, muốn khiến Giác Hoàng đầu thai vào làm con mình.
Có nhà sư núi Phật tích là Từ Lộ Ðạo Hạnh nghe việc ấy mà không vui bèn sai người chị mình là Từ Thị đến phó hội, lén lấy vài hạt châu có kết ấn rồi trao cho, bảo: "Ðến chỗ hội thì hãy nhét vào đầu mái diềm, đừng để cho ai thấy biết". Từ Thị làm theo lời dặn của sư. Giác Hoàng bỗng chốc mắc bệnh sốt trẻ con, bèn nói với người ta rằng: "Tôi thấy khắp cả nước đều có lưới sắt bao phủ, không có ngõ nào mà thác sinh vào cung được". Vua ra lệnh mở một cuộc lùng soát lớn thì bắt được những hạt châu do Từ Thị giấu, bèn bắt Lộ trói ở làng Hưng thánh, muốn đặt vào tội xử tử. Gặp khi Sùng Hiền Hầu vào chầu, Lộ gào khóc thảm thiết nói rằng: "Xin Hầu ra tay cứu vớt bần tăng nếu may mà được thoát chết thì sẽ vào làm con của Hầu để đáp lại ân đức". Hầu bằng lòng, nên khi vào gặp vua, Hầu mưu cứu bằng trăm lối, nói rằng: "Giác Hoàng nếu thật có thần lực mà lại bị Lộ thư giải thì rõ ràng Lộ hơn Giác Hoàng vậy. Thần nghĩ không gì hơn là cho Lộ thác sanh vậy". Vua bèn xá tội Lộ Toàn thư không ghi chuyện này.
(13)
Toàn thư B3 tờ 16a2-6: "(Hội Tường Ðại Khánh) năm thứ ba, bây giờ tuổi vua đã cao, mà không có con nối dõi, xuống chiếu chọn con tôn thất vào làm nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con nối dõi. Gặp lúc nhà sư núi Thạch thất là Từ Ðạo Hạnh đến nhà Hầu để cùng nói chuyện cầu tự, Ðạo Hạnh nói: "Ngày kia khi phu nhân lâm bồn thì nên trước báo cho biết, bởi vì tôi đã vì Ngài đến cầu xin ở thần núi rồi". Ba năm sau, phu nhân nhân thế mà có thai, sinh ra con trai Dương Hoán".
(14)
Toàn thư B3 tờ16b6-17a4: "(Hội Tường Ðại Khánh) năm thứ bảy, mùa hạ tháng sáu, thầy Từ Ðạo Hạnh thi giải ở chùa núi Thạch thất…Trước đó, phu nhân của Sùng Hiền Hầu là Ðỗ thị có thai. Ðến lúc đó, khó sanh, Hầu nhớ lại lời nói ngày trứơc của Ðạo Hạnh, sai người chạy đến báo. Ðạo Hạnh tức khắc tắm rửa thay áo, vào trong hang thi giải mà mất. Phu nhân liền sanh được người con trai, tức là Dương Hoán vậy. Người làng cho là truyện lạ, đem thi bỏ vào trong khám mà thờ. Núi Phật tích ngày nay tức là chỗ của nó vậy. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 mùa xuân, sĩ nữ tụ hội lại ở chùa, làm nó trở nên một nơi du ngoạn nổi tiếng. Người sau ngoa truyền đó là ngày kỵ của Thầy". Ðại Việt sử lược 2 tờ 22a5: ("Hội Tường Ðại Khánh thứ 7) mùa hạ tháng 6 thầy Ðạo Hạnh hóa thân – Thần Tôn sinh ra".
(15)
Tam thập tam thiên (Phạn: Trayastrimsà), một tên gọi khác của cõi trời Ðao lợi hay Ðâu suất đà (Phạn: Tusita), nơi ngự trị của Ðế Thích theo huyền thoại Phật giáo. Xem Trường a hàm 20 và Câu xá luận 11 .
(16)
Toàn thư B3 tờ 17a4-5: "Xác của Sư đến khoảng năm Vĩnh Lạc đời Minh mới bị người Minh đốt. Người làng đúc lại tượng của Sư mà thờ như xưa, nay còn". Thì rõ ràng, xác của Ðạo Hạnh đang còn vào thời Trần, khi tác giả Thiền uyển tập anh viết tác phẩm của mình. An nam chí lược 15 tờ 147-148 cũng nói: "Sư nhục thân kim thượng tồn". An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: "Kim chân hình thượng tồn".
(17)
Nguyên văn: "Án Quốc sử, Hội Tường Ðại Khánh bát niên, (nhân) Sùng hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Kỳ, Hầu tử, nghênh nhập trung cung giáo dưỡng. Sùng Hiền (Khánh thọ bát niên đông thập nhị nguyệt đế băng) Hầu tử, niên phương nhị tuế, đế thâm ái chi, toại lập vi Hoàng thái tử, chi Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên đông thập nhị nguyệt đế băng, Thái tử tức vị, xuân thu nhị thập nhất niên, tại vị phàn thập nhất niên, thuỵ viết Thần tôn, tức Sư thị giả, Giác Hoàng hoặc Ðại Ðiên thị giả".
Những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như diễn tự và loại bỏ không dịch, cứ vào lời chiếu tìm con tôn thất tìm con vào nuôi dưỡng trong cung của Lý Nhân Tôn trong Toàn thư B3 tờ 18a8-b3: "Hội Tường Ðại Khánh thứ 8 mùa đông tháng 10…xuống chiếu nói rằng: "Trẫm trị muôn dân, đã lâu không có con nối dõi, ngôi thứ của thiên hạ, thì có thể truyền lại cho ai. Vậy phải nên nuôi dưỡng con của Sùng Hiền, Khánh Thành, Thành Quảng, Thành Chiêu và Thành Hưng Hầu, rồi chọn đứa tốt nhất trong chúng mà lập lên". Bấy giờ con của Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán, tuổi mới lên hai mà đã thông minh lanh lợi, vua rất thương yêu, bèn lập làm hoàng thái tử".
(18)
Lĩnh nam trích quái tờ 28-31 chép truyện của Từ Ðạo Hạnh hoàn toàn đồng nhất với truyện đây, trừ một sai khác đáng chú ý là việc Ðạo Hạnh thi trúng khoa Bạch liên, mà Thiền uyển tập anh không nói rõ. Còn Từ Ðạo Hạnh đại thành sự tích thật lục do "Ðạo nhân tam quán Tam Thanh" chép phụ vào Việt điện u linh tập tờ 221-225, tuy cốt truyện vẫn giống, nhưng có một số chi tiết khá lôi cuốn đáng ghi, nên đề nghị dịch lại sau:
"Xưa Từ Ðạo Hạnh, họ Từ tên Lộ cha là Vinh, dùng đạo Thích làm giáo tôn, làm quan triều Lý đến chức Tăng quan đô sát, trước thường (qua chơi) làng An lăng, cưới con gái họ Tăng tên Loan, làm nhà ở xóm Láng nam, làng An lãng, gặp được chốn đất làm nhà là quí địa, nên bẩm sinh Ðạo Hạnh có tiên phong đạo cốt.
Hạnh lúc nhỏ ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, hành động cử chỉ, người ta không thể lường. Thường cùng nhà nho Phí Sinh, Ðạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người hề Phan Ất cùng nhau làm bạn. Ban đêm, Hạnh siêng năng chịu khó đọc sách, nhưng ban ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui. Cha Hạnh thường quở trách Hạnh hoang chơi biếng nhác. Một hôm, ông lén nhìn vào phòng Hạnh, thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở chất đống, Ðạo Hạnh tựa vào bàn ngủ, mà tay vẫn chưa buông sách. Ông do thế không còn lo lắng nữa. Sau Hạnh ứng thí khoa Bạch liên, đỗ đầu, nhưng không thích ra làm quan, ngày đêm chỉ nghĩ tới việc báo thù cho cha.
Cha Hạnh nguyên ngày trước dùng diệu thuật xúc phạm đến Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có Pháp sư Ðại Ðiên dùng phù yếm giết chết, quăng thây xuống sông Tô lịch. Trôi đến cầu Tây dương, chỗ nhà Diên Thành Hầu, cái thây dừng lại đó, suốt ngày không chịu trôi đi. Hầu sợ, chạy báo cho Ðiên. Ðiên đến nói kệ rằng: "Tăng giận không đầy đêm sao? Vả sống là trường du hý, chết mới thành đạo Bồ đề". Thây đáp lại lời nói mà trôi đi, đến chỗ Hàm rồng làng Nhân mục cựu thì dừng lại. Người ta thấy nó có linh dị, xã đó xây lăng miếu, đúc tượng phụng thờ, mỗi năm kỵ vào ngày 10 tháng giêng. Bấy giờ mẹ Hạnh táng tại chùa Ba lăng, xã Thượng an. Nay chùa Hoa lăng phụng thờ cả hai vị Thánh cha và Thánh mẹ.
Ðạo Hạnh chỉ nhằm phục thù, mà không tìm ra kế. Một hôm rình lúc Ðại Ðiên đi ra sắp làm pháp thuật, bèn lấy gậy sắp đánh Ðại Ðiên, bỗng nghe trên không có tiếng mắng bảo thôi. Ðạo Hạnh bèn quăng gậy, trở về nhà, buồn rầu tức giận, muốn đi Tây thiên Ấn độ, tìm học phép lạ, để chống Ðại Ðiên. Bèn liền cùng Minh Không, Giác Hải ra đi, đến nước Răng vàng đường đi hiểm trở, muốn trở về thì thấy một ông già cỡi một thuyền con, thảnh thơi đi trên sông. Họ cùng đến hỏi: "Tới Tây thiên còn bao xa". Ông già trả lời: "Ðường núi hiểm cao, đi bộ không được. Lão có chiếc thuyền nhỏ, xin giúp chở đi, lại có cây gậy nhỏ đây, nhắm thẳng Tây quốc mà tới thì chẳng xa, lão xin bằng lòng ngay". Lại nói bài kệ:
Cùng đi đường đạo lẽ đương nhiên
Nhiều ông xa học quyết nên danh
Mênh mông muốn ngả sao nhọc trải
Chỉ nhắm Hoàng giang thấy thánh sanh.
Nói kệ xong, trong khoảng nháy mắt, bỗng chốc đã đến bờ sông Tây thiên có nhiều thần thông phép thiêng. Ðạo Hạnh giữ thuyền. Giác Hải và Minh Không lên bờ, học được phép thiêng, liền tự trở về trước. Ðạo Hạnh giữ thuyền ba ngày, không thấy tin tức hai người bạn , tự nhiên gặp một bà lão đến bên bờ sông, bèn chèo đến hỏi: "Lão bà có từng thấy hai người đến cầu đạo không?" bà lão trả lời: "Hai đứa đó đã nhận phép thiêng do ta dạy, đắc đạo trở về rồi". Ðạo Hạnh liền vái, vừa kể lại chuyện ba người cùng đi, bây giờ bỏ nhau, rất lấy làm buồn. Bà lão nghe nói, tức sai Ðạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, ta sẽ dạy cho ngươi vài phép thiêng cùng phép cho rút đất chân truyền và đà la ni.
Ðạo Hạnh tự hiềm hai người bạn đã thất ước, bèn tụng chú. Giác Hải và Minh Không đi đến nửa đường thì bị chú làm đau tim, khó di động được. Hai người bạn nhìn nhau kinh hãi. Bên ngoài tuy họ bị quấy rầy, nhưng bên trong nhờ đã học được linh thuật, nên đang hoàn toàn tỉnh táo, biện biệt được hư thật, biết rằng nó quả do Ðạo Hạnh tạo ra. Họ nhìn nhau nói: "Ngươi muốn biết hậu thân của thân này, thì hãy nhắm ta mà nói". Ðạo Hạnh nhân thế đáp: "Chúng ta cùng học đạo Thế Tôn, đạo quả đã thành hậu thân sẽ sinh lại thế gian làm bậc nhân chủ, lại sinh mắc bệnh, quyết không thể tránh, các ngươi có duyên với ta, xin đến cứu nhau".
hungcom
06-14-2015, 08:16 AM
Từ đó, hận xưa hết sạch, cùng nhau truyền bá Phật pháp. Ði mặt nước, bay trên không, hàng rồng phục cọp, lên trời rút đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ nhập thần, chẳng lường được mầu nhiệm. Họ bèn nhượng Ðạo Hạnh làm anh cả, Minh Không làm anh thứ và Giác Hải làm em. Chỗ đó nay gọi là cầu Beo ấy vậy. Minh Không và Giác Hải giã từ trở về chùa Giao thủy. Ðạo Hạnh ở lại tu luyện tại chùa Thiên phúc núi Thạch thất. Trước chùa có đôi cây tùng già, người ta gọi là long thụ. Ðạo Hạnh thường ngày chuyên trì chú Ðại bi tâm đà la ni đủ ức vạn ngàn biến thì một nhánh cây rơi xuống. Khi đọc chú xong thì cả đôi cây đều trụi. Hạnh tưởng được đức Quan Thế Âm đã đến ứng giúp, sức chú gia trì đã thấu tới thiên đường. Một hôm, thấy thần nhân hiện đến trước mặt, chân không đạp đất, Hạnh hỏi: "Thần nào đó?" Vị thần trả lời: "Ðệ tử là Tứ trấn thiên vương, cảm động đức trì kinh của Sư, nên đến hầu hạ, để tiện việc sai sử". Ðạo Hạnh biết lục trí của mình đã viên thành, thù cha có thể trả. Bèn trở về ở tại An lãng làng xưa, thân hành đến cầu An quyết sông Tô lịch, quăng một cây gậy xuống sông. Cây bỗng trên mặt nước, trôi ngược lên như bay, đến cầu Tây dương mới dừng lại. Ðạo Hạnh vui mừng nói: "Phép ta thắng Ðại Ðiên rồi vậy". Bèn đi thẳng đến chỗ Ðiên. Ðiên thấy, nói: "Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?". Ðạo Hạnh ngửa mặt ngó lên trời, vắng vẻ không thấy gì cả, nhân thế đánh mạnh. Ðiên chết, lại quăng xác vào sông Tô lịch để trả thù xưa.
Thù xưa rửa sạch, niềm tục lắng trong, Hạnh lại đi khắp tòng lâm, cầu xin ấn quyết. Nghe Cao Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình, Hạnh lễ phép đến tham yết, tỏ hết chân tâm, có bài kệ rằng:
Lâu mắc bụi đời chưa biết vàng
Chẳng hay đâu chỗ, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ dạy bày phương tiện
Nương thấy Bồ đề khỏi nhọc tìm.
Trí Huyền đáp lại lời kệ:
Bí quyết chân truyền giả vạn kim
Rõ ràng cái đó ấy thiền tâm
Hà sa thế giới nên thôi nói
Chẳng phải Bồ đề cách vạn tầm.
Từ Ðạo Hạnh mang nhiên không hiểu, bèn đến pháp hội của Sùng Phạm tại chùa Pháp vân, thong dong hỏi rằng: "Thế nào mới là chơn tâm?" Phạm đáp: "Chỗ nào lại không là chân tâm". Ðạo Hạnh bỗng nhiên tự ngộ, bèn lại trở về chùa Thiên phúc núi Thạch thất tu đạo luyện pháp xưa. Từ đó, pháp lực càng thêm, lòng thiền càng thục, có thể sai sử chim rừng thú nội đều bay đến nép phục xung quanh. Hễ dân các phương có ai bị tật dịch , bùa bay giấy chạy, phép Hạnh lập tức có nghiệm. Ðem cứu người, người đều thấm ơn.
Bấy giờ vua Lý Nhân Tôn không có con nối dõi, cầu đảo không nghiệm. Em vua là Sùng Hiền Hầu mời Ðạo Hạnh về nhà cùng nói chuyện cầu tự. Từ Công nguyện thác thai để tạ ân đức của Hầu. Lúc đó, phu nhân đang tắm ở nhà sau bỗng thấy Ðạo Hạnh hiện ở trong thau nước. Phu nhân sợ, đem nói với Hầu. Hầu rõ biết ý Hạnh, lén gọi phu nhân nói: "Bóng hiện trong thau nước, ấy là chân nhân đã nhập vào trong tử cung rồi, cẩn thận chớ sợ hãi nghi ngờ. Phu nhân trong lòng cảm thấy mình có thai. Từ Công bèn từ tạ mà về, dặn rằng : "Lúc lâm bồn thì nên đi báo cho ta". Ðến khi thai đủ tháng, phu nhân cảm thấy chuyển bụng muốn đẻ, nhưng rất khó. Hầu bảo: "Nên mau đi báo cao tăng". Từ Công thấy người đi báo đến, bèn gọi đồ đệ đến nói: "Nhân xưa chưa hết, ta tạm phải ra đời làm con cõi người để làm vua, thọ hết lại làm (chúa) cõi trời Tam thập tam. Nếu thấy chân thân ta hoại diệt thì ta mới vào Niết bàn, không còn ở trong sinh diệt nữa. Môn nhân nghe nói, không ai là không cảm động đến rơi nước mắt. Bèn lải rải nói kệ rằng:
Thu qua không báo nhạn về đây
Dễ khiến người đời thương xót thay
Tỏ dấu người đời không ý tiếc
Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay.
Nói xong, đi lên Ðộng tiên, va đầu vào vách đá, dẫm chân lên bàn đá nghiễm nhiên thi giải mà mất. Ấy là năm Bính thân Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 mùa xuân tháng 3 ngày mồng 7. Ðạo Hạnh Niết bàn, ra đời làm con của Sùng Hiền Hầu, không phiền nuôi nấng mà mau lớn, không nhọc dạy dỗ mà thông minh, nhan sắc đẹp đẽ, tài năng hết sánh. Vua xuống chiếu đem vào nuôi dưỡng ở trong cung, sau phong làm Hoàng thái tử. Nhân Tôn băng vua lên ngôi, ấy là Thần Tôn…".
Từ Ðạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục này, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục biên chép với một vài sai khác không đáng kể cho lắm. Trừ việc nó thiếu bài thơ thị tịch của Hạnh và thêm bài thơ báo mộng cho Lý Nhân Tôn cùng chuyện nhờ Minh Không sau này chữa bệnh hộ mình.
An nam chí lược 15 tờ 147-148 viết: "Từ Ðạo Hạnh là Nho sinh, ưa thồi sáo ngày cùng bạn leo núi du ngoạn, đêm đọc sách đến sáng. Một hôm, Hạnh vào núi Phật tích thấy trên đá có dấu bàn chân bên phải, bèn lấy bàn chân mình án lên trên thì giống như một. Bèn trở về nhà, giã từ mẹ mình, vào núi dựng am tu hành. Vua Lý vô tự, sai danh tăng cầu đảo. Có một vị tăng không dự, dùng thuật yểm đi. Vua nghe được sai bắt các vị tăng trong nước. Sư cũng bị hạ ngục. Vị Hoàng tử đem sức ra cứu, nên Sư khỏi được. Vị hoàng tử nói: "Tôi cũng không có con nối dòng, xin Sư cầu đảo dùm tôi". Sư bèn nói với vị Hoàng tử nên sai phu nhân vào trong nhà tắm. Sư đi qua ngoài nhà. Phu nhân cảm được mà có thai. Ðến khi sinh, vị Hoàng tử cho mời Sư, nhưng Sư đã ngồi mà hóa. Phu nhân bèn sanh một người con trai kỳ vĩ. Vua Lý lấy làm người nối dõi. Nhục thân Sư nay vẫn còn".
Việt sử tiêu án 1 tờ 101a1-16 chép: "Xét phu nhân Sùng Hiền Hầu có thai gặp Sư núi Thạch thất là Từ Ðạo Hạnh đến nhà cùng bàn việc cầu tự. Sư hẹn khi sắp đẻ, nên trước báo cho Sư biết. Ðến lúc ấy phu nhân đẻ khó, Hầu nhớ lời Sư, sai người đi báo. Sư liền thay áo tắm rửa, vào trong hang thi giải mà chết. Phu nhân liền sanh một người con trai, tức Dương Hoán. Núi Thạch thất ở tại làng Lật Sài, huyện Yên sơn, cao vút xanh đẹp, mọc lên giữa một đám đất bằng. Ðộng đá có in dấu đầu và dấu chân, hình như rồng lân, tục truyền là nơi thi giải. Người làng cho đó là điềm lạ, bỏ thây vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 là thắg hội của một địa phương. Sau trong khoảng Vĩnh lạc, người Minh đốt thây đó. Dân làng mới đắp tượng cùng thờ với Thần Tôn, Trong khoảng Lê Quang Thuận, sai Nguyễn Ðức Trinh đến cầu tự ở trong động thì điềm lạ là có một mảnh đá bay tới. Bèn cung kính rước về dâng lên. Khi đã vậy, Thái hậu Trường Lạc mộng thấy rồng vàng vào hông bên phải mình, bèn sinh ra Hiến Tôn. Từ đó dấu thiêng càng hiện rõ".
Rồi nó nhận xét thế này: "Xét Dã sử thì Ðạo Hạnh là con của Từ Vinh, dòng dõi nổi tiếng về pháp thuật, chẳng phải là một cao tăng. Việc thi giải đầu thai của ông quái đản không thường. Cao tăng minh tâm kiến tánh, tất không dùng pháp thuật mê hoặc mọi người. Sách sử nên bỏ chuyện lạ lùng, chỉ ghi lại việc thường, mà không nên đem chuyện thần quái mà mê hoặc đời". Dẫu vậy, với dẫn chứng vừa đọc, ta cũng thấy Việt sử tiêu án đã không quên bước chân theo Toàn thư và Ðại Việt sử lược để ghi lại những việc làm có vẻ quái đản của Ðạo Hạnh. Chỉ Cương mục chính biên là đã làm theo lời giáo huấn của Ngô Thời Sĩ, và từ đó đã tự làm giảm giá trị của chính mình thôi.
-------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
久混凡塵未識金,
不知何處是真心。
願乘指的開方便,
了見如如斷苦尋。
Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim),
Bất tri hà xứ thị chân tâm.
Nguyện thuỳ chỉ đích khai phương tiện,
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm.
(**)
玉裏秘聲演妙音
個中滿目露禪心
河沙境是菩提道
擬向菩提隔萬尋
Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị Bồ Đề đạo
Nghĩ hướng Bồ Đề cách vạn tầm.
(***)
作有塵沙有,
為空一切空。
有空如水月,
勿著有空空。
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
(****)
日月出岩頭,
人人盡失珠。
富人有駒子,
步行不騎駒。
Nhật nguyệt xuất nham đầu,
Nhân nhân tận thất châu.
Phú nhân hữu câu tử,
Bộ hành bất kỵ câu.
(*****)
秋來不報雁來歸,
冷笑人間暫發悲。
為報門人休戀著,
古師幾度作今師。
Thu lai bất báo nhạn lai quy,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỉ độ tác kim sư.
hoatihon
06-14-2015, 08:21 AM
Hỏi về Chân Tâm
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hoichantam_zps78eb9342.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:24 AM
Đương xứ tức Chân
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/duongxutucchan_zpsc2f0816f.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:27 AM
Không có, có không
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Khongcocokhong_zpsd809fcb9.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:30 AM
Hạt châu búi tóc
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hatchaubuitoc_zps00fdb2f3.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:33 AM
Chỉ là Hóa thân !
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/chilaHoathan_zps9447d374.jpg
hungcom
06-14-2015, 08:34 AM
52.THIỀN SƯ TRÌ BÁT(1049-1117)
Chùa Tổ phong, núi Thạch thất, làng Ðại cù, Tân trại, người Luy lâu, họ Vạn. Nhỏ đã thiết tha với Phật giáo. Ðến tuổi trưởng thành, tới xuống tóc và thọ Cụ túc giới với Sùng Phạm chùa Pháp vân. Phạm thấy Sư tính hạnh siêng năng, gặp việc cẩn thận, bèn dốc lòng ấn khả và ban cho hiệu trên.
Khi Phạm qui tịch, Sư tự mình đi khắp những chỗ giảng Thiền, trải hỏi các bậc Tôn túc, rồi trở về chùa đó giảng dạy nghiên cứu. Tướng quốc Thái úy Lý Thường Kiệt, lúc bấy giờ là vị đàn chủ. Những gì Sư được dâng cúng, đều đem dùng vào việc Phật. Sư đồng thời dựng lại các chùa Pháp vân, Thiền cư, Thê tâm và Quảng an… để đáp lại ân pháp nhũ.
Ngày 18 tháng 2 năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 8 (1117), khi sắp thị tịch, Sư nói kệ rằng:
Có chết tất có sống
Có sống tất có chết
Chết đời lấy làm buồn
Sống đời lấy làm vui
Buồn vui thật vô cùng
Bỗng nhiên thành đây đó
Ðối với việc sống chết
Chẳng có gì bận lòng
Án tô rô tô rô tất rị" (1)(*)
Nói kệ xong, Sư ngồi thẳng mà mất, thọ 69 tuổi. Môn đồ đệ tử là Thiền sư Tịnh Hạnh, Pháp Nhãn và Thuần Chân thu di cốt hỏa táng.
_______________
Chú thích :
(1)
Thiền sư Viên Quang, có người hỏi: "Nếu không dính dáng đến chuyện đàn tràng nữa thì Sư có tiếp chăng?" Sư trả lời: "Tô rô tô rô". Tô rô tô rô hay nói cho đủ, tô rô tô rô tất rị là một phiên câu chú chữ Phạn: surà-suràsrì nghĩa là: Sự vinh quang của người anh hùng và không anh hùng.
----------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
有死必有生,
有生必有死。
死為世所悲,
生為世所喜。
悲喜兩無窮,
互然成彼此。
於諸生死不關懷,
唵嘮嚕嘮嚕悉哩。
Hữu tử tất hữu sinh,
Hữu sinh tất hữu tử.
Tử vi thế sở bi,
Sinh vi thế sở hỉ.
Bi hỉ lưởng vô cùng,
Hỗ nhiên thành bỉ thử.
Ư chư sinh tử bất quan hoài,
Úm tô rô, tô rô, tất lỵ!
hoatihon
06-14-2015, 08:37 AM
Sinh tử - tử sinh
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/sinhtutusinh_zps1febf9e9.jpg
hungcom
06-14-2015, 08:40 AM
53. THIỀN SƯ THUẦN CHÂN (? – 1105)
Chùa Hoa quang, làng Tây kết, Thượng nghi. Người Cửu ông, Tế giang, họ Ðào. Tuổi nhỏ đã lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp Pháp Bảo chùa Quang Tịnh (1) nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình để theo học với Bảo. Chẳng được bao năm, cửa tù đập vỡ(*), ánh điện lửa đá theo gõ phát ra(**), dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức (***).
Vào ngày 7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 5 (1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là Bổn Tịch vào thỉnh ích. Sư thuyết bài kệ:
"Chân tánh thường không tánh
Sao từng có diệt sinh
Thân là pháp sinh diệt
Pháp tánh diệt chửa từng".(****)
Rồi thì mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.
_____________
Chú thích :
(1)
Pháp Bảo chùa Quang Tịnh này có thể là Pháp Bảo chùa Phúc diên tư thánh có hiệu là Hải Chiếu đại sư, tác giả bài bia chùa Linh xứng viết năm 1126 nổi tiếng hiện đã phát hiện được, và cũng là tác giả một bài bia khác cho chùa Sùng nghiêm diên thánh viết năm 1118, mà Lê Quí Ðôn đã phát hiện và ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2a8, nhưng đã không chép lại toàn văn bản bia.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
"Cửa tù đập vỡ" ý nói đã NGỘ (Satori), đã thấy ánh sáng Phật pháp cho nên tự giải thoát khỏi mọi "gông xiềng" ràng buộc của lầm mê.
(**)
"lửa đá theo gõ phát ra" người xưa lấy lửa bằng cách gõ 2 viên đá lửa vào nhau bên cạnh "bùi nhùi" (vật dễ bắt lửa mà ngún khói lên) sau đó họ thổi cho nó bùng lên :
http://genk2.vcmedia.vn/qpzwx5eyT7y2GOMcVVLoC4BdyKQXo6/Image/2012/ky7/3-4119f.jpg
Đây là hình ảnh viên đá lửa mà người xưa thường mang theo bên mình (phải 2 viên như vầy).
http://genk2.vcmedia.vn/qpzwx5eyT7y2GOMcVVLoC4BdyKQXo6/Image/2012/ky7/resized_Bundle_2-1adb5-4119f.jpg
Đây là bùi nhùi.
(***)
"hầu không còn sức" ý nói người theo học đạo rất đông.
(****)
真性常無性,
何曾有生滅。
身是生滅法,
法性未曾滅。
Chân tính thường vô tính,
Hà tằng hữu sinh diệt.
Thân thị sinh diệt pháp,
Pháp tính vị tằng diệt.
hoatihon
06-14-2015, 08:42 AM
Chân tính
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/chantinh_zpsdb043244.jpg
hungcom
06-14-2015, 08:43 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BA
(SÁU NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
54. TĂNG THỐNG HUỆ SINH (? – 1064)
Chùa Vạn tuế, kinh đô Thăng long, nguời Ðông phù liệt, họ Lâm, tên Khu (*), hậu duệ của Lâm phú ở Trà sơn, Vũ an. Khoáng(**) lấy con gái của Quách tăng lục, nhân dời nhà đến Phù liệt, sinh được 2 con.người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy.
Tướng mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho rảnh rỗi, Sư nghiên cứu thêm sách Phật, học bách luận và các kinh, không gì là không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ trọng yếu của Phật pháp, Sư thường than thở rơi lệ.
Năm 19 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc lâm thờ Ðịnh Huệ chùa Quang hưng làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Ðịnh Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà(1) trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Ðại sĩ nhục thân(2).
Lý Thái Tôn nghe tiếng, sai sứ đến mời, Sư gọi sứ bảo: "Ông không thấy con vật cúng sinh sao? Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị dắt vào Thái miếu, dù muốn xin làm con vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể được huống gì khác nữa ư?". Sư cố từ không được, nên đến lần thứ hai, Sư mới về kinh. Gặp mặt, vua rất mừng, phong làm Nội cung phụng tăng sắc trụ trì chùa Vạn tuế. Một hôm, nhân dịp trai tăng trong đại nội, vua gọi Sư nói: "Trẫm nghĩ, Phật tổ gốc ở tâm, người học chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mọi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của các vị ra sao". Sư lên tiếng đáp thành kệ rằng:
"Pháp vốn như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết như vậy
Chúng sinh cùng Phật đồng.(***)
----------
Trăng Lăng-già vằng vặc
Thuyền vượt biển lâng lâng
Hiểu không, không biết có
Tam muội mặc thong dong".(****)
Vua rất khen thưởng, rồi phái làm Ðô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết Thiên Vương, Thái Tử Vũ Uy, Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh, Thượng tướng Vương Cường, Thái sư Lương Nhậm Văn, Thái bảo Ðào Xử Trung và Tham chính Kiều Bồng đều tới lui hỏi đạo, lấy lễ thầy trò đãi Sư .
Ðến triều Thánh Tôn, Sư đổi đến chức Tả nhai Ðô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng tên(3).
Năm Giáp thìn Gia Khánh thứ 6 (1064)(4), lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng:
"Nước lửa ngày chan hòa
Do lai, chửa nói ra
Tin ông không xứ sở
Ba ba lại ba ba".(5)(*****)
Lại nói:
"Từ xưa đến theo học
Người người chỉ phía nam(6)
Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới trăng mùng ba"(******)
Rồi tắm rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia văn các chùa Thiên phúc, Thiên thánh, Khai quốc tại Tiên du và chùa Diệu nghiêm, Báo đức tại Vũ ninh. Lại có Pháp sự trai nghi(7) và Chư đạo tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.
______________
Chú thích :
(1)
Tức núi Nguyệt thường hay núi Bạch sắc ở huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Nguyệt thường, tại phía tây nam huyện Tiên du ba dặm, một tên là núi Bạch sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liễu, dưới núi có đền Cao sơn. Năm Tự Ðức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng".
Núi này hiện có đỉnh Bồ Ðề không, chưa thể biết được.
(2)
Ðại sĩ là một tên gọi khác các vị Bồ tát. Xem Ðại trí độ luận. Nó đôi khi cũng để gọi Phật, như trong Kim quang minh kinh Tứ nghi tập giải quyển thượng nói: "Ðại sĩ, đại là không phải nhỏ, sĩ là việc, vì vận dụng được lòng rộng lớn làm nên việc Phật nên gọi Ðạisĩ, cũng gọi Thượng sĩ". Du già sư địa luận xác định rõ hơn nội dung của từ Thượng sĩ thế này: "Người làm không lợi mình mà lợi người, ấy là hạ sĩ, làm lợi mình không lợi người, gọi là trung sĩ, làm lợi cả mình lẫn lợi người gọi là thượng sĩ". Nội dung của từ Ðại sĩ cũng thế.
Ðại sĩ nhục thân như vậy, có nghĩa vị Bồ Tát hay Phật bằng xương thịt.
(3)
Về sự liên hệ giữa Huệ Sinh và Lý Thánh Tôn, Báo Cực truyện do Việt điện u linh tập tờ 30-31 dẫn lại trong truyện Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân có viết rằng:
"Xưa Lý Thánh Tôn nam chinh Chiêm thành, đến cửa Hoàn bỗng bị gió lớn mưa to, sóng nước cuộn lên, thuyền vua tròng trành muốn lật, nguy cấp xảy ra không thể lường được. Vua rất lo sơ. Trong lúc bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái, tuổi ước trên dưới hai mươi, mặt tựa hoa đào, mày đượm dương liễu, mắt sáng như sao, cười như hoa nở, mình mặc áo trắng quần lục, nai nịt gọn gàng, đi thẳng đến trước Vua, nói rằng: "Thiếp là tinh của đại địa Nam quốc, sống nhờ ở làng Thủy vân đã lâu, xem thời mà ra, may gặp dịp tốt, hân hạnh được thấy long nhan, thì sở nguyện bình sinh của thiếp thật đã thỏa. Chỉ mong bệ hạ chuyến đi này thông suốt, hoàn toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy bồ liễu mong manh, cũng xin đem sức mọn, lặng lẽ phò tá. Ðến ngày khải hoàn, thiếp xin đợi ở đây để bái yết". Nói xong thì không thấy nữa.
Vua tỉnh dậy kinh hãi nhưng vui, cho mời tả hữu, kể hết những gì đã thấy trong mộng. Tăng thống Lâm Huệ Sinh nói : "Thần nói thác sinh vào một cây ở tại làng Thủy vân. Nay nên tìm thần cây đó, có thể có linh nghiệm". Vua đồng ý, sai tùy tùng đi tìm ở bãi và bờ sông thì được một cây gỗ, đầu rất giống hình người qua dạng người đã thấy trong mộng. Vua bèn đặt hiệu là Hậu Thổ phu nhân. Sai đặt hương án ở trong ngự thuyền. Giây lát, sóng gió lặng im, cây cối hết động. Tới khi qua đến Chiêm thành xáp trận thì giống như có sức thần giúp. Trận đó quả đại thắng.
Ðến ngày khải hoàn, thuyền vua đến đậu lại chỗ cũ, ra lệnh xây miếu, thì mưa gió lại nổi lên lại như xưa. Lâm Huệ (Sinh) tâu rằng: "Ðể xin một keo có phải muốn về kinh sư chăng". Thì quả được. Mưa gió lại im lặng. Ðến khi về tới kinh sư, vua chọn đất dựng miếu tại làng An lãng, rất nổi tiếng linh dị. Có kẻ bài báng chú trở thì liền bị tai họa…
Ðấy là chuyện Lâm Huệ Sinh tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn nguyên bản chép tay viết Huệ Lâm Sinh hay Huệ Lâm, nhưng đó rõ ràng là chép ngược và thiếu cái tên của Huệ Sinh họ Lâm. Suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi đánh Chiêm thành có một lần, ấy là vào năm 1069, nhưng như sẽ thấy, Huệ Sinh theo Thiền uyển tập anh thì mất vào năm 1063 hay 1064. Vậy làm sao lại có thể tùng chinh? Xem chú thích tiếp theo.
(4)
Nguyên văn: Gia Khánh ngũ niên Giáp thìn. Nhưng cứ Ðại Việt sử lược 2 và Toàn thư B3 thì Chương Thánh Gia Khánh ngũ niên phải là Quý mão, chứ không phải Giáp thìn. Nếu Giáp thìn thì phải là Chương Thánh Gia Khánh lục niên (1064). Chữ ngũ và chữ lục cũng rất dễ lẫn. Vậy Huệ Sinh mất năm 1064? Nhưng như thế làm sao Huệ Sinh có thể tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn trong cuộc chinh phạt xảy ra vào năm 1069. Phải chăng Huệ Sinh đã tùng chinh với Lý Thái Tôn trong cuộc chinh phạt năm 1044, mà Việt điện u linh tập viết lộn thành Lý Thánh Tôn? Chúng tôi nghĩ đấy là một có thể, nhất là khi vấn đề truyền bản của Việt điện u linh tập đưa nhiều điểm khá nghi ngờ, mà những cái tên Huệ Lâm Sinh và Huệ Lâm là những thí dụ. Tuy nhiên không nhất thiết loại bỏ những sai lầm niên đại có thể do sự truyền bản của Thiền uyển tập anh tạo ra, mà trường hợp Khánh Hỷ và Pháp Dung là những thí dụ.
(5)
Công án thiền. Thiền sư Vô Trước nói chuyện với Văn Thù trên Ngũ Ðài Sơn. Vô trước hỏi về sinh hoạt của các nhà sư ở đấy và con số của nó. Văn Thù trả lời: "Trước ba ba, sau ba ba" (Tiền tam tam, hậu tam tam). Xem Bích nham lục 4 tờ 173b29-174a7.
(6)
Ðiển tích Thiện Tài đi học đạo, được Văn Thù chỉ đi hướng nam tham học với 53 vị thiện tri thức, mà từ Phật học Trung Quốc thường gọi "Thiện Tài đồng tử ngũ thập tam tham", trong kinh Hoa nghiêm. Xem Ðại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 62.
(7) Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: "Pháp sự trai nghi một quyển, Sư Huệ Sinh soạn, người Ðông phù liệt, huyện Thanh trì". Còn Chư đạo tràng khánh tán văn không thấy sách nào ghi tới cả. Ta không hiểu Lê Quý Ðôn đã dựa vào tiêu chuẩn gì để ghi hay không ghi một cuốn sách.
----------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Lâm Khu (林摳)
(**)
Lâm Khoáng (林壙)
(***)
法本如無法,
非有亦非空。
若人知此法,
眾生與佛同。
Pháp bản như vô pháp,
Phi hữu diệc phi không.
Nhược nhân tri thử pháp,
Chúng sinh dữ Phật đồng.
(****)
寂寂棱伽月,
空空渡海舟。
知空空覺有,
三昧任通週。
Tịch tịch Lăng Già nguyệt,
Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu,
Tam muội nhậm thông chu.
(*****)
水火日相參,
由來未可談。
報君無處所,
三三又三三。
Thuỷ hoả nhật tương tham,
Do lai vị khả đàm.
Báo quân vô xứ sở,
Tam tam hựu tam tam.
(******)
字古來參學,
人人指為南。
若人問新事,
新事月初三。
Tự cổ lai tham học,
Nhân nhân chỉ vị Nam.
Nhược nhân vấn tân sự,
Tân sự nguyệt sơ tam.
hoatihon
06-14-2015, 08:45 AM
Phật & Chúng sanh tánh thường rỗng lặng
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Phatchungsanhtanhthuongronglang_zpsfcaaa278.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:49 AM
Lăng Già nguyệt
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/LangGianguyet_zpsdaf8190d.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:51 AM
Không tánh
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Khongtanh_zps597edec5.jpg
hoatihon
06-14-2015, 08:53 AM
Có gì đâu !
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Cogidau_zps066b2e45.jpg
hungcom
06-14-2015, 08:54 AM
55.THIỀN SƯ THIỀN NHAM (1093-1163)
Chùa Trí quả(1), làng Cổ châu, Long biên. Người Cổ châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi Tăng quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng(2) trong hay. Thường tập môn Tổng trì Đà la ni, xây lưng mà đọc, không sót một chữ.
Trong khoảng Hội Phong (1092 -1100), Sư ứng thí(3) kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện vua, đều trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành đạo(4) mà được ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.
Lúc đầu, Sư đến ở chùa Thiên phúc, núi Tiên du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn, ăn lá cây uống nước suối, trãi đến sáu sương. Sao đó, Sư trở về làng mình, trùng tu lại chùa Trí quả mà trụ trì. Trong khoảng Ðại Thuận (1128-1132), trời hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm. Vua phái làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước có cầu đảo, Sư đều làm chủ(5).
Tháng 2 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 1 (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Ðến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời bấy giờ gọi là Phật sống(6).
Sau này, mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.
_____________
Chú thích :
(1)
Chùa Trí quả hiện nay ở làng Phương quan trên hữu ngạn sông Dâu đối diện với làng Văn quan. Chùa đấy là nơi thờ Pháp Ðiện, một trong Tứ pháp. Nếu cứ vào địa điểm làng này, thì vị trí làng Cổ châu thời Lý không phải chỉ gồm có làng Khương tự và Ðại tự mà thôi. Trái lại, nó phải bao gồm phần lớn những làng xung quanh hai làng đấy, mà chính yếu là những làng Lũng khê, Thanh tương, Văn quan, Phương quan và Công hà.
Vì chùa Trí quả là chùa làng mình, nên Thiền Nham đúng ra là người Phương quan, tức người làng Dâu ngày nay. Ta không biết làng này hiện còn ai họ Khương không?
(2)
Phạn bối, tức một thứ ca hát tán tụng dùng một số nốt giới hạn nào đó của âm nhạc Ấn độ, sau này trở thành lễ nhạc của Phật giáo tại các xứ phương Ðông.
(3)
Trong khoảng Hội Phong (1092-1099) không thấy sử ghi một cuộc điện thí nào. Nhưng truyện Viên Thông tờ 68b9-10 ghi một cuộc thi Tam giáo xảy ra vào năm Hội Phong thứ 6 (1097), mà Viên Thông đỗ hạng đầu. Như thế, Thiền Nham và Viên Thông rất có thể là hai người đồng khoa.
(4)
Chùa Thành đạo nghi là chùa Thành đạo hiện ở tại làng Ðông cốc, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh ngày nay, nơi có thờ Pháp Vũ, một trong Tứ pháp, bởi vì chùa Trí quả, nơi trú trì của Thiền Nham là nơi thờ Pháp Ðiện, thì tất Nham phải có một liên hệ nào đó với các chùa có thờ Tứ Pháp khác. Tuy nhiên, tại làng Văn giáp, huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông cũng có chùa Thành đạo và chùa đấy cũng thờ Pháp Vũ. Dẫu thế, chúng tôi vẫn nghĩ, chùa Thành đạo của Pháp Y tức chùa Thành đạo tại làng Ðông cốc.
(5)
Trong khoảng Ðại Thuận, Ðại Việt sử lược 3 tờ 1b7-8 chỉ viết: "Ðại Thuận năm thứ 3 (1130) tháng 6 hạn, cầu thì mưa. Nhưng theo Toàn thư B3 thì trong khoảng Thiên Thuận từ năm 1128 đến 1132 không năm nào là không có hạn nên Việt sử tiêu án 1 tờ 110a6, khi nhận xét về biện pháp chống hạn của triều Lý Thần Tôn, đã phải nói: "Xét trong khoảng 10 năm (trị vì của Thần Tôn) thì không năm nào là không có hạn".
(6)
An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Thiền Nham là vị sư huyện Siêu loại, giới hạnh tinh nghiêm, ăn lá cây, uống nước suối, xác chết rồi vẫn còn tươi như khi sống. Người bấy giờ gọi là Phật sống".
hungcom
06-14-2015, 09:06 AM
56.QUỐC SƯ MINH KHÔNG (1066-1141)
Chùa Quốc thanh,Trường an(1), người làng Ðàm xá, Ðại hoàng(2),họ Nguyễn, tên Chí Thành.
Sư thường đi du học gặp Thiền Sư Từ Ðạo Hạnh chùa Thiên phúc. Hạnh mến sư, cho phép theo hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn sâu ấn hứa và cho tên Minh Không. Ðến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng: "Xưa Ðức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả báo hùm vàng, huống ở đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay còn phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối với ngươi có duyên, xin nhờ cứu với".
Hạnh mất rồi, Sư trở về làng cũ cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm, lương y trong thiên hạ ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không làm gì được(3). Bỗng nghe có trẻ con ca rằng:
"Muốn trị bệnh Thiên tử
Phải có Nguyễn Minh Không".(*)
Ben sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp đuợc Sư (4).
Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa, họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột điện, lên tiếng nói: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng". Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: "Ðấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?"
Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ để tưởng thưởng.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Ðại Ðịnh (5) thứ 2 (1141), Sư mất, thọ 76 tuổi (6).
____________
Chú thích :
(1)
Tức đất huyện Yên khánh, tỉnh Ninh bình ngày nay, chùa Quốc thanh hiện chưa truy cứu được.
(2)
Tức xã Ðàm xá, huyện Gia viễn, tỉnh Ninh bình ngày nay. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, viết: "Ðền Nguyễn Minh Không ở tại huyện Gia viễn, xưa hai xã Ðàm Xá và Ðiềm giang cùng thờ. Thần người Ðàm xá, họ Nguyễn, tự Chí Thành. Xét Sử ngoại truyện thì thầy đi du học và được tâm ấn từ Ðạo Hạnh, hiệu là Thiền sư Minh Không, ở chùa Quốc Thanh. Trong khoảng Hội Tường Ðại Khánh đời Lý Nhân Tôn, Ðạo Hạnh khi sắp tạ thế, dặn Minh Không rằng: "Ta sẽ ở ngôi nhân chủ, mắc bệnh khó tránh, ông nên cứu ta". Sau Thần Tôn bị bịnh hóa thành hình cọp. Trẻ nít ca nói: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải tìm Nguyễn Minh Không". Mời đến, Không nói tiền duyên cho vua nghe. Vua giác ngộ, Minh Không nấu dầu một trăm cân, lấy tay khuấy rửa cho vua. Bệnh lành, phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ. Ðến năm Ðại Ðịnh thứ 2 (1141) đời Anh Tôn, Sư mất, thọ 76 tuổi. Người trong ấp lập đền thờ. Trước đền có một cây đèn đá cao độ một thước, tương truyền là đèn tụng kinh của Sư. Ðền nổi tiếng là linh ứng. Nay các chùa ở Giao thủy và Phổ lại đều đắp tượng Sư mà thờ".
(3)
Những tình tiết diễn tiến cho tới lúc này, nghi là một phụ hội, bởi vì năm năm trứơc khi Minh Không đến chữa bệnh cho Thần tôn, tức năm Ðại Thuận thứ 4 (1131), Toàn thư 3 tờ 36a9 đã ghi việc vua "dựng nhà cho Ðại sư Minh Không". Như vậy, chắc chắn không có chuyện Minh Không "về quê cày cấy 20 năm hay chuyện trẻ nít phải hát và phải sai sứ đi khắp dân gian mới gặp Sư".
(4)
Toàn thư B3 tờ 39a7-9: "(Thiên Chương Bảo Tự) năm thứ 4 (1136) vua bệnh nặng, thuốc men không bớt, thấy Minh Không chữa lành, phong làm Quốc sư, cho thuế hộ vài trăm". Rồi chua tiếp: "Ðời truyền rằng thầy Từ Ðạo Hạnh khi sắp thi giải, trong lúc bị bệnh, đem thuốc và chú giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, nói rằng: "Hai mươi năm sau thấy Quốc Vương gặp bệnh lạ thì đến chữa". Bởi nó bắt nguồn từ việc này vậy".
(5)
Nguyên văn có Ðại Ðịnh nhị niên Tân sửu. Nhưng cứ Toàn thư 4 tờ 1b8 và 2b8-9 thì Ðại Ðịnh nhị niên phải là năm Tân dậu, và tháng 8 mùa thu năm đấy Minh Không mất.
(6)
Lĩnh nam trích quái tờ 31-33 chép một tiểu sử của Minh Không hoàn toàn đồng nhất với bản đây. Nhưng sau đó, nó lại ghi thêm một tiểu sử hoàn toàn khác và nói là lấy từ Minh Không biệt truyện. Truyện như sau: "Làng Giao thủy có chùa Không lộ, xưa có nhà sư tên…trong khoảng Trị Bình (1064-1067) xuất gia trụ trì chùa đó, nổi tiếng là đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi vào, nhà sư cùng phòng, tức Ðạo Hạnh núp trong cửa nhảy ra, giả tiếng cọp để nhát Minh Không. Minh Không cười nói: "Người tu hành mà muốn làm cọp sao? Ta sẽ cứu ngươi".
Sau nhiều năm, nhà Sư ấy bỗng chốc chết, hóa làm Quốc vương, chẳng bao lâu bỗng hoá ra mọc lông, vùng vẫy gào thét, mặt giống như cọp, khắp tìm thầy thuốc, thầy bói, nhà sư, đạo sĩ, nhưng đều bó tay. Nghe Minh Không có pháp thuật, sai người chèo thuyền đến mời. Minh Không lấy một chiếc om nhỏ, nấu cơm cho thủy thủ ăn. Vị sứ giả cười nói: "Sợ khó đủ hết". Minh Không trả lời: "Không phải, để cho họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta". Rồi thủy thủ bốn năm chục người, ăn mãi mà không hết. Mọi người đều làm lạ. Ðến chiều, họ sắp ra thuyền thì Sư lại bảo thủy thủ hãy ngủ ngon một đêm, đợi sáng mai rạng đông, bần tăng gọi dậy thì mới có thể bắt đầu ra thuyền. Nếu không thì ta sẽ không đi. Sứ giả nài nỉ không được, bèn nằm yên giả ngủ, thì chỉ nghe dưới thuyền tiếng gió thổi veo veo. Lúc lâu mặt trời mọc, Sư gọi dây thì thuyền đã cập bến ở kinh đô.
Minh Không bay lên trời mà vào cung, đun nước tắm cho vua, lập tức lông rụng, thân thể bình phục. Vua hỏi lý do. Sư đáp: "Người tu hành, nếu một niệm mê thì sám hối là xong, không khó khăn gì hết". Lại hỏi: "Sư làm sao có thần thông mà làm được như vậy?" Minh Không trả lời: "Ðấy chẳng phải phép thuật gì hết. Thần xưa có bệnh phong, phát ra thì không thấy, nên nhiều ít không biết thì cái gì cũng trống, mình cứ tin mà bước đi, chẳng phải thần thông gì thảy". Bèn lại đi bằng đường không mà trở về, cho thưởng gì cũng không nhận, vua bèn ban hiệu là Thần tăng để khen ngợi".
Tiểu truyện này của Minh Không, tuy Lĩnh nam trích quái bảo là rút từ Minh Không biệt truyện, nhưng chắc chắn là xuất phát từ truyện Minh Không thần Dị trong Nam ông mộng lục, và nhất là bởi vì nó hoàn toàn giống với truyện kể trong đó.
Việt sử tiêu án 1 tờ 108b7-109b9 cũng chép lại gần giống truyện trên và bảo là từ Ngoại truyện. Nó viết: "Thế truyền Ðạo Hạnh khi sắp thi giải, đem thuốc có làm phù chú, giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không nói rằng: "Sau 20 năm quốc vương có bệnh thì đem mà trị". Thuyết này xuất phát từ Lĩnh nam trích quái. Lại xét Ngoại truyện thì cha Ðạo Hạnh là Từ Vinh dùng pháp thuật nên bị sư Thái Ðiên giết. Ðạo Hạnh nghĩ cách báo thù cha, đến tu đạo tại tịnh xá Hương tích. Trên đường gặp Khổng Minh Không, bèn kết làm bạn cùng đi đến chùa Vân mộng. Vị thầy dạy cho thần thông quyết. Sau 3 năm, hai người giã từ trở về. Ðạo Hạnh muốn thử thuật mình chơi, nấp vào một nơi hiểm, giả làm con cọp để dọa Minh Không. Minh Không biết, trách Hạnh dùng tà hạnh lại gồm có chú ngữ. Ðạo Hạnh hổ thẹn và hối hận, đến tạ lỗi, vừa nói: "Nghiệp đời sau chưa trừ hết, xin phiền giải thoát cho". Ðạo Hạnh về am, Minh Không về Giao thủy. Sau đó nghe Ðạo Hạnh thi giải, MK cười, nói rằng: "ông Hoà thượng ấy còn mê phú quý trần gian sao?". Ðến lúc ấy, Thần Tôn bị bệnh kêu gầm, muốn biến thành cọp. Thuốc chữa không chịu. Trẻ con hát rằng: "Muốn chữa Lý cửu trùng, phải được Khổng Minh Không". Thái hậu nghe được cho mời đến. Khi đã đến, bèn giảng chuyện nhân quả đời trước cho vua. Vu abèn giác ngộ. Bệnh liền bớt. Minh Không có nói kệ:
Kỳ lân đồ hậu mạc
Nguyệt vọng đáo trung thiên.
Người bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ, quả hiệp với lời kệ. Minh Không người Ðàm xá, huyện Gia viễn. Nay chùa Phổ lại và Giao thủy có đắp tượng thờ. Năm Ðại Ðịnh thứ 2 (1141) Sư mất, thọ 76 tuổi".
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
"Tập tầm vông _ tay không, tay có _ tập tầm vó, tay có tay không _ Tay nào không, tay nào có ? tay nào có, tay nào không ? Ông Nguyễn Minh Không, cứu Hoàng Thái tử"
Trên đây là bài đồng dao mà trẻ con thời xưa hát kèm theo trò chơi "Tập tầm vông" :
_ Hai tay nắm lại, giấu sau lưng, một tay có vật _ đồng xu hoặc là viên đá cuội _, sau đó trưng 2 tay ra (vẫn tư thế nắm lại) đố trẻ kia. Hai tay xoay tròn, đồng thời miệng hát đố bài trên.
Hết câu hát đưa hai nắm tay ra cho trẻ đối diện đoán. Nếu đoán đúng thì người đoán đúng được thực hiện hình phạt (tùy theo hai bên thỏa thuận như ký đầu hay búng tai..hoặc giả người thua phải chạy quanh 3 vòng.). Nếu người đoán không đúng thì bị phạt ngược lại.
http://quehuongonline.vn/Uploads/LibraryImages/tap-tam-vong.jpg
hungcom
06-14-2015, 09:18 AM
57. THIỀN SƯ BẢN TỊCH (Trước tên là Pháp Mật) (? – 1140)
Chùa Chúc thánh, làng Nghĩa trú, Bình lạc (1). Người Tây kết, họ Nguyễn, hậu duệ của Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ, lấy làm kỳ nói rằng: "Ðứa bé này cốt tướng phi phàm nếu xuất gia, chắc thành hạt giống của Phật pháp".
Ðến khi lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại thọ giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một biết mười, xoa đầu nói rằng: "Chánh pháp phía Nam, đang đợi ông đến xiển dương". Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm (2). Ðến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục ngưỡng mộ.
Ngày 14 tháng 6, mùa hè năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3 (1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng: "Vô sự ! Vô sự !". Nói xong thì mất.
__________________________________________________ ___
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN
(BỐN NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
58.TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ (1067-1142)
Làng Từ liêm, Vĩnh khương(1). Người Cổ giao, Long biên, họ Nguyễn, dòng dõi Tịnh hạnh. Nhỏ không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc thánh.
Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: "Cái gì là ý chính Thiền tôn của các Tổ?". Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: "Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?".
Sư thưa: "Hoà thượng chớ giỡn mãi".
Tịch nói: "Ta chưa từng giỡn bao giờ".
Sư không hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn tuế. Biện Tài hỏi: "Ngươi từ đâu đến đây?"
Sư thưa: "Từ Tịch công đến".
Tài hỏi: "Thầy đó cũng là một bậc thiện trí thức một phương, thế ông ta đã từng nói câu gì?".
Sư thưa: "Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu mà thầy không trả lời, nên con bỏ đi".
Tài hỏi: "Ông hỏi cái gì?".
Sư kể lại chuyện trước.
Tài bảo: "Ôi! Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của ông".
Sư trầm ngâm suy nghĩ.
Tài nói: "Không thấy nói:
Hiểu được khắp nơi đúng,
Không ngộ mãi trái sai?"(2)
Sư bỗng nhiên đốn ngộ, bèn trở về.
Tịch thấy, hỏi: "Ngươi từ đâu đến mau thế?"
Sư lạy nói: :Con có tội hủy báng Hoà thượng, nên đến xin sám hối vậy".
Tịch dạy: "Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?".
Sư đáp: "Xin sám hối như vậy".
Tịch bèn thôi.
Sư thường cùng hai Thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo: "Các ông theo học với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để ta xem mỗi ông tiến đạo như thế nào?".
Nhãn và Như sắp mở miệng thì Sư quát:
"Một màn che mắt
Hoa đốm rối rơi"(3).
Tịch nói: "Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc đo?"(4)
Sư thưa: "Cần gì thuyền"?
Tịch nói: "Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào"
"Ngươi chỉ giải thoát đến việc bên này thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy được".
Sư đáp: "Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi".
Tịch nói: "Buông thả sào trăm thước
Lao đầu một mình đi".(5)
Ngươi hiểu sao?
Sư giơ hai tay lên đáp: "Không nguy hiểm, không nguy hiểm !"
Tịch nói: "Buông đi tức khắc !"
Từ đó, danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137), Sư được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái làm Tăng lục, rồi thăng làm Tăng thống.
Một hôm, đệ tử Pháp Dung hỏi: "Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?"
Sư trả lời bằng bài kệ:
"Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không
Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông
Thiên ngoại tìm tâm khôn định thể
Nhân gian trồng quế há thành tùng?
Càn khôn gom lại đầu sợi tóc
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng(6).
Trước mặt nắm tay dùng việc lớn
Ai hay phàm thánh với Tây Đông".(*)
Nói xong, ngày 25 tháng 01 năm Nhâm Tuất Ðại Ðịnh thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất, thọ 76 tuổi. Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời .
_____________
Chú thích :
THIỀN SƯ BẢN TỊCH
(1)
Tức phần đất thuộc huyện Văn giang và Mỹ hảo,tỉnh Hưng yên ngày nay, bởi vì hai huyện đấy hiện đang có con kinh mang tên Nghĩa trụ chảy qua. Tên Bình lạc xuất hiện từ năm 621, khi Lý Uyên đặt ra Long châu gồm ba huyện Long biên, Vũ ninh và Bình lạc. Xem Tân đường thư 43 thượng tờ 9b13. Ðến thời Lý, nó là tên một đạo, như Ðại Việt sử lược 3 tờ 25b7-8 ghi lại.
Làng Nghĩa trú, chúng tôi cho là làng Nghĩa trang, tổng Sài trang, huyện Ðường hào, trấn Hải dương của Bắc thành địa dư chí lục 2, tức huyện Mỹ hào, tỉnh Hưng yên ngày nay. Những tài liệu Lý, Trần đều có nói ngôi làng này. Ðại Việt sử lược 3 tờ 29a4 gọi nó là một cái ấp, viết: "Năm Kiến Gia thứ 5 (1215) người Nghĩa trú là Chu Ðình đem ấp mình phụ theo Nguyễn Nộn". Tam tổ thực tục tờ 26a4 nói Nghĩa trú còn có một ngôi chùa tên Phổ quang.
(2)
Hữu vô và đốn tiệm là những phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo Trung quốc cũng như Viễn đông. Hữu vô hay có không, nguyên là cặp phạm trù lớn của học thuyết Lão Trang, đấy là thuyết "Hữu vô tương sinh". Xem Ðạo đức kinh tờ 1-2a: "Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu… Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương giảo, cao hạ tương khuynh…" Cặp phạm trù hữu vô đó, tới khi Phật giáo truyền nhập Trung quốc, lại trở thành một trong những cặp phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo, bởi vì, như Ðạo An (312-385) đã viết: "Người xứ đây(tứ c Trung Quốc) giáo thuyết Lão Trang đang thịnh hành… nên nhân theo phong trào mà phát triển".
Còn đốn tiệm, hay mau chậm, là một cặp phạm trù lớn khác do kinh Lăng già giới thiệu vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5, liên quan đến vấn đề người tu đạo có thể tức khắc giác ngộ sự thực toàn diện toàn phần hay chầm chậm giác ngộ từng bước từng phần.
Xem Phật thuyết nhập lăng già kinh tờ 596a23-29. Sự phân biệt đó sau này trở thành tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt để xác định thế giá của hai trường phái thiền lớn của Trung Quốc sau Hoằng Nhẫn, đấy là trường phái thiền của Huệ Năng, thường gọi là Nam đốn, và trường phái thiền của Thần Tú, thường gọi là Bắc tiệm.
(3) Theo Ðại Việt sử lược 3 tờ 3a2 mới có năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3. Theo Toàn thư B4 tờ 1a7 thì năm Kỷ mùi nhằm năm Thiệu Minh thứ 2. Cương mục chính biên 4 tờ 34b4 cũng chép như Toàn thư.
--------------------
TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ
(1)
Tức làng Từ liêm, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.
(2)
Ðại Châu Huệ Hải: "Sư vân: Ðạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a24.
(3)
Phù Dung Linh Huấn: "Sư viết: Như hà bảo nhiệm. Tôn viết: Nhất ế tại nhãn, không hoa loạn trụy". Xem Truyền đăng lục 10, tờ 280c26.
(4)
Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ Ðạo Nhất: "Nước không có gân cốt mà có thể thắng thuyền muôn hộc, lẽ ấy thế nào?". Ðạo Nhất đáp: Trong đó không có nước cũng không có thuyền thì gân cốt là cái gì?".
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 246a26-28.
(5)
Bài kệ của Thiền sư Cảnh Sầm:
"Bách trượng can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tiến bộ
Thập phương thế giới hiện toàn thân."
(Trăm trượng đầu sào kẻ đứng im
Dẫu cho vào được chửa là chân
Trăm trượng đầu sào thêm bước nữa
Mười phương thế giới hiện toàn thân.)
Xem Truyền đăng lục 10 tờ 274b 6-8
(6)
Duy Ma Cật sở thuyết quyển trung tờ 546b25-c18:
"Nhược Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm…Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng phổ sử hiện chi"(**). Xem Ðại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 80 tờ 440c21-22 "Nhất mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới".
---------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
勞生休問色兼空
學道無過訪祖宗
天外覓心難定體
人間植桂起成叢
乾坤盡是毛頭上
日月包含芥子中
大用現前拳在手
誰知凡聖與西東
Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không
Học đạo vô qua phỏng tổ tông
Thiên ngoại mịch tâm nan định thể
Nhân gian thực quế khởi thành tùng
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ
Thuỳ tri phàm thánh dữ Tây Đông.
(**)
"Nhược Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm…Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng phổ sử hiện chi"
Câu này nghĩa là :
"Nếu có Bồ tát chứng đắc pháp môn GIẢI THOÁT này, thì có thể đem cả núi Tu Di to lớn nhét vào trong một hạt cải bé xíu, mà núi Tu Di và hạt cải đều không bị tổn hoại...Lại có thể đem mặt trời mặt trăng và các vì sao của 10 phương Thế Giới Phật (quốc độ) bày ra nơi một lổ chân lông".
hoatihon
06-14-2015, 09:20 AM
Vấn Tổ Tông
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vantotong_zps126f3519.jpg
hungcom
06-14-2015, 09:24 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM
(BA NGUỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
59. THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG
Chùa làng Tháp bát, quận Mãn đẩu(1). Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên hòa núi Chân ma(2). Xuất gia và thọ giới cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được Thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch(3). Trải qua năm năm, chuyên thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Ði tới Nam sách, Sư vào núi Thánh chúa(4) ở cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục.
Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Ðại Thuận thứ 8(5), có nạn dịch lớn , Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia lâm dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.
Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi.
Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:
"Ta có một việc kỳ đặc
Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen
Thiên hạ tại gia xuất gia
Yêu sống, ghét chết là giặc
Không biết sống chết khác đường
Sống chết chỉ là được mất
Nếu bảo sống chết khác đường
Dối lừa Thích Ca, Di Lặc
Nếu biết sống chết, sống chết
Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng
Các ngươi môn nhơn hậu học
Chẳng nhận vòng vo phép tắc".(*)
Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê Kiếm (6)và phòng át sứ Hán Ðinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.
______________
Chú thích :
(1)
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì "Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia lâm tu hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến chầu. Sau ngồi thẳng mà mất".
Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch của An nam chí nguyên và sửa lại một đôi chữ thành "Giới Không người huyện Gia lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch". Nhưng truyện Giới Không ở đây nói Không "người quận Mãn đẩu". Mãn đẩu chưa bao giờ là tên của quận hay huyện Gia lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới Không được mời về ở chùa Gia lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Ðại nam nhất thống chí đã ghi lầm là người Gia lâm. Thế thì, quận Mãn đẩu ở đâu?
Các sách sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn đẩu cả. Về làng Tháp bát thuộc quận này, chúng tôi cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu vậy, Kiến văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: "Các núi của Tuyên quang và Hưng hóa, nơi nơi đều có cây mạn để, lá nó như cây cổ độ tục gọi đát cây to tới hai hay ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì cá chạch đều chết". Chúng tôi nghi, quận Mãn đẩu là nơi có cây mạn để đấy. Mãn đẩu chắc là một ghi âm khác mạn để, hay ngược lại, như Cứu lan của Ðại Việt sử lược đã biến thành Cứu liên của Toàn thư và Thiền uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn Giác. Nếu vậy, quận Mãn đẩu nằm tại tỉnh Tuyên quang ngày nay giữa hai lưu vực sông Chảy và sông Lô.
Xác định quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng Tu hành tại núi Lịch và có môn nhân là Châu mục Phong châu là Lê Kiếm. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Ðỗ Nguyên Chương viết năm Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc minh ỡ làng Mạn để. Làng Mạn để chắc là quận Mãn đẩu còn sót lại.
(2)
Núi Chân ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a3 có ghi một ngọn núi tên Ðán ma thuộc sơn hệ Tam đảo. Chúng tôi nghi Chân ma đó là Ðán ma đó, bởi vì từ Ðán ma đến Lịch sơn không xa lắm. Lịch sơn là núi sau này Giới Không dựng am tu.
(3)
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1: "Núi Lịch tại xã Yên lịch, huyện Sơn dương, khởi từ núi Sư khổng, huyện Ðương đạo mà xuống đến xã đó thì đất bằng bổng nổi lên núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập thành thành Lãng sơn, chi xuống huyện Tam dương thành núi Hoàng chỉ. Trong đó núi Lịch cao nhất. Trên đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động vua Thuấn rất thiêng. Hoa quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng không được mang về. Nếu có ai mang về, họ liền lạc đường, không thể ra được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy xưa có tự điền , để cung cấp cho người giữ đền. Xã Yên lịch ở dưới núi lại có miếu vua Thuấn…"Xem thêm Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên.
(4)
Hang Thánh chúa này là hang núi Kính chúa tại làng Kính chúa huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch môn, làng Dương nham, huyện Kính môn, tỉnh Hải dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện vẫn còn là hang Kính chủ. Bởi vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam sách, mới vào ở hang Thánh chúa. Và Nam sách là tên một lộ đời Trần. An nam chí lược 1 tờ 19 ghi là lộ Nam sách giang. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: "Năm Lê Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Nam sách thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ, gọi đó là Hải dương, Thừa tuyên gồm bốn phủ, tức Thượng hồng, Hạhồng, Nam sách và Kinh môn, lĩnh 18 huyện…" Và Nam sách thừa tuyên hay lộ Nam sách giang theo Dư địa chí đã nổi tiếng với núi Kính chủ, nơi sản xuất đá hoa.
Viết về núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Kính chủ tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, một tên là núi Thắng hóa nham, cao 160 trượng, hang dài 60 trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương nham tử, hướng nam, không biết dựng từ đời nào. Vua Trần Nhân Tôn đánh giặc Nguyên có đóng quân trên núi đó…Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ Thiền sư Minh Không. Hang bên trái dài 7 thước rộng 20 thước thờ Lý Thần Tôn. Thổ nhân tương truyền xưa có một người đánh cá bên sông Kính chủ thấy một tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu tượng có linh, xin giúp cho tôi có nhiều cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn rước tượng lên bờ. Người trong thôn đến xem thì thấy nó nói: "Ta là Lý Thần Tôn, nhân đi chơi mà đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ lấy tháng giêng và tháng 10 làm tháng kỵ".
Sự tích vừa dẫn, dù đầy đủ tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít tại sao ngọn núi Kính chủ hay Thánh chủ đã có tên như vậy. Thêm vào đó, Toàn thư B7 tờ 18b3 ghi: "Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa xuân tháng hai núi ở Trà hương băng". Cương mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng sửa lại là núi Kính chủ, rồi chua như: Kính chủ là Thánh chủ ở tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương.
(5)
Niên hiệu Ðại Thuận, chỉ Ðại Việt sử lược ghi lại, còn Toàn thư và tất cả các sử khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tôn kéo dài từ năm 1128-1132. Như vậy, tất không thể nào có chuyện "năm Ðại Thuận thứ 8" được. Chúng tôi nghi năm Ðại Thuận "thứ 8" chắc là một viết sai của năm Ðại Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Ðại Thuận, cả Ðại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một nạn dịch lớn nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán được. Do thế, chúng tôi vẫn để nguyên như nguyên văn đã có. Có thể năm Ðại Thuận thứ 8 là một chép lộn của năm Ðại Ðịnh thứ 8, nhưng trong khoảng Ðại Ðịnh, các sử vẫn không thấy ghi một nạn dịch nào lớn cả.
(6)
Tức cháu nội của châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn và công chúa Kim Thành và là anh của Thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ truyện Trí Nhàn, thì Kiếm giữ chức Châu mục của Phong châu, chứ không phải một nơi nào khác.
-------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
http://www.truclamtaythien.com/kinhsach-thike/dirs/thamdohienquyet/images/bai14p245.gif
http://www.truclamtaythien.com/kinhsach-thike/dirs/thamdohienquyet/images/bai14p246.gif
Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,
Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.
Thiên hạ tại gia xuất gia,
Thân sanh ố tử vi tặc.
Bất tri sanh tử dị lộ,
Sanh tử chỉ thị thất đắc.
Nhược ngôn sanh tử dị đồ,
Trám trước Thích Ca Di Lặc.
Nhược tri sanh tử, sanh tử,
Phương hội lão tăng xứ nặc.
Nhử đẳng hậu học môn nhân
Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc.
hoatihon
06-14-2015, 09:27 AM
Ta có một việc rất kỳ đặc
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tacomotvieckydac_zps9ad49704.jpg
hungcom
06-14-2015, 09:30 AM
60. THIỀN SƯ PHÁP DUNG(1) (? – 1174)
Chùa Hương nghiêm, núi Ma ni, phủ Thanh hóa. Người Bối lý, họ Lê, là hậu duệ của châu mục Ái châu Lê Lương đời Ðường(2), trải qua 15 đời là một danh tộc của châu đó. cha là Huyền Ngưng, đạo hiệu Tăng phán. Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Ðối vơi kinh vàng kệ ngọc, không gì là không đọc tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia. Hỷ thấy, lấy làm lạ, bèn trao pháp ấn (3). Từ đó, Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Ðến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác tích tại chùa Khai giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò, người học đầy nhà. Sau Sư trở về núi Ma ni, dựng chùa để dưỡng lão.
Ngày mồng 15 tháng 2 năm Giáp ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174)(4), Sư không bệnh mà hóa. Môn nhơn Ðạo Lâm v.v… làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.
_______________
Chú thích :
(1)
Theo bia chùa Hương nghiêm do Hoàng Xuân Hãn phát hiện và dẫn trong Lý Thường Kiệt tr.453-461 thì Dung đúng ra phải có tên Ðạo Dung "nhưng những bản nay còn đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng Ðạo". Thiền uyển tập anh, như một tác phẩm đời Trần, như vậy chắc đổi chữ Ðạo thành chữ Pháp.
(2)
Theo bia chùa Hương nghiêm thì Lê Lương là người đầu tiên dựng chùa Hương nghiêm ở Giáp bối lý vào thời Hậu Ðường (923-937). "Ông thuộc một cự tộc ở quận Cửu chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu rất có thế lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3000 người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật". Ðến khi Ðinh Tiên Hoàng lên ngôi vào năm 968, ông được phong Ái châu Cửu chân đô oai quốc dịch sứ, hàm Kim tử quang lộc đại phu, phong ấp. Ngoài chùa Hương nghiêm ra, bia còn nói ông có dựng chùa Trinh nghiêm và Minh nghiêm nữa, nhưng nay ta chưa tìm thấy chúng. Chúng có thể ở hai làng Nhân lý hay Mỹ lý.
(3) Bia chùa Hương nghiêm: "Ðạo Dung hỏi: "Ðiều gì cốt yếu trong pháp?" Cao tăng trả lời: "Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi". Bỗng nghe Sư thấy trong lòng mở mang, bèn giác ngộ". Xem sđd., tr. 457.
(4)
Hoàng Xuân Hãn, sđd, tr. 460, nhận xét: "Thiền uyển tập anh chép rằng: "Rồi Sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp ngọ 1174 đời Thiên Cảm Chí Báu". Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076 Sư đã ra Thăng long. Nếu sống đến năm 1174, thì Sư phải ít nhất cũng một trăm hai mươi tuổi".
Cứ theo báo cáo của Hãn về cái bia chùa Hương nghiêm này, thì quả thực nó đưa ra khá nhiều vấn đề cho chúng ta về niên đại của Ðạo Dung, bởi vì theo nó thì năm 1076 Dung ra Thăng long gặp Khánh Hỷ, năm 1087 (Hãn sửa lại là năm1077) Dung trở về quê và yêu cầu tùng huynh Lưu Khánh Ðàm sửa lại chùa Hương nghiêm, cùng năm này Dung được vua Lý Nhân Tôn mời ra Thăng long lập đạo tràng trong cung, rồi năm 1122 Dung trở về quê, lại sửa chùa Hương nghiêm để ở. Sửa xong, viết bia đó vào năm 1124. Ðến lúc này, thế nào Dung cũng trên dưới 70 tuổi rồi. Không lẽ nào Dung còn sống thêm 50 năm nữa cho tới năm 1174 mới mất sao? Chúng tôi hiện chưa có nguyên văn cái bia chùa Hương nghiêm này, nên không thể bàn cãi gì thêm. Nhưng cũng cần lưu ý rằng năm Bính thìn 1076 cũng có thể là năm Ðinh mão 1147, và năm Nhâm dần 1122 có thể là năm Canh dần 1170.
__________________________________________________ _________________________________
THẾ HỆ THỨ MƯỜI SÁU (BA NGƯỜI)
61. THIỀN SƯ TRÍ NHÀN (Một tên là Tĩnh Lự) (1)
Am Phù môn, núi Cao dã, Yên lãng. Người Phong châu, họ Lê, tên Thước là miêu duệ của Ngự Man Vương triều Lê. Ông nội là Thuận Tôn làm quan với triều Lý đến chức Trung thư đại liêu ban, lấy công chúa Kim Thành. Cha là Ðạc, làm quan đến chức Minh tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên đô tuần kiểm cùng được bổ làm Châu mục. Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu thư gia.
Năm 27 tuổi, một hôm theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng kinh Kim cang đến câu "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như thế" (2)(*). Sư bỗng nhiên cảm ngộ than rằng: "Năm lời của Như Lai đâu có điêu ngoa. Các pháp thế gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà nho có thể nói tới đạo vua tôi, cha con, còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của Thanh văn, Bồ tát. Hai lời dạy dù khác nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì nếu không phải giáo lý của Ðức Thích Ca, quyết không thể vậy". Bèn xin xuống tóc.
Sau khi đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm thiền định, chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm.
Một hôm Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: "Tất cả chúng sinh đều tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau". Cọp cúi đầu sát đất, tỏ dấu quy y rồi đi.
Về sau, Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của chất thành đống. Mọi Lào gần núi gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi nhà Sư ra đi, thường có con cọp lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm. Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số không thể kể xiết.
Hai triều đại Anh Tôn và Cao Tôn, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc thái úy Tô Hiến Thành và thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:
"Ðã mang chí vượt, dưỡng trong lòng
Nghe nói lời mầu, ý những nương
Tham dục bỏ xa ngoài vạn dặm
Hi di diệu lý ngày bao dung" (3)
Lại nói:
"Ðạm bạc giữ mình
Chỉ đức là việc
Hoặc bảo lời lành
Một câu khăng khít
Lòng không kia, ta
Ðã hết mù mịt
Ngày đêm xuống lên
Không hình bám vít
Như bóng như vang
Không dấu theo vết
Nói xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang rung động cả núi rừng.
________________
Chú thích :
(1)
Cả hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều có "Trí thiền sư". Nhưng Ðạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16a7-8 và Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi tên một vị Thiền sư tên Trí Nhàn, mà chúng mô tả như: "Người huyện Yên lãng, siêng tu hạnh lành, thấy một con cọp đuổi một con hươu bèn bảo: "Tất cả chúng sinh đều tiếc thân mình, mầy chớ hại nhau". Con cọp cúi đầu xuống đất mà đi. Bọn mọi Lào gần núi họp nhau ăn trộm. Sư dẫn dắt khuyên dỗ, phần lớn cảm hóa theo lời sư dạy mà làm lành".
Cứ vào mô tả đó, thì Thiền sư Trí Nhàn của Ðạo giáo lưu nguyên, Ðại nam nhất thống chí, tức "Trí Thiền sư" của Thiền uyển tập anh ở đây, chứ không ai khác, bởi vì không những hợp về quê quán, mà còn hợp về những tình tiết sống khác như chuyện nói chuyện với cọp và chuyện dạy "mọi Lào" đừng ăn trộm. Chúng tôi do thế nghi rằng: "Trí thiền sư" của ba bản in Lê, Nguyễn đã thiếu mất một chữ, đấy là chữ Nhàn, và tên đầy đủ của Trí thiền sư từ đó phải là Trí Nhàn thiền sư. Chỉ có vấn đề là Ðạo giáo nguyên lưu và Ðại nam nhất thống chí đã lấy tài liệu ở đâu đó có thể viết về Thiền sư Trí Nhàn như vậy. Chúng tôi nghi nó lấy từ An nam chí nguyên và đúng là nó lấy ra từ sách đó. An nam chí nguyên 3 tờ 210 chép việc Trí Nhàn giống như Ðại nam nhất thống chí dẫn trên. Từ đó, dĩ nhiên cuốn sách ấy tất phải sử dụng nếu không phải bản in Thiền uyển tập anh xưa nhất thì một tài liệu đã dùng bản in Thiền uyển tập anh trước bản năm 1715 xưa nhất của chúng ta hiện còn. Vì vậy, bản in trước năm 1715 chắc chắn phải có đầy đủ tên Thiền sư Trí Nhàn, chứ không phải cái tên thiếu là Thiền sư Trí, mà bản in năm 1715 do in sót tạo ra, rồi di lụy đến bản in đời Nguyễn.
Chúng tôi do vậy đề nghị bổ sung tên Thiền sư Trí thành Thiền sư Trí (Nhàn), để cho tên các vị Thiền sư ở đây được nhất quán. Thiền sư nào cũng có hiệu do hai chữ ghép lại cả, dĩ nhiên trừ Thiền sư Ấn độ.
(2)
Dẫn kinh Kim cang:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
(3)
Hy Di chi lý, tức đạo lý cao siêu. Ðạo đức kinh chương 14 định nghĩa chữ Hy Di thế này: "Xem mà không thấy, gọi là Di; lắng mà không nghe gọi là Hi" (**)
--------------------
Chú thich của hungcom :
(*)
一 切 有 為 法 , 如 夢 幻 泡 影
nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh
(Tất cả pháp hửu vi như mộng, huyễn, bọt và ảnh)
如 露 亦 如 電 , 應 作 如 是 觀
như lộ diệc như điện ưng tác như thị quán
(như sương cũng như chớp nên thường quán như thế)
(**)
視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希.
Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi.
hoatihon
06-14-2015, 09:32 AM
Như mộng, như huyễn
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/KKC82_zps3165e019.jpg
hungcom
06-15-2015, 08:04 AM
62. THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG (1046-1100)
Chùa Chúc thánh, núi Phổ lại, Phù lan (1). Người Phù đổng, Tiên du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được Sư.
Thuở nhỏ, Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách vở. Ðến năm 18 Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tịnh lự, núi Ðông cứu (2) nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau (3). Nhập thất sáu năm, học hỏi nghiên cứu mỗi ngày một thêm tiến bộ. Sau nhận được tâm ấn. Sư liền đến ở núi ấy theo luật mà tự phòng hộ, không rời khỏi núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.
Vua Lý Nhân Tôn nghe được, xuống chiếu mời Sư vào đại nội để giảng kinh Pháp hoa, thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ thái uý Nguyễn Thường Kiệt, thứ sử Lạng châu là tướng quốc Thân Công (4) càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.
Một lần, có một vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo mầu?"
Sư đáp: "Giác ngộ rồi mới biết"
Tăng hỏi thêm: "Ðối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?"
Sư đáp:
"Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
Thuốc đan đổi cốt được đem về"(*)
Hỏi: "Thế nào là viên thuốc đan?"
Sư đáp:
"Nhiều kiếp ngu si không biết rõ
Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày"(**)
Hỏi: "Thế nào là tỏ bày?"
Sư đáp: "Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà
Tất cả chúng sinh cùng một nhà".(***)
Lại hỏi: "Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y (5). Cái nào là y?"
Sư đáp: "Lửa kiếp (6) lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ trắng mây bay".(****)
Lại hỏi: "Sắc thân tan rã rồi thì sao?"
Sư đáp: "Xuân đến xuân đi nghi xuân hết
Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân"(*****)
Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:
"Ðồng bằng sau cơn lửa
Cây cối mỗi tươi thơm"(******)
Tăng vái lạy.
Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo cảm. Ðến ngày 01 tháng 11 năm Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:
"Trống vắng gốc mầu sáng rực ra
Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà
Người người thảy biết vô vi sướng
Nếu được vô vi mới phải nhà".(*******)
Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:
"Ðạo tâm đã thành
Giáo ta đã hành
Ta theo biến hóa".
Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ, hoàng thái hậu và công chúa Thiên Thành, cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Ðại minh và sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, công bộ thượng thư Ðoàn Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:
"Triều đình thôn dã nức cao phong
Gậy chống như mây gặp hội rồng
Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy
Than dài rừng đạo, đọt tùng buông
Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới
Núi xanh soi nước thấy hình vương
Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ
Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn"
_________________
Chú thích :
(1)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: "Núi Phổ lại tại xã Phổ lại, huyện Quế dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông Lục đầu, cảnh trí khoáng đãng. Trên núi có chùa Chúc thánh, đó là nơi tu hành luyện tinh của Thiền sư Không lộ. Thời Trần, vua quan thường hay đến đó ngâm vịnh….". Xem thêm Ðại nam nhất thống chí tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên. Nay là núi Phả lại tại xã Phả lại, huyện Quế dương, tỉnh Hà bắc.
Một khi đã xác định vị trí của núi Phả lại như thế thì vị trí của chùa Phù lan tất không thể giới hạn theo Cương mục chính biên 1 tờ 27a4 được, bởi vì theo nó thì "Phù lan là tên một trại, nay là xã Phù vệ thuộc huyện Ðường hào, tỉnh Hải dương". Ðất của trại Phù lan đời Lê và Lý, ngoài huyện Ðường hào ra, còn phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện Quế dương và có thể là huyện Chí linh nữa.
(2)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055) dựng chùa Tĩnh lự ở núi Ðông cứu". Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 6a1 viết: "Núi Ðông cứu tại huyện Gia định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng, ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh Dụ Tổ thường đến chơi nơi ấy…". Huyện Gia định năm Minh mạng thứ 1 (1820) đổi làm huyện Gia bình, nên Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Thiên thai tại tây bắc huyện Gia bình 5 dặm, một ngọn đứng cao chót vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa, có thể gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi Ðông cứu một tên là núi Ðông cao".
Vị sư Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không biết một tí gì.
(3)
Qui mộc tương giao. Ðiển rút từ kinh Tạp a hàm: "Trong biển lớn có một con rùa đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló đầu lên một lần. Lại có một khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà trôi đông hay trôi tây. Con rùa mù một trăm năm ló đầu một lần mà gặp lỗ hổng của khúc gỗ đó, thật là khó thay". Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm kinh Niết bàn: "Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời cũng khó. Giống như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ hổng trên khúc cây". Xem Ðại bát niết bàn kinh 2.
(4)
Tức phải chỉ Thân Ðạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình Dương, bởi vì không những Nguyên đồng thời với Lý Thường Kiệt, mà còn vì vợ của Nguyên là công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân Không. Theo Ðại Việt sử lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là Thân Cảnh Nguyên, được Lý Thánh Tôn chọn làm phò mã năm 1059 và 1066 thì chính thức cưới công chúa Thiên Thành. Tục tư trị thông giám trường biên 279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh Phúc, còn Mộng khê bút đàm 2 thì gọi là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao lại có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu sao , Nguyên là một trong những vị tướng lãnh có công đầu trong trận chống quân xâm lược Tống năm 1075.
(5) Thiền sư Ðộng Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà ngộ đạo, bèn làm bài thơ:
"Thiết kỵ tùng tha mích
Thiều thiều dữ ngã cư
Ngã kim độc tự vãng
Xứ xứ phùng đắc cừ".
(Rất kỵ tìm nơi khác
Cùng ta nó luôn đi
Ta nay riêng tự đến
Nơi nơi đều gặp y)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm "nơi nơi đều gặp y" là rút từ bài thơ vừa dẫn.
(6)
Kiếp hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời. Ngọn lửa đấy gọi là kiếp hỏa hay lửa kiếp. Xem A tỳ đạt ma câu xá luận 12. Quan niệm thế mạt đó sau này Thiền tôn mượn để đặt thành công án. Công án thứ 29 của Bích nham lục đặt vấn đề thế này: "Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu hoại, thì cái gì hoại, cái gì không hoại?". Xem Bích nham lục 3 tờ 169a 17-18.
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Nhược đáo tiên gia thâm động nội
Hoàn đan hoán cốt đắc hoài qui
(Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
Thuốc đan thay cốt được mang về)
(**)
Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
Kim thần nhất ngộ đắc khai minh
(Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
Kim thần nhất ngộ đắc khai minh)
(***)
Khai minh chiếu triệt sa hà giới
Nhất thiết chúng sinh cộng nhất gia.
(Khai minh chiếu khắp cõi ta bà
Hết thảy chúng sinh đều một nhà.)
(****)
Kiếp hỏa động nhiên hào mạt tận
Thanh sơn y cựu bạch vân phi
(Lửa kiếp lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ trắng mây bay)
(*****)
Xuân lai, Xuân khứ, nghi Xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị Xuân
Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết
Hoa nở, hoa tàn, ấy vẫn xuân.
(******)
Bình nguyên kinh hỏa hậu
Thực vật các thủ phương.
(Đất bằng sau cơn lửa
Cây cối đượm hương thơm.)
(*******)
妙本虛無日日誇,
和風吹起遍沙婆。
人人盡識無為樂,
若得無為始是家。
Diệu bản hư vô nhật nhật khoa,
Hoà phong xuy khởi biến sa bà.
Nhân nhân tận thức vô vi lạc,
Nhược đắc vô vi thuỷ thị gia.
hoatihon
06-15-2015, 08:09 AM
Nhất Như
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhatnhu_zps6bff2124.jpg
hungcom
06-15-2015, 08:14 AM
63. THIỀN SƯ ÐẠO LÂM (? – 1203)
Chùa Long vân, làng Siêu loại, Long phước (1). Người Cửu cao, Chu diên (2), họ Tăng sớm mộ Không tôn (3), chỉ hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp Dung chùa Hương nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều năm, mật nhận tâm ấn, bèn được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi người không ít.
Ðến tháng 5 năm Quý hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.(4)
_________________
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BẢY
(CÓ BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
64.THIỀN SƯ DIỆU NHÂN (1042-1113)
Viện Hương hải, làng Phù đổng, Tiên du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Yết Vương (1), bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tôn nuôi ở trong cung. Ðến tuổi cập kê, vua gả cho thâu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự thề ở vậy giữ nghĩa không tái giá.
Một hôm than rằng: "Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn phù vinh có thể nương tựa được sao?"
Do đó, đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân Không tại làng Phù đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho phép trụ trì tại ni viện. Cô giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là bậc tôn túc trong hàng ni chúng. Có ai đến cầu học, cô tất đem Ðại thừa ra giảng dạy và nói: "Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà thể nhập, hãy thường tịch tịnh, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ"
Có học trò hỏi: "Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh (2), sao gọi là khi nào cũng tránh xa thanh sắc?"
Cô đem giáo nghĩa đáp: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không thể thấy Như Lai" (3)(*)
Lại hỏi: "Sao gọi là ngồi yên" (4)
Cô đáp: "Xưa nay không đi"
Lại hỏi: "Sao gọi là không lời?"
Cô đáp: "đạo vốn không lời".
Ngày 01 tháng 6 năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 4 (1113), cô cáo bệnh (5) nói kệ:
"Sinh, già, bệnh, chết
Từ xưa thường vậy
Muốn cầu thoát ly
Cởi trói thêm buộc
Mê mới tìm Phật
Lầm mới cầu thiền
Thiền Phật chẳng tìm
Ngậm miệng không nói" (6)(**)
Bèn gội tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.
___________________
Chú thích :
THIỀN SƯ ÐẠO LÂM
(1)
Cái tên Long Phúc được nhắc tới hai lần trong Thiền uyển tập anh một ở đây và một ở truyện Y Sơn tờ 70b1. Cứ vào thành phần cấu tạo nên nó, tức làng Siêu loại và Ðại thông trường, ta có thể xác định phần đất đó thuộc gồm hai huyện Siêu loại và Gia bình đời Nguyễn, tức huyện Thuận thành và phần bắc huyện Gia lương, tỉnh Hà bắc hiện nay.
(2)
Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: ‘Huyện Chu diên đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Ðường đổi làm Diên châu, đời Lê là phủ Tam đái, nay tức là đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây". Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Ðường thơ 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất quận Vũ bình thời trước. Mà ta đã khảo ra đất quận Vũ bình rơi vào khoảng tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực. Ngoài ra Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam, trị phủ Giao châu, nghĩa là đóng phía nam thành phố Hà nội ngày nay. Chi tiết này Ðộc sử phương dư kỷ yếu cũng chép y lại. Như vậy Chu diên chắc phải nằm phía đông nam thành phố Hà nội, nhưng nó gồm phần đất những huyện nào?
Truyện Ðạo lâm đây nói Lâm "người Cửu cao, Chu diên". Mà cứ Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi ba người đỗ tiến sĩ xuất thân từ làng Cửu cao "hạt Gia lâm". Ðây là Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 và Nguyễn Di khoa năm1532. Làng Cửu cao này đến khoảng năm 1685 thì đổi thành làng Thượng tốn bởi vì khoa năm đó có Ðỗ Công Bật "người hạt Thượng tốn", đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đến con của Bật là Ðỗ Công Ðỉnh cũng là đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa 1706 và Ðỉnh lại ghi là người làng Thượng tốn hạt Gia lâm. Mà ta biết làng Thượng tốn là làng Cửu cao đổi ra, vì Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục khi nói Trần Văn Bính là người làng Cửu cao, thì có chua thêm tức làng Thượng tốn.
Như vậy, làng Cửu cao, Chu diên nay là làng Thượng tốn, huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Ðịa phận của Chu diên do thế phải ăn thâm vào phần đất của huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Vùng Chu diên xưa từ đó có thể gồm phần đất của những huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh và huyện Ðông yên, tỉnh Hưng yên ngày nay.
(3)
Tức chỉ Phật giáo, bởi vì toàn bộ tư tưởng Phật giáo được xếp thành hữu tôn, Không tôn và Tánh tôn mà Tánh tôn lại bao hàm cả hữu lẫn không tôn. Nhưng Tánh tôn và Không tôn lại bị "các Thiền gia lộn cho là cùng một tôn, một giáo", nên Phật giáo gọi là không tôn. Xem Tôn cảnh lục 34 tờ 616a6-617a4.
(4)
Truyện Tịnh Thiền tờ 68a7 nói: "Ðến khi Lâm mất rồi, Thiền bèn đi khắp chốn thiền tìm bạn học thêm". Mà Thiền mất vào năm 1139. Như vậy Lâm tối thiểu cũng phải mất trước năm đấy chừng mười năm, chứ đâu lại có chuyện mất vào năm 1203, nghĩa là sau khi Thiền chết những mười năm. Lại thêm vấn đề, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu chỉ thấy ở Toàn thư B4 tờ 22b8 và 23a5, trong khi Ðại Việt sử lược 3 tờ 14a1 v.v… viết là Thiên Tư Bảo Hựu. Chúng tôi do thế nghi rằng có thể người hiệu đính bản in năm 1715 đã sửa thêm niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu đấy vào, mà là tự nguyên ủy có thể là Thiên Cảm Chí Bảo hay Chính Long Bảo Ứng. Vấn đề niên đại các vị sư ở đây thật là nan giải. Trừ khi tìm thêm những bia văn mới, ta mới có thể giải quyết một phần nào.
Chúng tôi hiện biết tính chất ngược ngạo phi lý của niên đại 1203 đấy, nhưng không thể đề nghị một cách có căn cứ một niên đại giả thiết nào mới, vì niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 đã nhằm đúng năm can chi của nó, tức năm Quý hợi, như Toàn thư đã có. Dẫu sao, ta phải giả thiết Lâm phải mất trước Thiền khoảng mười năm, tức có thể khoảng năm 1175.
---------------
NI SƯ DIỆU NHÂN
(1)
Tức Phụng Càn Vương, tước của Lý Nhật Trung do cha là Lý Thái Tôn phong vào năm 1035. Chữ Càn vì húy đời Trần, nên đổi ra chữ Yết. Toàn thư B6 tờ 30a2-3: "Cửa Cần, trước gọi là Càn, vì tránh húy nên làm Cần".
(2)
Duy ma cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 544b21: "Dĩ nhất thiết chúng sanh bệnh, thị cố ngã bệnh".
(3)
Kim cang kinh:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai".
(4)
Yến tọa, ngồi tĩnh lặng tư duy. Ở đây ám chỉ thiền thoại Tu Bồ Ðề yến tọa mà các thiền gia thường nhắc tới như sau: "Tu Bồ Ðề yến tọa trong một đống đá. Chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: "Trong hư không làm mưa hoa tán thán là ai đó?" Thiên trả lời: "Tôi là Phạm Thiên. Tôi tôn trọng Tôn giả khéo nói bát nhã ba la mật đa". "Ta đối với Bát nhã chưa từng nói một chữ, làm sao ngươi tán thán?" Thiên nói: "Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nghe, không nói ấy là một chân thật về Bát nhã". Xem Giáo ngữ lục tờ 680a5.
(5)
Toàn thư B3 tờ 16a7-9: "(Hội Tường Ðại Khánh) năm thứ 4 (1113) mùa hạ tháng 6, phu nhân Châu mục châu Chân đăng công chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều là con gái lớn của Phụng Càn Vương. Thánh Tôn nuôi trong cung đến lớn, gả cho châu mục họ Lê Châu chân đăng. Họ Lê chết, cô tự thề ở góa, rồi xuất gia làm Ni. Ðến đó mất, thọ 72 tuổi. Thần Tôn tôn hiệu là Ni sư".
(6)
Bài kệ này Thái tôn hoàng đế ngự chế khóa hư quyển hạ tờ 33b 1-4 có chép và nói là bài kệ khuyên chúng của Trần Thái Tôn:
Sinh lão bệnh tử
Lý chi thường nhiên
Dục cầu giải thoát
Giải phược thiêm triền
Mê nhi cầu Phật
Hoặc nhi cầu thiền
Thiền giả bất cầu
Ðổ khẩu vong ngôn.
Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản Thiền uyển tập anh ở đây. Với những chữ khác ấy, chúng tôi nghĩ rằng Trần Thái Tôn đã lấy lại bài kệ thị tịch của Ni sư Diệu Nhân, rồi đổi một vài chữ, để làm của mình, nhất là khi quan niệm "nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân" (mỗi hồi nêu ra, mỗi hồi mới) của các Thiền gia đời Trần đối với các công án cũ rất là phổ biến. Trần Nhân Tôn, khi có người hỏi sao mình cứ lập lại các công án cũ của người xưa như thế, đã trả lời: "Nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân"
----------------
Chú thích của hungcom :
(*)
若 以 色 見 我 _ 以 音 聲 求 我
nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã
Nếu lấy sắc thấy Ta, hoặc lấy tiếng cầu Ta
是 人 行 邪 道 _ 不 能 見 如 來
thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai
người ấy hành tà đạo, chẳng thấy được Như Lai
(**)
生 老 病 死,
自 古 常 然。
欲 求 出 離,
解 縛 添 纏。
迷 之 求 佛,
惑 之 求 禪。
禪 佛 不 求,
杜 口 無 言。
Sinh lão bệnh tử,
Tự cổ thường nhiên.
Dục cầu xuất ly,
Giải phược thiêm triền.
Mê chi cầu Phật,
Hoặc chi cầu Thiền.
Thiền Phật bất cầu,
Đỗ khẩu vô nghiên (ngôn).
hoatihon
06-15-2015, 08:16 AM
Nhược dĩ sắc kiến Ngã
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/KKC71a_zps70271074.jpg
hoatihon
06-15-2015, 08:20 AM
Sinh Lão Bệnh Tử
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/sinhlaobenhtu_zps28e115bd.jpg
hungcom
06-15-2015, 08:21 AM
65. Thiền sư VIÊN HỌC (1073 – 1136)
Chùa Ðại an quốc, làng Cổ hạnh, Tế giang (1). Người Như nguyệt (2), họ Huỳnh. Nhỏ học sách đời, đến tuổi đội mũ, đi học nội điển (3), nhân nghe một câu nói của Chân Không, tâm địa bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ ấy, Thiền học cao vút, luật nghi không ngại, thân mặc một áo suốt mùa lạnh nóng, bình bát tích trượng mang theo bên mình, tùy phương khai hóa; cho đến sửa cầu, đắp đường, không việc nào là không xung phong trước. Sau, Sư về làng Phù cầm(4), trùng tu chùa Quốc thanh và đúc chuông. Thường có bài kệ duyên hóa sau:
"Sáu thức (5) thường mê đêm trọn khổ,
Vô minh che khuất mãi lưỡi(*) buông
Sớm tối nghe chuông khơi giác ngộ
Thần lười diệt sạch được thần thông". (**)
Ngày 14 tháng 6 mùa hè năm Bính thìn Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), Sư thị tịch, thọ 64 tuổi. Các môn đệ Ngô Thông Thiền (6), Lưu Vương Nhân, Lữ Pháp Hoa và Châu Diệu Dụng thu di cốt, xây tháp để thờ.
_______________
Chú thích :
(1)
Tức huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thuần Chân.
(2)
Tức làng Như nguyệt, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Nó không phải là lộ Như nguyệt giang, Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 ghi làng Như nguyệt như là quê của Hứa Tam Tỉnh tiến sĩ khoa 1558.
(3)
Chỉ kinh điển Phật giáo. Nhị giáo luận của Ðạo An trong Quảng hoằng minh tập 8 tờ 136c11-16 viết: "Cổ cứu hình chi giáo, giáo xưng vi ngoại, tế thần chi điển, điển hiệu vi nội… Thích giáo vi nội, Nho giáo vi ngoại".
(4)
Tức làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Minh Trí.
(5)
Sáu thức tức sáu thứ nhận thức do sáu giác quan đem lại, đây là nhận thức của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ý.
(6)
Ngô Thông Thiền đây không phải là Cư sĩ Thông Thiền, thầy của Tức Lự, thuộc phái Kiến sơ.
--------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Có lẻ là chữ lười (đã bị gõ sai)
(**)
Lục thức thường hôn chung dạ khổ,
Vô minh bị phú cửu mê dung.
Trú dạ văn chung khai giác ngộ,
Lãn thần tịnh sát đắc thần thông.
hungcom
06-15-2015, 08:22 AM
66. THIỀN SƯ TỊNH THIỀN (1121 – 1193)
Chùa Long hoa, làng Cổ giao, Long biên. Người làng Cổ giao, họ Phí, tên Hoàn. Ban đầu, cùng với bạn đồng học là Tịnh Không thờ Ðạo Lâm chùa Long vân làm thầy. Hằng ngày miệt mài học hỏi, sâu hiểu lẽ huyền, Lâm biết Sư sẽ là pháp khí, nên ban hiệu và ấn chứng rằng: "Tịnh là tịnh trí diệu viên, Thiền là thiền tâm thường tịch". Ðến khi Lâm tịch rồi, Sư bèn đi khắp chốn thiền, tìm bạn học thêm. Lúc duyên đạo đã thuần, bèn tìm về làng cũ, trùng tu chùa Long hoa. Ngoài lúc khảo sát thiền luật, Sư luôn nghĩ đến việc lợi tha.
Ngày 12 tháng 8 mùa thu năm Quí sửu Thiên Tư Gia Tự thứ 6 (1193) Sư thị tịch, thọ 73 tuổi. Môn đồ là Pháp Ký soạn văn bia tại chùa có nói:
Sư sinh đời Lý
Ra gặp thời minh
Lục độ (1) há quên
Tứ hoằng (2) không bỏ
Chén thơm chỗ nổi
Mười phương tín chủ sóng về
Gậy tích khi khua
Bốn chúng học đồ mây nhóm
Thần thông khôn tính
Huyền dụng khó lường
Nếu chẳng đến Phật giác trường
Ðâu hay thảnh thơi nghiệp tốt.
Quả đúng:
Trời Thích trăng báu
Vườn Pháp thôn thiêng.
_____________
Chú thích :
(1) Tức sáu cái giúp ngừơi ta vượt bến khổ đau, cũng gọi là ba la mật(*), đấy là bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
(2) Tức tứ hoằng thệ nguyện, "Bốn thệ nguyện lớn", đấy là chúng sanh vô số lường thệ nguyện đều độ khắp, phiền não vô cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch, pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thệ nguyện đạt viên thành(**). Ðấy là bốn lời nguyện tổng quát của Ðại thừa. Xem Tâm địa quán kinh 7 và Vãng sanh yếu tập quyển thượng.
-------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Dịch giả đã sai khi viết "cũng gọi là Ba La Mật".
Thực ra Lục độ khác với Lục độ Ba La Mật.
Nam Tông vẫn có thực hành Lục độ, nhưng không hề biết đến Lục độ Ba La Mật.
Lục độ Ba La Mật khác với Lục độ ở chỗ :
1. Bố thí Ba La Mật là khi bố thí (cho) thì hành giả vô tâm mà bố thí, nghĩa là không thấy "mình là người bố thí, còn kia là đối tượng thọ thí, này là vật bố thí". Bởi thông thường chúng ta hay còn giữ lại trong ký ức những việc tốt đã từng làm, rồi lấy đó làm một "vầng hào quang" bao quanh cái TÔI (vốn là Không), cái "vầng hào quang" này cũng là cái giữ chúng ta ở lại trong Sanh Tử Luân Hồi. Hay nói khác đi, nó cũng là một yếu tố giúp cho hành giả Sinh Thiên. Còn có tâm phân biệt đây là vật bố thí, kia là người thọ thí, cũng khiến cho hành giả không rời được cảnh Giả.
2. Trì giới Ba La Mật cũng tương tự. Hành giả hồn nhiên sống theo giới luật mà không hề thấy có mình giữ Giới, có Giới để giữ.
3. Nhẫn nhục Ba La Mật là thấy tất cả mọi trở ngại khó khăn chỉ là chuyện bình thường, cho nên không hề nghĩ rằng mình đang tu hạnh Nhẫn nhục.
4. Tinh tấn Ba La Mật là không có một phút giây nào sống buông thả, giống như lúc nào cũng đang ở trong Chân Lý.
5. Thiền định Ba La Mật là hành giả không luận đi đứng nằm ngồi, nói năng gì Tâm cũng luôn ổn định, mà không hề thấy có Thiền Định gì.
6. Trí Tuệ Ba La Mật là sự sáng suốt thường trực nhận rõ tất cả pháp môn, Giáo lý Phật pháp, lại biết phương tiện thiện xảo để giúp người mau tiến bộ.
(**)
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ—Tức là Nguyện độ thoát tất cả chúng sinh.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn —Tức là Nguyện đoạn tuyệt với tất cả phiền não.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học —Tức là Nguyện tu học tất cả Phật pháp.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành —Tức là Nguyện tu học làm theo Phật pháp cho đến khi nào Toàn Giác mới thôi.
hungcom
06-15-2015, 08:23 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI TÁM
(CÓ HAI NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
67. QUỐC SƯ VIÊN THÔNG (1080 – 1151)
Chùa Quốc ân, làng Cổ hiền, Nam định. Người Cổ hiền, họ Nguyễn tên Nguyên Ức. Sau về ngụ tại phường Thái bạch kinh thành Thăng long, nhân thể làm nhà ở đó. Dòng dõi làm Tăng quan. Cha là Huệ Dục làm quan triều vua Lý Nhân Tôn đến chức Tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác Thiền sư (1). Sư bẩm tính thông minh, tài học tinh diệu, sớm có chí xuất trần, thường gặp Viên Học chùa An quốc, nhân đó mà được yếu chỉ. Năm Hội Phong thứ 6 (1197), đỗ Giáp khoa khoa thi tam giáo được sung vào chức Ðại văn. Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1106), vua chọn những bậc hoằng tài trong thiên hạ, để bổ vào chỗ khuyết trong giai Tăng đạo, Sư lại đứng đầu trong kỳ thi tuyển này, Vua càng cho là lạ, sắp đem trao Sư quyền hành chăn dân. Sư cố từ không được, bèn nhận chức Nội cung phụng truyền giảng pháp sư.
Từ đó, Sư tùy cơ diễn hóa, chỉ bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê trừ việc dốt, quyết không để vết. Những kẻ thọ nghiệp với Sư đều được hiển danh đương thời.
Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127), chùa Trung hưng diên thọ làm xong, vua sai Sư soạn văn bia. Vua kính trọng tài Sư, nên đổi Sư làm Tả nhai tăng lục. Năm Ðại Thuận thứ 3 (1130), Lý Thần Tôn mời Sư vào điện Sùng Khai. Vua hỏi về lý trị loạn hưng vong trong thiên hạ.
Sư đáp: "Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Ðó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy".
Lại đáp: "Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn. Thần từng xem qua các triều vua chúa đời trước, chưa từng có triều đại nào, không dùng bậc quân tử mà được thịnh, không dùng kẻ tiểu nhân mà suy. Cho đến nỗi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một chiều, mà chỗ do lai đã lâu lắm vậy (2). Trời đất không thể bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có xuân thu. Ðấng nhân quân (không thể) bỗng nhiên trở nên hưng vong, tất là từ từ có thiện, ác. Thánh chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái đức không nghỉ của đất để yên người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hãi tựa leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng, trái thế thì không gì là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong, chính ở nơi đây vậy".
Sư đối đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai tăng thống tri giáo môn công sự. Sư được tự do gần vua, dâng lời chỉ bảo, chưa tùng thiếu sót. Sau đó, Sư phụng chiếu đến đền Tây dương cầu giữ thai vua có ứng nghiệm. Do đó vua càng thêm kính trọng, ban cho Sư khi vào triều được đứng ngang hàng với Thái tử.
Năm Thiên Chương Gia Thụy thứ 5 (1137), xe vua gác giá (3) Sư dự nhận cố mạng và phụng di chiếu, chủ trì mọi việc bàn tính phó thác.
Năm Thiệu Minh thứ 1 (1137), Anh Tôn khi đã lên ngôi, Thái hậu nhiếp chính, cho Sư đã có công giúp vua, và nhiều lần trọng thưởng. Sau đó, Sư về lại quận mình lập chùa dưỡng già. Phí tổn xây dựng đều do quỹ Vua ban cấp, đồng thời ban chữ (4) để chùa thêm sang.
Năm Ðại Ðịnh thứ 4 (1143) Vua thăng Sư giữ chức tả hữu nhai Tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự truyền giảng Tam tạng văn chương ứng chế hộ quốc quốc sư tứ tử y đại sa môn. Ðức vua đã trọng Sư, nên quần thần càng trọng vọng hơn nữa. Từ triều đình đến thôn dã cũng đều như thế.
Ngày 21 tháng 4 nhuần năm Tân mùi Ðại Ðịnh (1151), Sư nhóm đồ chúng từ biệt, không bệnh mà mất, thọ 72 tuổi. Sư thường phụng chiếu biên soạn Chư Phật tích duyên sự hơn 30 quyển, Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục hơn 50 quyển và thi phú hơn nghìn bài lưu hành ở đời.
______________
Chú thích :
(1)
Thiền sư Bảo Giác, cha của Viên Thông đây chắc không phải Bảo Giác chùa Viên minh, vị thầy của Tịnh Giới, mà truyện Tịnh Giới tờ 33b3 nói tới. Xem chú thích (4) truyện Tịnh Giới. Bảo Giác cũng không phải là tác giả những tác phẩm Chư Phật tích duyên sự, Tăng gia tạp lục và Viên Thông tập, như Văn nghệ chí của Lê Quí Ðôn đã ghi. Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Viên Thông tập là của Bảo Giác thôi.
(2)
Dẫn Chu dịch: "Quẻ khôn" "Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ do lai tiệm hỷ". (Tôi giết vua, con giết cha, không phải chuyện một sớm một chiều mà nguồn gốc nó đã có từ lâu lắm). Xem Chu Dịch 1 tờ 7a1.
(3)
Nguyên văn: Cung xa yến giá. Hợp từ dùng trong truyện Phạm Huy của Sử ký, mà Bùi Ân dẫn Ứng Thiệu và Vỹ Chiêu viết: "Ứng Thiệu nói: "Thiên tử phải ban sáng dậy làm việc sớm, như vừa băng hà, nên gọi nghỉ xe". Vỹ Chiếu nói: "Hễ vừa mới băng hà thì là muộn giá, vì lòng thần tử còn muốn nghỉ xe vua đang buộc ngựa nên ra muộn".
(4) Nguyên văn: Thần du, chữ du ở đây nghi là một nét sai của chữ hàn vì dạng chữ chúng khá giống nhau. Thần hàn như vậy có nghĩa là (chữ do bút vua viết). Ðiều này có nghĩa chùa của Viên Thông có được ngự bút của Anh Tôn, để thêm sang quí.
hungcom
06-15-2015, 08:25 AM
THẾ HỆ THỨ MƯỜI CHÍN – HAI MƯƠI
(MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
68. THIỀN SƯ Y SƠN (? – 1216)
Chùa Ðại từ, Ðại thông trường, Long phúc. Người Cẩm hương, Nghệ an, họ Nguyễn, Sư mặt mày đẹp đẽ, ăn nói hoạt bát, Thuở nhỏ đi học, coi khắp thư sử, chọn bạn, lựa nghề tất nhằm hữu ích. Nhưng đối với kinh điển Tây trúc, Sư hết sức lưu tâm. Năm 30 tuổi sư xuất gia với một vị Trưởng lão trong làng, sau đến kinh thành tham bái Quốc sư Viên Thông, nhờ một lời nói, đạt được yếu chỉ.
Từ đấy, Sư tùy nơi đi giáo hóa, chỉ nhằm lợi người. Vật do người cúng Sư đều dùng vào việc Phật. Sư có làm bài văn khuyên người:
Ham danh chuộng lợi
Ðều như bọt nước trôi sông
Kết phúc gieo duyên
Ấy là trong lòng hoài bão.(*)
Ðến lúc tuổi già, Sư dời về làng Yên lãng trụ trì chùa Nam mô, thường dạy đồ chúng rằng: "Các ngươi nên biết, Như Lai thành Chánh giác, đối với tất cả nghĩa lý, không còn có chỗ xem xét. Ðối với các pháp bình đẳng, không có gì nghi hoặc, không hai, không tướng, không đi, không đứng, không lường, không hạn, xa lìa hai bên, ở nơi trung đạo, vượt khỏi hết thảy văn tự, ngôn thuyết, truyền được thân lượng bằng hết thảy chúng sanh, được thân lượng bằng hết thảy mọi cõi, được thân lượng bằng hết thảy tam giới, được thân lượng bằng hết thảy Phật, được thân bằng hết thảy ngôn ngữ, được thân lượng bằng hết thảy nguyện, được thân lượng bằng hết thảy hành, được thân lượng bằng hết thảy tịch diệt" (1).
Lại nói rằng:
"Như Lai thành chánh giác
Hết thảy lượng đẳng thân
Hồi hổ không hồi hổ
Ðồng tử mắt sáng thần"(**)
Lại nói:
"Chân thân thành vạn tượng
Vạn tượng tức chân thân
Cung trăng xanh quế đỏ
Quế đỏ tại cung trăng".(***)
Khi sắp thị tịch, Sư gọi môn đồ dạy: "Ta không trở lại đây nữa". Bấy giờ, hoa trên cây trước chùa tự nhiên rơi rụng, chim sẻ kêu bi thương suốt ba tuần không dứt.
Ngày 18 tháng 3 năm Bính tý Kiến Gia thứ 6 (1216) Sư mất.
________________
Chú thích :
(1)
Ðại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 274c29-275a17: "Phật tử bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thành chánh giác ư nhất thiết nghĩa, vô sở quán sát, ư pháp bình đẳng, vô sở nghi hoặc, vô nhị vô tướng, vô hành vô chỉ, vô lượng vô tế, viễn ly nhị biên, trú ư trung đạo, xuất quá nhất thiết văn tự ngôn thuyết (…), đắc nhất thiết chúng sanh lượng đẳng thân, đắc nhất thiết tam thế lượng đẳng thân, đắc nhất thiết Phật lượng đẳng thân, đắc nhất thiết ngữ ngôn lượng đẳng thân, đắc chân như lượng đẳng thân, đắc pháp giới lượng đẳng thân, đắc hư không giới lượng đẳng thân, đắc vô ngại giới lượng đẳng thân, đắc nhất thiết nguyện lượng đẳng thân, đắc nhất thiết hành lượng đẳng thân, đắc tịch diệt Niết bàn giới lượng đẳng thân".
---------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Đây là 2 câu đối :
釣 名 嗜 利,皆 如 水 上 浮 鷗。
植 福 種 緣,盡 是 胸 中 懷 寶。
Điếu danh thị lợi, giai như thuỷ thượng phù âu.
Thực phúc chủng duyên, tận thị hung trung hoài bão.
Câu danh chài lợi, đều như bọt nổi trên sông.
Kết phúc gieo duyên, ấy là tâm nguyện của ta.
(**)
Như Lai thành chính giác,
Nhất thiết lượng đẳng thân.
Hồi hỗ bất hồi hỗ,
Nhãn tình đồng tử thần.
(***)
真 身 成 萬 象,
萬 象 即 真 身。
月 殿 榮 丹 桂,
丹 桂 在 一 輪。
Chân thân thành vạn tượng,
Vạn tượng tức chân thân.
Nguyệt diện vinh đan quế,
Đan quế tại nhất luân.
hoatihon
06-15-2015, 08:28 AM
Tâm nguyện
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/dieudanhthiloi_zpse8ee4aff.jpg
hoatihon
06-15-2015, 08:31 AM
Chân Tịnh Độ
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Chantinhdo_zps40454302.jpg
hoatihon
06-15-2015, 08:33 AM
Chân Thân
http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Chanthan_zps0d50db21.jpg
hungcom
06-15-2015, 08:36 AM
HỆ PHÁI CỦA THIỀN SƯ THẢO ÐƯỜNG
69. THIỀN SƯ THẢO ÐƯỜNG (1)
Chùa Khai quốc (2), kinh thành Thăng long. (Truyền tôn phái của Tuyết Ðậu Minh Giác) (3)
THẾ HỆ THỨ NHẤT (BA NGƯỜI)
70.HOÀNG ÐẾ LÝ THÁNH TÔN
71. THIỀN SƯ BÁT NHÃ (4)
Chùa Từ quang, Phúc khánh (5) Làng Dịch vương, Trương canh (6).
72. CƯ SĨ NGỘ XÁ
Làng Bảo tài (7), Long chương {Ba vị trên đều thừa kế Thiền sư Thảo Ðường}
THẾ HỆ THỨ HAI (BỐN NGƯỜI)
73. THAM CHÁNH NGÔ ÍCH {Thừa kế Hoàng đế Thánh Tôn}
74. THIỀN SƯ HOÀNG MINH
Làng An lãng (8), Vĩnh hưng {Thừa kế Thiền sư Bát Nhã}
75. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
Chùa Quang nghiêm, Hải thanh (9)
76. THIỀN SƯ ÐỊNH GIÁC
{Tức Giác Hải, hai vị trên đều thừa kế Ngộ Xá, bản truyện của họ dựa theo Nam tôn đồ, đều đặt vào phái Kiến sơ}
THẾ HỆ THỨ BA (BỐN NGƯỜI)
77. THÁI PHÓ ÐỖ VŨ (10)
{Thừa kế Tham chánh hoặc có nơi nói thừa kế Ðịnh Giác}
78. THIỀN SƯ PHẠM ÂM
Làng Thanh oai (11), An la {Thừa kế Thiệu Minh}
79. HOÀNG ÐẾ LÝ ANH TÔN
80. THIỀN SƯ ÐỖ ÐO
{Hai vị trên đều thừa kế Không Lộ hoặc có nơi nói thừa kế Ðịnh Giác.
THẾ HỆ THỨ TƯ (BỐN NGƯỜI)
81. THIỀN SƯ TRƯƠNG TAM TẠNG
(Thừa kế Phạm Âm có nơi nói thừa kế Không Lộ, hoặc có nơi nói thừa kế Ðịnh Giác).
82. THIỀN SƯ CHÂN HUYỀN
83. THÁI PHÓ ÐỖ THƯỜNG (12)
{Ba vị trên đều thừa kế Ðỗ Ðô hoặc có nơi nói thừa kế Thiền sư Tịnh Giới phái Kiến sơ (13)
THẾ HỆ THỨ NĂM (BỐN NGƯỜI)
84. THIỀN SƯ HẢI TỊNH (14)
85. HOÀNG ÐẾ LÝ CAO
86. Xướng Nhi Quản Giáp NGUYỄN THỨC
{ba vị trên đều thừa kế Trương Tam Tạng}
87. PHỤNG NGỰ PHẠM ÐẲNG
{Thừa kế Chân Huyền, hoặc lại nói thừa kế Ðỗ Thái phó}
Hết Quyển Hạ
hungcom
06-15-2015, 08:40 AM
Chú thích :
69. THIỀN SƯ THẢO ÐƯỜNG
(1)
An nam chí lược 15 tờ 147 viết: "Thảo Ðường theo Sư phụ đến sống khách ở Chiêm thành. Xưa Lý Thánh Vương đi đánh Chiêm thành, bắt được, đem cho vị Tăng lục làm đứa ở. Vị Tăng lục viết Ngữ lục, để trên bàn mà đi, Sư lén sửa lại. Vị Tăng lục lấy làm lạ về đứa ở, đem tâu vua. Vua bèn phong làm Quốc sư".
An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: "Thiền sư Thảo Ðường, rất có đạo hạnh, biết rành sách Phật, vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi thẳng mà mất". Vua Lý đây tức Lý Thánh Vương của An nam chí lược mà Lý Thánh Vương đấy tức Lý Thánh Tôn. Cứ Ðại Việt sử lược 2 tờ 13b3-14a8 và Toàn thư B3 tờ 4b7-5a2 thì suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi chinh phạt Chiêm thành một lần vào năm Thần Vũ thứ nhất (1069). Việc bắt được Thảo Ðường chắc chắn xảy ra vào năm đó. Còn Thảo Ðường được phong làm Quốc sư có lẽ vào năm 1070, hay cùng lắm là năm 1071, bởi vì đầu năm 1072, tức tháng giêng năm Thần Vũ thứ 4, Lý Thánh Tôn bị bệnh nặng rồi mất luôn. Vị Tăng lục, ngày nay ta chưa biết đích xác là ai. Rất có thể là Huệ Sinh, lúc bấy giờ đã làm Tăng Thống và theo Việt điện u linh tập, đã có tham dự vào cuộc viễn chinh Chiêm thành ấy.
Ðạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b10 viết Thiền sư Thảo Ðường rất có đạo hạnh, tinh thông kinh điển, Vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi kiết già mà mất". Tây hồ chí, tập Tự am, dưới mục chùa Khai quốc và chùa Vạn niên, nói Thảo Ðường họ Lý, và nơi cư trú của Ðường không phải chỉ có chùa khai quốc, mà có cả chùa Vạn tuế, tức Vạn niên nữa.
(2) Về chùa Khai quốc, xem chú thích (1) truyện Vân Phong.
(3) Tức Thiền sư Trùng Hiển (980 – 1052) núi Tuyết đậu tại châu Ninh, Trung Quốc, đệ tử của Trí Môn Quang Tộ thuộc phái Vân môn. Xem Tục Truyền đăng lục 2 tờ 475a9-476a25 và Tuyết đậu minh giác ngữ lục.
71. THIỀN SƯ BÁT NHÃ
(4)
Tức Nguyễn Bát Nhã, đại diện cho thiền phái Thảo Ðường, mà Quách Thần Nghi khi xem xong Chiếu đối bản của Thông Biện và Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu đã hỏi Chiếu: "Sao không thấy nói tới hai phái Nguyễn Ðại Ðiên và Nguyễn Bát Nhã?" Chiếu trả lời: "Ắt Thông Biện có một ức ý nào đó".
(5)
Chùa Từ quang, Phúc thánh này rất có thể là chùa Phúc thánh mà Toàn thư B4 tờ 5b4 nói là dựng vào năm Ðại Ðịnh thứ 5, tức năm 1154, cùng với chùa Vĩnh long.
(6)
Tức huyện Ðan phụng, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Dịch vương, sau này gọi là Dịch vọng của Hà nội ngày nay.
72. CƯ SĨ NGỘ XÁ
(7) Làng Bảo tài cũng như Long chương, hiện chưa có thể khảo được.
74. THIỀN SƯ HOẰNG MINH
(8)
Làng Yên lãng đây nghi làng Yên lãng hay làng Láng tại ngoại thành Hà nội, quê của mẹ Từ Ðạo Hạnh. Xem chú thích (3) truyện Ðạo Hạnh. Nhưng Toàn thư B2 tờ 20b1-2 viết: "Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) mùa đông tháng mười được mùa lớn, vua đi xem gặt ở ruộng Ô lộ, đổi tên ruộng là Vĩnh hưng. Ngày đó vua về cung". Cương mục chính biên 2 tờ 35b6 chú rằng: "Ô lộ, Vĩnh hưng, chưa rõ đích xác chỗ nào. Xét huyện Ðông yên, tỉnh Hưng yên, nghi là đó". Khảo Bắc thành địa dư chí lục 3 về những tên xã của tổng Vĩnh hưng cũng như của huyện Ðông yên, ta không thấy có xã thôn nào tên Yên lãng cả, tuy có những tổng xã mang tên Yên cảnh, Yên lịch, Yên vĩ, Yên viên. Do thế không phải là không có thể làng Yên lãng của Vĩnh hưng ở tại vùng huyện Ðông yên, tỉnh Hưng yên đấy. Thêm vào, truyện Cửu Chỉ nói núi Long đội ở Yên lãng. Như vậy, làng Yên lãng đời Lý có thể gồm cả phần đất phía đông của huyện Duy tiên, Hà nam nữa.
75. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
(9)
Tức chùa Thần quang hay chùa Keo tại xã Dũng nghĩa, huyện Giao chỉ, tỉnh Thái bình. Xem chú thích (1) truyện Không Lộ.
77. THÁI PHÓ ÐỖ VŨ
(10)
Có thể là Ðỗ Anh Vũ (? – 1158), Nhưng cứ Ðại Việt sử lược 3 tờ 3a4 thì năm Thiệu Minh thứ 3 (1139) Ðỗ Anh Vũ đã giữ chức Thái uý. Theo Toàn thư B4 tờ 1b1 thì năm sau, tức năm Ðại Ðịnh thứ nhất (1140) "lấy Ðỗ Anh Vũ làm Cung điện lịnh trị nội ngoại sự", nhưng không bao giờ thấy nó ghi thêm một tước gì cho Ðỗ Anh Vũ cả. Dẫu thế, việc Ðỗ Anh Vũ giữ chức Thái uý khoảng từ năm 1139 trở đi là một chắc chắn. Và cứ An nam chí lược 14 tờ 133 thì Thái úy phải là chức trên Thái phó. Do thế, chưa chắc Thái phó Ðỗ Vũ là Thái uý Ðỗ Anh Vũ.
78. THIỀN SƯ PHẠM ÂM
(11)
Tức địa phận tỉnh Thanh oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Thanh oai này, chúng tôi nghi là tương đương với làng Trung thanh oai do Bắc thành địa dư chí lục 3 liệt ra, bởi vì, làng đấy lúc bấy giờ có ba thôn, trong đó hai thôn mang tên Xa la và An xá. An xá và Xa la đây chắc là một phân xã của tên An la. Có thể An xá và Xa la thời Lý là phủ trị của An la, và chúng là một chứng tích cho sự có mặt đó.
Thiệu Minh đây nghi là Hoằng Minh chép sai.
83. Thái phó Đỗ Thường
(12)
Ðại Việt sử lược 3 tờ 24a6 nói trong lần lánh nạn năm 1112, Lý Huệ Tôn "đã đến nhà của Ðại liêu ban Ðỗ Thường ở Ðông ngạn". Ðại liêu ban dĩ nhiên là một tên gọi khác của Thái phó. Do sắc lịnh năm Ðại định thứ 20 (1159) của Lý Anh Tôn thiết định, mà Ðại Việt sử lược 3 tờ 6b3 đã ghi lại. Do đó Ðại liêu ban Ðỗ Thường cũng là Thái phó Ðỗ Thường. Chỉ có vấn đề là chữ thường của Ðại liêu ban Ðỗ Thường, thông thường thì vẫn có thể đọc như chữ thường, nhưng cũng có thể đọc thành chữ thưởng. Vì vậy, Ðại liêu ban Ðỗ Thường rất có thể là Ðại liêu ban Ðỗ Thưởng chứ không phải Thái phó Ðỗ Thường. Dầu sao đi nữa, chúng tôi vẫn nghĩ Ðại liêu ban Ðỗ Thường hay Thưởng là Thái phó Ðỗ Thường ở đây. Thế hệ này, nguyên bản ghi có bốn người, nhưng chỉ liệt kê tên của ba người
(13)
Nguyên văn: Tự Kiến sơ Tịnh …thiền sư. Như vậy ta chỉ biết "nối dõi Thiền sư Tịnh… của phái Kiến sơ". Chúng tôi ghi thêm là Tịnh Giới, bởi nghĩ rằng thế hệ của Ðỗ Thường còn có những người như Trương Tam Tạng được coi là đệ tử của Ðịnh Giác, tức Giác Hải của phái Kiến sơ. Cho nên nếu bảo Thường là một đệ tử của một Tịnh gì đấy của phái Kiến sơ thì có lẽ không sai mấy khi ta đi tìm trong thế hệ của Giác Hải có một người nào tên Tịnh gì đấy không. Nhưng thế hệ Giác Hải có đến ba người có tên bắt đầu bằng chữ Tịnh, đấy là Tịnh Không(1091-1170), Tịnh Lực (1112 – 1175) và Tịnh Giới (1140?- 1207). Chúng tôi chọn Tịnh Giới, không những vì Giới có một đời sống phù phép không kém gì Không Lộ và Giác Hải, mà còn vì truyện Tịnh Giới nói "Có nơi nói Giới ở chùa Quốc thanh, Hải thanh", nghĩa là Giới đến từ một chùa và một vùng với Không Lộ và Giác Hải.
84. THIỀN SƯ HẢI TỊNH
(14) Ðạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b5-6 dưới mục Tuyết đậu truyền pháp, viết: "Kinh đô Thăng long, chùa Khai quốc Ðại sư Thảo Ðường, từ đó truyền tôn phái Tuyết đậu làm đời thứ nhất. Ðời thứ hai truyền cho Bát Nhã. Ðời thứ ba truyền cho Hoằng Minh. Ðời thứ tư truyền cho cho bốn vị tổ, danh hiệu chưa rõ. Ðời thứ năm truyền cho Chân Huyền. Ðời thứ sáu truyền cho Hải Tịnh".
Nói như thế, chứng tỏ rằng khi An Thiền viết và in xong Ðạo giáo nguyên lưu khoảng năm 1845, ông chưa có "Cựu bản chùa Tiêu sơn" của Thiền uyển tập anh, mà sau này vào năm 1859 ông đã in thành quyển thượng của bộ Ðại nam Thiền uyển truyền đăng của ông. Thế thứ lưu truyền của phái Thảo Ðường do ông liệt, do thế có thể rút từ những tài liệu khác với Thiền uyển tập anh ở đây và vì vậy có một giá trị kiểm chứng nào đó.
NAM MÔ VIÊN MÃN BÁO THÂN ĐẠI NHẬT PHẬT
Powered by vBulletin® Version 4.2.3 Beta 3 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.