Xem phiên bản đầy đủ : Linh ứng Quan Thế Âm
socnho
03-10-2016, 12:04 PM
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Thưa, socnho có vài chuyện về Đức Quán-Thế-Âm linh ứng mà trong đời socnho đã được nghe, và được Ngài cứu độ. Cho nên socnho xin phép được kể ra nơi đây để mọi người cùng chiêm nghiệm.
1-Thưa! Trước tiên là câu chuyện trong gia đình socnho. Câu chuyện đã lâu dử lắm, lúc đó socnho khoảng chừng 6,7 tuổi. Nhà socnho gồm có hai gian, nhà trước và nhà sau đều có gát (lầu), và trên gát nhà trước có treo hình Đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni, Đức Phật A-Di-Đà và Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Kính thưa! Bây giờ socnho đang kể lại bằng ngôn ngử, thế mà những hình ảnh mà socnho ghi nhận lúc đó đồng thời đã hiện ra trước mặt. Socnho nhớ rõ là lúc đó ba, mẹ socnho đang tiếp khách ở nhà sau. Còn mấy anh, chị em socnho thì đang quây quần chơi ở gần nhà trước, chỉ vì chị cả của socnho kêu ông anh thứ tư đứng dậy, mà ảnh nói là không đứng được, nên cả mấy anh chị em đều ngồi xuống ...chờ. Trong thời gian "chờ" nầy socnho thấy ảnh ráng dùng hai tay để nhích từng chút lại hướng cầu thang, rồi ảnh tiếp tục trèo từng nất thang (sau lưng anh có hai bà chị phụ đẩy ảnh lên nữa) socnho còn nhớ mấy bà chị có nói :" ráng lên lầu mình lạy Phật nhe !"
Khi đã lên được trên lầu thì socnho thấy ảnh chấp tay lạy dưới hình Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhưng mỗi động tác lạy Phật của ảnh thật khó khăn, vì thân thể của ảnh dường như bị cứng lại vậy. Nên chỉ sau một lạy, thì socnho thấy miệng của anh ú ớ nói không thành tiếng, còn người thì cong ngược lại (giống như đang gồng mình vậy). Hai bà chị socnho lúc đó cố ôm ảnh lại mà không được, nên kêu socnho đi gọi ba.
Lúc ba socnho lên lầu ( lúc nầy socnho đang ở dưới đất, chỉ nghe kể lại) thấy người ảnh đang uốn cong rồi, nên tức tốc ba bồng ảnh xuống lầu bắt mạch khắp nơi, rồi ba hoảng hốt la lên " Trời ơi! con tôi tắt thở rồi", kế đó ba xốc ảnh lên rồi chạy đến nhà bác-sĩ Sơn (nhà B/S, cũng dùng làm phòng mạch khám bệnh luôn, nhà bác-sĩ cách nhà socnho chừng hai trăm mét). Trong thời gian chờ bác-sĩ mở cửa thì ba socnho vừa bồng ảnh, vừa nhảy liên tục như nhảy dây, mà cũng vừa xưng niệm danh hiệu Đức Quán-Thế-Âm không ngớt (sau nầy ba kể lại thì socnho mới biết là ba bồng ảnh nhảy để hy vọng trái tim của ảnh đập trở lại) . Nhưng sau khi bác sĩ khám cho ảnh xong thì khẳng định với ba là : "Anh nên bình tỉnh, vì con trai anh đã chết rồi". Ba socnho nghe vậy vội móc trong túi áo 1 ống thuốc ra nhờ bác-sĩ chích giùm, thì bác-sĩ từ chối. Vậy mà ba vẫn không nãn lòng, ba bèn ẳm anh lên vừa nhảy, vừa van lơn :"Xin bác-sĩ chích giùm, tôi biết con tôi đã chết nảy giờ rồi, nên tôi xin chịu mọi trách nhiệm". Và ba socnho cứ tiếp tục nhảy mà niệm lớn danh hiệu Đức Quán-Thế-Âm không ngừng nghỉ...
Lạ lùng thay! Sau khi bác-sĩ tiêm thuốc vào cái xác chết đó, xác chết đã sống dậy trước sự kinh ngạc của mọi người chứng kiến, và nhất là bác-sĩ Sơn, vị bác-sĩ đầy kinh nghiệm trong mấy mươi năm nghề nghiệp.
Nam-Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !
Kính
socnho
socnho
03-11-2016, 04:32 PM
2._ Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Theo lời ba socnho kể lại thì ngày xưa lúc ba socnho mười bảy, mười tám tuổi thì xứ Châu-Đốc rất là phức tạp, vì nhiều phe phái nổi lên chém giết lẫn nhau. Nghe đến đây socnho thắc mắc hỏi ba: "Bộ người nước ngoài vô nước mình làm loạn hả ba ?" Thì ba nói :" Có người Pháp là người ngoại quốc thôi, còn lại là 3,4 phe người Việt trở lại chém giết người Việt với nhau mới là đau đớn đó con".
Ba nói theo một phe nào cũng chết, mà không theo phe nào thì cũng chết. Nên ba đành phải theo một phe nọ, vì ba thấy người phe nầy cũng có tụng kinh, niệm Phật và thờ cúng đàng hoàng, thì chắc cũng không đến nỗi. Nhưng ai có ngờ đâu, ban ngày họ đi giảng đạo nói thiên cơ, ban đêm thì họ vác mã tấu, súng ống xông vô nhà người ta ăn cướp, giết hại dân lành. Chứng kiến dã tâm của họ, ba cứ lén lút về khóc với bà nội, thì lần nào bà nội cũng nhắc nhở ba cầu cứu với Đức Quán-Thế-Âm. Có lẽ nhờ nhân duyên nầy, nên ba socnho đã niệm danh hiệu Ngài đến trọn đời.
Rồi một ngày nọ, phe của bọn họ cở mười mấy người đàn ông, đến kêu ba đi cùng với họ khiêng đồ lên núi (núi Cấm). Sau khi đến địa điểm, ba mới biết là họ định cướp chùa. Ba nói thật là bất nhẫn, khi ba thấy vị sư già bị đánh đập và bị túm áo lôi ra khỏi chùa. Ba nói lúc đó ba nhắm sức không đánh lại nổi bọn họ, nên chỉ biết cắn chặt môi lại mà thầm cầu cứu: "Mô Phật! Mẹ hiền Quán-Thế-Âm ôi ! xin hiển linh cứu chùa, cứu mạng !".
Ba kể lại lúc đó, ba vừa làm việc với bọn người ác nhơn, còn trong lòng thì tha thiết khấn thầm như vậy. Khi bàn hương án đã bày ra đầy đủ (nơi trước sân chùa), và cây cột cờ thì đã được đóng cọc dưới đất xong (vì lá cờ cũng khá lớn, và đó là lá cờ riêng của họ chớ không phải lá quốc kỳ). Thì có ba người trong nhóm họ đại diện, đi ra để đốt nhang. Ba nói mấy cây nhang họ mới vừa cắm lên lư hương thôi, thì bổng đâu có một cơn trốt liền từ trên trời lao xuống, nhắm ngây chóc cái bàn hương án nầy xoay vùn vụt. Ba nói ghê rợn lắm ! cái bàn và đồ đạc nát nghiến, còn cây cờ thì giống như có một bàn tay người khổng lồ nắm chặt rồi nhổ lên, rồi quăng thẳng xuống núi như tên bắn vậy. Cũng cùng trong ngày đó, nhóm người có nhiệm vụ đi tìm xác cây cờ (có ba socnho) đã thấy nó cắm cái đầu xuống trước một ngôi chùa nọ (phần lá cờ), còn cái cán (chân cột cờ) thì chĩa lên trời. Nhưng lạ là lúc xảy ra việc kỳ lạ nầy thì không có ai bị té hay bị thương gì cả, còn ngôi chùa cũng không bị hư hại gì hết).
Sau đó không lâu, ba socnho nhảy xuống sông chạy trốn, giáo mác họ phóng theo, mà ba vẫn bình an vô sự trong tiếng xưng niệm danh hiệu Đức Quán-Thế-Âm.
Kính
socnho
socnho
03-12-2016, 09:36 AM
3.
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Năm 1986, nếu socnho nhớ không lầm là vào lúc tháng 8 hay tháng 9 năm đó, anh VC là bạn thân của chị em socnho có kể lại một việc như sau :
Anh nói là bạn thân của anh tên Hậu, có một người em trai đang nằm trong nhà thương (nhà thương nào socnho quên rồi) vì bị nhiễm chì rất nặng, chì sắp lên tới óc rồi, B/S cho biết là khoảng 1 tuần nữa thôi thì chết. Gia đình nầy không phải đạo Phật, nên anh VC muốn khuyên bệnh nhân niệm Phật cũng không tiện, mà lần nào vô nhà thương cũng đều có mặt gia đình của Hậu. Còn em trai Hậu thì lúc tĩnh, lúc mê.
Nhìn thấy cảnh bất tiện, anh VC bèn về nhà tắm rửa rồi lên lầu khấn nguyện với Đức Quán-Thế-Âm là anh VC xin nguyện vì người sắp chết mà ăn chay và niệm Phật 1 tuần.
Anh VC âm thầm ăn chay niệm Phật được ba, bốn ngày thì có vô nhà thương thăm, anh VC thấy em trai Hậu tĩnh dậy và nói cùng gia đình là em đã thấy vị "Thánh nữ trong đạo", và em có nói: "Xin cứu con, vì con sắp chết rồi." thì vị Thánh nữ đó nói :"Ta không cứu con được". Xong rồi em lại mê man tiếp.
Gia đình anh Hậu lúc đó đã chuẫn bị cho tang lễ hết rồi, vì theo lời B/S thì chỉ còn 2, 3 ngày nữa thôi, nên gia đình anh Hậu cũng không còn một chút xíu tinh thần đâu để cầu nguyện gì thêm nữa. Đến ngày thứ 6, anh VC vào thăm em trai anh Hậu gần cả buổi, rồi đang lúc đứng dậy chuẫn bị ra về, thì bỗng nhiên em trai anh Hậu mở mắt tĩnh dậy và gọi anh VC cùng mọi người thân chung quanh rồi khóc mà nói là, em mới gặp Đức HPS... (Giáo-Chủ trong đạo), đứng sát bên giường rồi nói :" Ta không thể cứu con được, đến lúc con phải chết thôi !". kể ra cho mọi người nghe xong, em vội nhắm đôi mắt lại, không gian như cũng chìm trong cõi hôn mê mờ mịt, như để cùng em cố quên hết nỗi kinh hoàng đang kéo tới ngày mai.
Đêm hôm đó anh VC không tài nào ngủ được, nằm trong mùng, anh vẫn chấp tay niệm danh hiệu Đức Quán-Thế-Âm cho đến khi nghe tiếng anh Hậu gọi dưới nhà, để kêu anh cùng vào nhà thương vì....hôm nay là ngày thứ bảy rồi.
Em anh Hậu vẫn nằm im lìm, có cô y tá đo nhịp tim của em xong vội lắc đầu, rồi ngước nhìn mọi người bằng ánh mắt buồn bã trước khi ra khỏi phòng. Bỗng dưng em anh Hậu mở mắt ra, nét mặt vô cùng hớn hở, mọi người thấy vậy bèn bu vây quanh giường, thì nghe em nói :"Con thấy! Con thấy! bà Tiên nói "Ta sẽ cứu con thoát chết", "bà Tiên cầm nhánh lá nhỏ, phất phất vô mình con....bà Tiên mặc áo trắng, đội khăn trắng, tay còn lại thì cầm cái bình nhỏ nhỏ..."
Anh VC nói với chị em socnho, "VC cầu nguyện cho em anh Hậu, mau đến nhà ai mà có thờ hình Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, để em đó sớm nhận diện ra là ai đã cứu nó ."
Cuối năm 1991, socnho có đến nhà anh Hậu từ giả để đi Mỹ, mặc dầu hôm đó socnho không thấy em anh Hậu, vì em đó đang bận đi giao hàng hóa gì đó. Anh Hậu nói : bây giờ em nó cao lắm, nó khỏe như trâu ý mà!.
hihi! cả hai cùng cười.
Kính
socnho
socnho
03-13-2016, 09:54 AM
4.
Kính các bác, các anh chị em, cùng các bậc trên trước !
Sau câu chuyện 1986 của em trai anh Hậu, thì chị em socnho cũng còn có dịp đến thăm anh VC và gia đình của anh vài lần nữa, thì trong những lần đó, socnho lại được nghe thêm 1 câu chuyện linh ứng của Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do chính mẹ của anh VC kể như sau :
Bác nói :
Hồi trước khi di cư vào Nam năm 1954, thì nhà của bác ở (ở đâu thì socnho quên mất rồi, nhưng socnho chỉ nhớ là bác ở gần Thủy-Nguyên hay Thủy-Uyên) gì đó, là vùng sông biển, nên bác bơi lội cũng giỏi.
Một ngày nọ (là sau nầy) bác dẩn anh VC ra bải biển Vũng-Tàu ở bải sau) tắm, thì bất ngờ bác phát hiện ra cái phao của anh VC đã bị sóng giạt ra xa rồi, mà chỉ thấy chiếc phao tròng trành nghiên ngửa, chớ không thấy anh VC đâu (lúc đó anh VC còn nhỏ, chưa tới mười tuổi). Bác hoảng quá, liền lội ra, lặn xuống bơi tìm anh VC. Trong lúc sức đã đuối, mà con thì mất dạng, bác chỉ còn nhớ niệm Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát cứu khổ, cứu nạn giửa biển khơi sóng bủa ngập đầu.
Bác kể lại là bác niệm như vậy do thường ngày nghe người ta niệm mà bác bắt chước, chớ lòng bác chưa bao giờ tin Phật. Rồi ngày hôm đó, giửa lòng biển lạnh mênh mông, việc tìm anh VC chẳng khác gì như "mò kim đáy biển". Vậy mà bác đã tìm được anh VC đang chìm sâu, thì oai lực Đức Quán-Thế-Âm không làm sao bác diễn tả cho cùng. Khi bác đã đưa anh VC trồi lên mặt nước thì bác nghĩ phen nầy chắc chết, vì sóng lớn quá, giữa muôn sóng nhấp nhô, bác không biết hướng nào là bờ nữa. Trong khi một tay thì nắm anh VC đang chết ngất, còn một tay bác cố quơ quào. Sự cầm cự như vậy chưa được bao lâu thì tay chân bác đã rã rời, trong lúc mạng sống hai mẹ con như "chỉ mành treo chuông", thì một lần nữa bác xưng niệm "Cứu khổ cứu nạn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !" Khi ấy, bác thấy Ngài đang đứng ở trước mặt của bác, và cách mặt nước khoảng một thước tây.
Bác cứ xưng niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát và bơi theo Ngài như vậy (cũng khá lâu), đến khi có ghe tàu đến cứu, thì Đức Quán-Thế-Âm mới biến mất. Còn anh VC thì khi được cấp cứu là liền tỉnh lại, trong khi bác cứ ngở là ảnh đã chết.
Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !
Kính thưa cùng các bậc trên trước và tất cả người đọc !
Qua những câu chuyện về Đức Quán-Thế-Âm cứu khổ cứu nạn, mà socnho vừa kể, cũng như sắp kể thêm, chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót về chi tiết. Kính thưa, biết như vậy, nhưng với thời gian quá lâu, với trí nhớ phàm phu nhỏ hẹp, nên đôi lúc socnho đành phải tóm tắc nội dung, và bỏ qua rất nhiều đoạn thật hay trong câu chuyện, socnho cảm thấy thật là đáng tiếc !.
Nhưng socnho tự nghĩ :" Thà là bỏ qua chi tiết vì không nhớ, còn hơn tự ý đặt thêm, hoặc bớt theo ý mình, thì trước là dối mình, sau là gạt người, có khác gì như câu "buôn Thần, bán Thánh".
Cho nên socnho mong sao các bậc trên trước cùng tất cả người đọc đều lượng thứ, cảm thông cho socnho .
Kính
socnho
socnho
03-14-2016, 09:58 AM
5.
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Đã từ lâu, socnho có tìm đọc Hành Trình Vượt Biển Đông I, và Hành Trình Vượt Biển Đông II, hoặc trên báo chí, hay qua các câu chuyện đầy nước mắt của những người vượt biên bằng đường biển đã trực tiếp kể lại cho socnho nghe, vậy mà cũng vẫn không có tin tức gì của con tàu mang số kỷ niệm xưa...
Có ai hay rằng cùng thời hoàng kim của cầu thủ Maradona 1986 đang từng bước lên ngai vàng danh vọng, thì giữa đại dương đêm ấy có một trăm mấy chục mạng người đang từng phút chìm sâu trong sóng gió hãi hùng !. Đó là trang đầu của bức tâm thư, mà vị đệ tử thầy Tường-Lâm chùa Ấn-Quang (quận 10) đã vội vàng kể lại, khi anh vừa được đặc chân trên mảnh đất tỵ nạn xa xôi.
Bây giờ, dẩu socnho có bị quên đi nguyên nhân, hay là nhớ rõ, thì chiếc tàu chở anh cùng một trăm mấy chục mạng người lúc đó cũng đang ngập đầy nước. Có lẽ nó đã bị hải tặc bắn thủng, sau khi cướp phá ? Hay muôn trùng lý do gì thì vẫn là đồng lỏa trong màu đen kịt của đại dương đêm. Anh kể trong bức thơ :Những tiếng kêu gào hổn loạn, tiếng sóng gầm hung hản cộng hưởng tiếng thê lương tuyệt vọng của con tàu.
Thì từ nơi hải trình xa xôi, có một người thủy thủ trên chiếc tàu của USA đang ngồi trong phòng trực, thình lình anh thấy có một luồng ánh sáng lớn xuyên qua cửa kiến rọi nơi trán anh (thủy thủ người Mỹ đó), anh cố xoay người né tránh, nhưng kỳ lạ thay, khi luồng ánh sáng đó vẫn dính chặc nơi trán anh, như thể bắt nguồn từ (trán anh) để vươn dài ra tận khơi xa. Phản ứng tự nhiên, anh thủy thủ liền hú còi báo động. Sau khi quan sát luồng ánh sáng đang in trên trán anh thủy thủ một cách kỳ lạ, (vì dù anh thủy thủ có rời khỏi phòng trực, đi tới đi lui trong tàu, thì luồng ánh sáng đang in trên trán anh vẫn không hề bị vật gì cản trở được) thì vị thuyền trưởng không còn nghi ngờ gì nữa, liền quyết định cho tàu mau chạy theo hướng ánh sáng huyền bí đó. Tàu chạy hết tốc độ không dám ngừng nghỉ, thì dần dần phía bên chiếc tàu Mỹ tất cả thủy thủ và vị thuyền trưởng đã phát hiện ra luồng ánh sáng đó được phát xuất từ một người mặc áo lụa trắng, đội khăn trắng, và đôi tay cầm nhành dương liễu, cùng bình tịnh thủy đang đứng giữa không trung trong biển đêm, vậy mà hào quang Ngài đã soi sáng rõ ràng từng nét thật đẹp trên gương mặt Ngài, cùng vóc dáng thật oai nghi không thể tưởng, và các thủy thủ thấy dưới chân người áo trắng đang ngự giữa không trung kia, có nhiều bóng người đang la hét, kêu gào...
Lập tức những chiếc thang dây lao xuống, các thủy thủ Mỹ đang cố giúp mọi người qua chiếc tàu lớn một cách hấp tấp. Đến khi kéo một người cuối cùng lên tàu an toàn rồi, thì luồng ánh sáng trên trán anh thủy thủ ấy mới mất, thì cũng vừa lúc chiếc tàu vượt biên khá to lớn cũng chìm liền xuống biển.
Nhờ có vốn liếng Anh ngữ, nên đệ tử thầy Tường-Lâm đã hiểu được những lời tường thuật của các viên thủy thủ và thuyền trưởng Mỹ. Sau khi đưa đoàn người tỵ nạn đến đảo (đảo gì socnho quên rồi) an toàn, thì các viên thủy thủ và thuyền trưởng đã nhận diện ra Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát trong bức họa đơn sơ, nơi ngôi chùa được dựng lên cũng trong khu vực người tỵ nạn.
Nam-Mô cứu khổ cứu nạn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !
Kính
socnho
socnho
03-15-2016, 04:57 PM
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Thưa! Câu chuyện trên mà socnho vừa kể lại đã lâu lắm rồi, vậy mà khi hồi tưởng lại, thì hương vị nước biển mằn mặn vẫn còn thấm trên đôi môi... socnho chợt thấy lại những bước chân ký ức rã rời của mình vẫn còn đang dò dẫm để tìm đến Bataan hay Palawan ở nơi nào đó xa xôi diệu vợi. Không phải để vượt biên, mà socnho chỉ mong mỏi được tắm mình trong sự chở che của Đức Đại Từ Đại Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát , nơi mà Ngài mới vừa thị hiện, qua bức thư của vị đệ tử thầy Tường-Lâm vừa kể lại lúc đó.
socnho vội gấp lại bức thư khi nghe mùi đồ ăn chay chiên xào dưới bếp trong chùa tỏa ra thơm phức. Vừa bỏ thư vô bao, thầy Tường-Lâm vừa kêu socnho ở lại ăn cơm. Nhưng socnho viện cớ trễ giờ đi làm, để cho thầy khỏi phải bận tâm, trong khi cái bao tử trong bụng socnho nó không còn nghiêm túc nữa. Như nó muốn kéo trì lại những bước chân vốn đang rã rời vì đói, vì chán ngán mỗi khi nhớ tới những gương mặt trong tiệm may đầy kinh dị.
Công việc hằng ngày của socnho là làm khuy, luông áo. Sáng thì socnho đi may giày da, đến chiều về thì tấp vào tiệm may làm thêm cho tới tối mờ tối mịt. Đầu tắc mặt tối vậy mà cũng không thể nào đủ tiền để đóng viện phí cho ba bệnh viện cùng một lúc. Vì lúc đó ba socnho thì nằm nhà thương trên Đa-Kao, người chị thì nằm nhà thương Triều-Châu, đứa em nhỏ thì trong Hồng-Bàng. Còn gạo củi, điện nước để lo cho ba đứa em ở nhà thì là thứ hạnh phúc quá là xa xỉ, dù thỉnh thoảng nó mới chịu hiện diện để toát lên cái mùi ẩm mốc của khoai sùng, mì móc meo v.v.. mà phải tới định kỳ "hợp tác xả" mới có.
Biết được hoàn cảnh nầy của socnho, bà chủ tiệm (mà socnho gọi là cô Chín) cứ kêu socnho ưng cháu cổ là anh Khiêm. Nhưng khiêm nhượng, khiêm tốn, khiêm xưng, khiêm cung đều không có liên quan một chút xíu xìu xiu gì với anh Khiêm cả. Thậm chí thêm một dấu Sắc vào tên anh ấy thì chắc cũng chưa đủ nghĩa để nói lên điều phản ngược một cách trọn vẹn nơi con người ấy.
Có lẽ 1 tháng mấy rồi họ thấy sự thuyết phục không đến đâu, nên cô Chín và anh Khiêm thường lộ vẽ bất bình, khinh khi socnho ra mặt. Cô Chín với anh Khiêm thường hay nói xa nói gần ám chỉ socnho bằng những lời lẽ khó nghe trước mặt nhiều người thợ khác. Nhưng không hiểu tại sao trước hoàn cảnh như vậy, mà socnho vẫn kiên trì tới tiệm may đó, rồi thường khi 1,2 giờ khuya là socnho vẫn muốn lặn lội tới tiệm may một cách bức rứt khó tả. Có một lần không cưởng được, socnho lén ra khỏi nhà vào lúc 1 giờ mấy, đường khuya vắng teo, mà socnho vừa đi vừa thầm niệm Đức Quán-Thế-Âm, (chớ đâu có mê đâu). Nhưng đi chưa được bao xa thì có anh Sơn là người bạn trai của ông anh socnho đang chạy xe đi đâu đó thấy bèn khuyên nhủ, rồi chở về nhà giùm. Đêm hôm đó ảnh cũng ngủ lại nhà socnho luôn, đến sáng hôm sau ảnh nhìn socnho thật kỷ rồi nói " Hồi đêm hôm qua, anh thấy gương mặt em như không có hồn vía gì hết vậy đó ", socnho đành phải nói dối là mệt, và muốn đi mượn tiền người bạn.
Sáng hôm đó socnho như không còn sức lực để đi may dép da nữa, nghĩ ngơi đến 3 giờ chiều thì socnho nhờ anh Sơn chở đến tiệm may của cô Chín giùm. Mới làm được vài cái áo thì cô Chín nhờ socnho đi ra nhà sau lấy cây kéo và vài món vật dụng. Cầm chìa khóa trên tay không một chút xíu do dự, dù đây là lần đầu tiên socnho biết "nhà sau" của cô Chín, qua 1 tháng mấy làm khuy áo ở đây. Vừa đi vừa niệm Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tự nhiên socnho không tìm cây kéo và mấy ống chỉ, mà socnho đi thẳng vô 1 cái phòng, rồi đưa tay lòn vô áo gối để lấy ra 1 cái gói giấy, y như là socnho đã có biết trước rồi vậy.
Như vô hồn, mở gói giấy ra, socnho mới tá hỏa, khi thấy hình và tên tuổi cả ngày sinh mình nằm trong 1 cái tờ giấy có hình thù kỳ lạ! Chữ không phải chữ, hình gì thì cũng không ra hình gì. socnho chợt nhớ ra là cách đây khoảng 1 tuần, cô Chín có kêu socnho "đưa hình và ngày sinh của socnho để cô đi làm Tử-Vi giùm cho nó tốt". Vậy mà bây giờ đi "ếm xì bùa" mình.
Đứng trong phòng tần ngần, bangtam bèn trở ra đóng chặt cửa lại, rồi sẵn cây viết vắt trên áo dùng để chấm khuy nút (cùng 1 màu mực) socnho bèn sửa lại, bằng cách thêm số 1 vô ngày sinh, còn chỗ khó sửa thì socnho để nguyên. Còn tấm hình ngoằn nghòe như rắn kia thì socnho để dưới đất, rồi lấy cái nùi giẻ gần cầu tiêu đè lên, xong rồi lấy tép tỏi (socnho bọc trong người) chà chà vô, đoạn xếp lại rồi để vô bao áo gối trở lại như cũ.
Duy chỉ tấm hình 4.6 thì socnho dấu trong người, đi ra ngoài mà socnho run như thằn lằn đứt đuôi. Vừa ra đến nhà trước ngồi, thì socnho thấy anh Khiêm cũng vừa ở ngoài đi về. Tâm hồn bấn loạn sợ hãi socnho chỉ biết niệm Đức Quán-Thế-Âm cầu cứu khổ cứu nạn.
Không có chiếc xe đạp, mà trời đã sụp tối, mặc cho anh Khiêm và cô Chín cải lẩy nhau, socnho vẫn cúi đầu chăm chỉ làm việc. Đợi đến khi có mấy người khách đến may đồ, thì cô Chín đang bận bịu, còn anh Khiêm thì nhìn socnho hầm hầm rồi dẩn xe vô nhà trong là socnho giả bộ đứng lên vươn vai, rồi thì chạy băng qua bên đường, vô đại mấy con hẻm nhỏ, rồi lần lần tìm ra đường lớn để nhờ mấy anh công-an chở về nhà giùm. (Kể từ đêm hôm đó, socnho không còn bị muốn đi đâu nữa).
Vài ngày sau, đang ngồi trên xe bus để đi Gò-Vấp, tự nhiên socnho xoay người qua cửa sổ thì thấy anh Khiêm đang đứng gần đó, và anh Khiêm cũng đang nhìn thấy socnho. Nhưng kỳ lạ lắm, vì gương mặt của anh Khiêm xanh dờn y như tàu lá chuối non, y hịch như ma hiện hình giữa ban ngày vậy, ngay lúc socnho đang hoảng hồn, thì may là xe bus cũng đang chuyển bánh.
Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!
Kính
socnho
socnho
03-16-2016, 09:58 PM
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Thưa ! Cách đây vài năm, trong khi đang làm công quả trong chùa, thì có sư-cô kể chuyện là.
Khi 20 tuổi, sư-cô còn là chú tiểu. Mới ra ở Đà-Lạt nên đường phố và khí hậu chưa quen. Một ngày nọ trên con đường về chùa, thì trời mưa. Mưa ở Đà-Lạt lâu tạnh dữ lắm. Sư-cô nói lớp thì gió, lớp thì lạnh quá đi không nổi, nên sư-cô bèn chạy vô sân chùa nọ để trú mưa.
Không biết mấy giờ tối rồi, mà chùa thì đóng cửa, nên sư-cô không dám kêu cửa, đành ngồi bó gối chịu trận. Đang lúc trắng mắt ngồi chèo queo, thì sư-cô thấy một cái mặt bự như cái mâm đầy nanh gút đang tiến tới trước mặt. hoảng quá sư-cô la :
"Bồ-Tát ! Bồ-Tát !". Đầu sư-cô đập ngửa phía sau trúng vách tường.
Có lẽ nhờ vậy mà mấy sư-cô trong chùa mới hay được, rồi dìu chú-tiểu vào giữa chánh-điện.
Chưa kịp ngồi đàng hoàng là chú-tiểu đã nắm tay mấy sư cô, rồi chớp chớp con mắt lia lịa mà nói :
Co...co...c..ó...có có có .
Sư trụ trì hỏi " có ăn cướp hả ?"
Thì chú-tiểu lắc đầu, rồi chú-tiểu nói trở lại cà lăm .
Có .....có có có....
thì sư cô nọ bèn hỏi:
Có ma hả ?
Chú tiểu cũng lắc đầu, rồi nhắm mắt lại, nuốt nước bọt, rồi lại mở mắt ra nhìn mọi người, rồi trợn mắt lên, mới nói được một chữ
Quỷ !
Sau khi cười ngả nghiêng, ngả ngửa, thì có một Phật tử hỏi chọc sư-cô:
_ Niệm B..ồ bồ.... bồ...Tát ...nào.... ?
Sư-cô chấp tay lại nói:
_ Hoảng quá nên quên cả danh hiệu Ngài, chỉ biết kêu Bồ-Tát, nhưng trong tâm là hình ảnh Đức Quán-Thế-Âm đó !
Kính
socnho
Trần Thị Toàn
03-17-2016, 02:59 AM
cảm ơn bạn một câu chuỵên (https://www.youtube.com/playlist?list=PLe2Q3NvfeOeNdi4GvtNgwBmuSrgi502d3)h ay :)
socnho
03-17-2016, 07:35 AM
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
socnho thấy câu chuyện của sư-cô (chú-tiểu) hay ghê vậy nhe. Ánh sáng mặt trời muốn đến trái đất thì phải qua 1 chặng thời gian là 8 phút, 19 giây, còn chú-tiểu nầy khi gặp nguy, thì trong tư tưởng liền có Đức Quán-Thế-Âm liền. Cho nên không thể đem tốc độ ánh sáng quá chậm để so sánh được.
Không biết socnho nói như vầy có đúng không nữa.
Kính thưa, Hôm nay socnho xin phép được trở lại với tựa đề : "Sự Tích Và Hạnh Nguyện Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát", để kể thêm 1 câu chuyện sự thật, mà không kém phần hồi hộp, và nhất là sự nhiệm mầu khó nghĩ bàn, khi xưng niệm danh hiệu Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Thưa, chị ND vừa bán cá ngoài chợ, vừa niệm Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. Có lẽ chị vừa nhận ra được điều gì không ổn trong công việc buôn bán những sinh mạng đáng thương của bao nhiêu con cá cố lăn lóc trong thau, để tìm đường bơi về sông, biển. Nên chị niệm Phật để vơi bớt niềm ray rứt, bối rối nặng trĩu trong lòng.
Và rồi cuộc sống nơi thôn dã quê mùa quá đổi, nên ước mơ của chị ND cũng thật là mộc mạc nhỏ bé như mùi thơm bông cỏ dại, khiến người nghe cũng thấy dễ gần dễ mến. Chị ND kể lại :" Em biết hôn? Lúc đó chị chỉ ao ước là, khi nào để dành tiền mua được hai, ba chỉ vàng rồi, thì chị sẽ đổi qua bán cá khô thôi, chớ hỏng bán cá tươi nữa đâu, tại vì mỗi ngày dòm thấy tụi nó ngáp ngáp chị nói thiệt là chị chịu hỏng nổi ."
Tối nào thắp nhang chị ND cũng đều tha thiết cầu Đức Quán-Thế-Âm cho chị có cơ hội ""đổi đời "" như vậy. Một ngày nọ, đang ngồi bán cá thì tự nhiên có một người đàn ông đến gợi chuyện làm quen, rồi sau vài câu xả giao, là ông ta hỏi chị ND có muốn vượt biên không, nếu muốn vượt biên thì chỉ cần đưa cho ông ta 2 chỉ vàng y thôi. Nghe xong chị ND liền nở nụ cười sung sướng thật tươi, và vội lấy 2 chỉ vàng y đang bọc trong mình ra đưa cho ông ấy liền, khiến cho ông khách đó ngạc nhiên vô cùng về lòng tin người của chị.
May thay gặp được người chân thật, nên hôm sau ông khách đó đã đến, và đưa chị đi vượt biên. Khi ra khỏi hải phận quốc tế, thì chị và mọi người được lên mui tàu thoải mái hơn, lúc đó chị bèn lanh quanh tìm hai vật dụng, để gỏ với nhau cho thành tiếng mà niệm Phật. Mặc cho ai làm gì, chị không để ý đến, chị nói : "Lúc đó được ngồi trước mủi tàu niệm danh hiệu Đức Quán-Thế-Âm thiệt là thích quá đi, vì thường ngày chị cực thấy mồ thấy tổ, bụng thì muốn niệm Phật, nhưng 2 con mắt thì ngủ gục đó".
Sóng nâng con tàu lên cao, xuống thấp theo hơi thở của đại dương, đôi mắt màu xanh bao la như đang nhìn cảm thông cho những niềm hy vọng đợi chờ phía trước.
Mọi người vui mừng reo hò vì đã thấy 1 chiếc tàu có lá cờ ngoại quốc sắp đến gần rồi...nhưng té ra đó là lá cờ có hình cái sọ người!. Trên tàu ai cũng sợ điếng người, đến nỗi riu ríu không dám nói chuyện gì. Mấy chục con mắt không hẹn nhau mà cùng nhìn về gả chỉ huy có thân hình lực lưỡng, có gương mặt hung dữ, có đôi mắt trắng dã, làm nổi bật làn da đen trông thật là ngầu. Lúc đó chị ND không biết là cướp biển, nên chị vội chen lên phía trước, cúi đầu chào họ vui vẻ. Bổng người chỉ huy "mặt ngầu" đưa tay ra nắm lấy mặt dây chuyền hình Đức Quán-Thế-Âm (bằng đá) trên cổ chị ND mà ngắm nghía. Đoạn ông ta hất hàm gọi đàn em chuyển hết số người vượt biên qua bên tàu của ông, xong rồi họ dùng súng bắn cho lủng con tàu nhỏ.
Giửa đại dương bao la, vậy mà chỉ có 1 bến nước, cứ ngở bến nước nầy, khát thì không có nước uống, còn đói bụng thì chắc là phải cố quên luôn. Nhưng lạ thay, nước uống, thức ăn được dâng ngay trước mặt no nê. mền đắp, khăn lau, quần áo bổng dưng đầy đủ. Từng người thủy thủ đi phục vụ cho đám người vượt biên như khách quý. Còn riêng chị ND được ngồi chung mâm với vị chỉ huy thân mật, họ ăn uống ca hát suốt đêm, dù là bất đồng ngôn ngữ.
Sáng hôm sau, họ đưa đoàn người vượt biên đến đảo (đảo gì socnho quên rồi). Dầu đến giờ phút nầy sắp được lên bờ rồi mà mọi người củng còn run sợ, chỉ riêng chị ND là tỏ vẽ cảm động nên cứ đứng bịn rịn nói lời chia tay và cám ơn. Vị chỉ huy tuy là không biết tiếng Việt, nhưng chắc là đã ngầm hiểu được ý của chị ND, nên đưa tay ôm chị ND siết mạnh 1 cái. Lúc đó thì chị ND bèn cởi sợi dây chuyền bằng đá rẽ tiền, đeo choàng lên cổ vị chỉ huy, ông ta bèn nâng mặt dây chuyền lên bằng hai tay, còn ánh mắt thì nhìn chị ND trìu mến, để thay cho lời cảm ơn đầy trân trọng.
Tàu cướp biển đã đi xa, chỉ còn lại mấy chiếc ghe nhỏ đang chở mọi người vào đất liền, thì ở đây ai cũng chưởi chị ND bằng những lời thậm tệ. Riêng chỉ có ông khách (mà nhận 2 chỉ vàng của chị ND) là ngỏ lời cầu hôn với chị. Vì ông cho đây là 1 điều hy hửu, Khi ông nhận ra điều hy hửu mầu nhiệm nầy ở trên mặt dây chuyền của chị ND. Còn khắp nơi, ai ai cũng biết cướp biển Thái-Lan không bao giờ treo lá cờ sọ người để ...Đi Làm Từ Thiện.
Trong kinh Nhật-Tụng Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật đã dạy :
Nhược phục hữu nhơn, lâm đương bị hại, xưng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải thoát. Nhược tam thiên, đại thiên quốc độ, mãn trung Dạ-Xoa, La-Sát, dục lai não nhơn, văn kỳ xưng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát danh giả, thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi, huống phục gia hại.
Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !
Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !
Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát !
Kính
socnho
socnho
03-18-2016, 09:08 PM
Kính quý đạo hữu cùng các bậc trên trước !
Thưa, theo lời ba socnho kể lại thì ngày xưa, thời ông nội socnho còn trai trẻ thì xứ Châu-Đốc (An-Giang) lúc đó toàn là rừng rậm, dân cư thưa thớt, mà lâu lâu phải có người tự đem mình đi làm vật tiêu khiển cho mấy vị Cọp Chúa !.
Cánh bà con bên bà nội socnho, có một gia đình nọ, lâu lâu là phải bị cọp vồ mất một người phái nam. Đến đổi gia đình bên bà nội kinh sợ quá phải gọi loài cọp là : Ông !
Hôm đó ông cố bảo ông nội cùng vào rừng đi kiếm mật ong và một vài loại thảo dược. Bà con bên bà nội biết ông cố nội và ông nội socnho rất giỏi vỏ. (ông cố nội socnho ngày xưa là quan vỏ, ông cố nội đã từng đấu với hai con cọp một lược, khi cả hai con cọp đều bị thương thì ông cố nội tha cho chúng nó bỏ chạy, chớ không giết. Còn ông nội thì không giỏi bằng ông cố nội, nhưng ông nội cũng đã từng đánh gục một con cọp lớn, rồi tha cho nó về rừng. Sau đó mùa nước lụt, ông nội chống xuồng vô rừng thì gặp lại nó ốm nhom, và nó đang ở trên một cái gò, thấy nó có vẻ mừng rở, ông nội quăng cho nó một mớ thịt heo, nó có vẽ biết ơn ông nội lắm .)
Lúc đó số người muốn đi theo ông cố và ông nội vào rừng sâu thì nhiều lắm, nhưng ông cố chỉ chọn ra năm người đàn ông mà thôi. Trước khi đi ông nội và mọi người nghe ông cố khấn nguyện là ông cố và ông nội nguyện đem hết sức mình ra để bảo vệ những người đi theo cho tới hơi thở cuối cùng. Ngoài ra ông cố và mọi người nguyện không sát hại thú và chặt phá cây rừng vô cớ. Ông cố chỉ mong có được mật ong và tìm được kỳ-nam để làm thuốc cứu người. Và chỉ lấy đủ dùng, chớ có gặp hơn cũng không lấy.
Đoàn người vào rừng sâu mới chỉ được một ngày thì có một người trong nhóm trong lúc đang ngủ thì cứ bị một con bướm trắng nhỏ xíu đậu trên đầu hoài, đã nhiều lần ông cố đuổi đi, nhưng rồi nó cũng quay trở lại bám trên đầu người đó. Đến khi người đó thức dậy biết được thì ông ta khóc ròng. Ông đó nói "Ông (cọp) đã sắp tới lấy mạng rồi, Vì những người trong thân tộc cũng đều có điềm nầy, dù là ở trong nhà đóng cửa kín mít thì bướm trắng vẫn xuất hiện". Cho nên ông đó xin trở về nhà từ biệt gia đình lần cuối cho kịp. Nghe xong, ông cố cảm thấy rất xót xa trong lòng. Nhưng ông cố cương quyết nói rằng, ông cố bất chấp số mạng, ông cố phải bảo vệ người nầy như lời nguyện trước lúc ra đi. Còn người đàn ông nầy thì nghĩ : "Họa của mình, mà để cho người khác gánh thì mỗi khi niệm Mô-Phật làm sao chấp nhận được", nên ông ta quyết tâm chạy trốn để tự nạp mình vô miệng cọp.
Giửa rừng núi mênh mông, không còn biết đâu là phương hướng. Đói lả và sợ hải đã khiến cho ông nhiều lần có ý nghĩ trèo lên cây cao rồi buông mình xuống cho xong, nhưng rồi ông nghĩ lại rằng :"Mình chết như vậy có ích gì, khi con bướm trắng định mệnh sẽ lập tức bay về làng để đậu trên đầu đứa cháu nội nhỏ xíu mồ côi cha, vì cha nó củng bị Ông (cọp) vồ mấy năm trước, khi nó đang còn trong bụng mẹ".
socnho
(còn tiếp)
socnho
03-18-2016, 09:15 PM
(tt)
Những đau khổ và sợ hải như đè nặng trên từng bước chân thất thểu của một con người đang cố tìm đường vào miệng cọp. Còn rừng núi thâm u tịch lặng như đang lắng nghe từng tâm niệm của muôn loài.
Xuyên qua tán lá rậm rạp, ông thấy có bóng người thấp thoáng, mà dường như cái bóng đó cũng đang tiến về phía ông. Thì ra đó là một ông lão râu tóc bạc phơ, và gương mặt thật là phúc hậu. Qua vài lời chào hỏi, ông bèn kể hết sự tình cho ông lảo nghe, mà ông không ngăn được dòng nước mắt.
Sau khi nghe xong, ông lão liền vổ vổ lên vai ông và hứa sẽ giúp đở. Ông lão kêu ông mau đi theo sau lưng, hai người đi sâu vào hang núi. Lạ là đường đi trong hang không có tối, thật là sạch sẽ, và cũng không có ngoằng nghòe lồi lỏm. Ông nói chỉ đi có một chút xíu thôi là đã ra khỏi hang núi rồi. Đang mải mê nhìn cảnh lạ, thì bất ngờ ông la lên một tiếng " quơi ", vì trước mắt ông là một bầy cọp đang nằm ngồi dầy đặc, mà chúng cũng đang hướng mắt về ông và ông lão nữa.
Ông nói nhiều cọp như vậy mà nó ngồi im ru không có động tịnh gì. Còn ông lão thì bước từ từ vào giữa bầy cọp mà nói rằng : " Dòng họ người ta đã khổ nhiều rồi, thôi; Chư Vị tha cho người ta đi, đừng có làm hại nhà người ta nữa ngheo. " Đoạn ông lão ngồi xuống, thì có một con cọp màu xám trắng đứng dậy đi lại trước mặt ông lão, rồi nằm mọp xuống, đầu cọp sát dưới chân ông lão. Ông thấy ông lão vuốt vuốt trên đầu nó rồi kêu " Chư Vị tránh qua một bên, cho người ta đở sợ ". Rồi ông lão xoay qua ông nói " Bây giờ tui đưa chú em dìa nhà ngheo ".
Ngồi phía sau lưng ông lão, cho nên khi đứng dậy để đi theo hướng tay ông lão chỉ lúc này, thì ông là người đi trước. Quay trở lại có mấy bước thì đã tới miệng hang rồi, nhưng lần nầy thì không phải đi bộ, mà là đi xuồng. Ông nói lạ lắm, hồi nảy đi ra là đường đất, còn đi về thì là đường sông. Mà chỉ bơi xuồng có một chút xíu thôi là đã sắp về tới nhà rồi.
Ông kể lại lúc đó suốt cả buổi, từ lúc chứng kiến ông lão với bầy cọp cho đến sắp về nhà, thì ông chỉ hỏi ông lão chỉ có 1 câu là "Ông ơi, ông ở đâu ?" Thì ông lảo trả lời " Về nhà rồi gặp lại ngheo ".
Khi xuồng cặp sát bìa rừng, thì ông cũng đã nghe tiếng người thân xôn xao bàn tán rất gần đâu đó, cho nên ông bèn mừng rỡ la lên cho mọi người hay. Thì lúc đó mọi người cũng đã nhận ra ông đang lom khom chồm người đứng dậy trên đất liền, chớ nơi vùng đất nầy chưa hề có con sông nào cả. Cho nên cũng ngay nơi đó, mọi người (có cả ông cố nội và ông nội socnho, nhưng lúc đó bà nội socnho chưa làm vợ ông nội) thấy ông cứ ngơ ngác nói " Ủa ! ông ơi !" không ngớt .
Sau khi về nhà được ít hôm, thì có người thanh niên trẻ đến nhà ông hỏi mua xuồng, ông bèn nói "Không có". Thì người thanh niên liền nói "Bao giờ có xuồng thì nhớ bán cho tui, vì thầy tui là Đức Quán-Thế-Âm thường bơi xuồng trên núi". Nói xong, người thanh niên nầy bước lên thang vào nhà ông (nhà ông là nhà sàn, và không có cánh cửa) rồi biến mất.
Kể từ ngày đó về sau, gia tộc bên bà nội socnho không còn bị nạn cọp vồ nữa, còn lúc đó ông khoảng bốn mươi, và ông sống rất mạnh khỏe đến gần cả trăm tuổi thọ.
Kính
socnho
socnho
03-19-2016, 11:48 AM
Kính quý Trưởng bối, kính quý đạo hữu !
Hôm nay Socnho phát hiện ra quyển "Linh Ứng Quán Thế Âm" do H.t Thích Tịnh Từ viết, socnho phát tâm chép lại ra đây trọn bộ để chia sẻ cùng quý thành viên Phật tử nơi đây. Kính xin H.t hoan hỉ cho phép con được "tái bản".
Kính
socnho
____________
http://www.tuvienquangduc.com.au/BoTat/quanlinhlinhcam-bia.gif
Linh Ứng Quán Thế Âm
(Quyển 1)
HT Thích Tịnh Từ
Mục Lục
Lời đầu chuyện
Nhiệm mầu thay đức tin
Thoát nạn nước cuốn
Người đưa đường dẫn lối
Thoát nạn trên biển cả
Cứu con thoát nạn giao thông
Giải trừ vong nghiệp
Cầu nguyện như ý
Hầu Bồ Tát Quán Thế Âm
Cầu sinh con gái toại ý
Ngồi thiền trên sừng trâu
Bà cụ bán chè thoát nạn
Bàn tay mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm
Chữa lành bệnh bài bạc
Mắt mù lại sáng
Ðức Quán Âm điểm hóa
Cản ngăn sự giết chóc
Giải nhập oan khiên
Nước cam lồ chữa người câm
Nghi thức trì tụng Kinh Phổ Môn
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn
Pháp tu Quán Âm
(1) NAM MÔ HẮC RA ÐÁT NA ÐA RA DẠ DA (NAMMO RATNATRAYAYA)
Tay lần tràng hạt châu
Quán âm rất nhiệm mầu
Ai thường cầu lễ niệm
Thân tâm hết khồ sầu.
socnho
03-19-2016, 11:56 AM
LỜI ÐẦU CHUYỆN
Bồ Tát Quán Thế Âm, hình ảnh rất thân thiết, gần gũi đối với mọi tầng lớp quần chúng, nhất là những người Á Ðông. Nhiều người chưa quy y Tam Bảo, chưa trở thành Phật tử chính thức, cũng thường xưng niệm danh hiệu và thỉnh tôn tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát để phụng thờ lễ bái hằng ngày trong nhà.
Bồ Tát Quán Thế Âm là người đắc đạo và đã thành Phật trong quá khứ lâu xa, có tên là Chánh Pháp Minh Như Lai. Ngài vì tình thương và hạnh nguyện cứu khổ chúng sanh nên đời đời hóa hiện nhiều thân tướng khác nhau để ban vui, cứu khổ cho mọi loài.
Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Mẹ Hiền, bà mẹ có tình thương yêu rộng lớn. Ngài đến với mọi người, mọi loài như đến với những đứa con thơ yêu quý, không xa lạ, không đối đãi và ngăn cách. Ngài đến với con người, đến với sự sống như ánh sáng, không khí đến với mọi loài sinh vật trên trái đất.
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn, đức Phật Thích Ca có nói đến hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm:
“Quán Âm vị cổ Phật
Chánh Pháp Minh Như Lai
Hạnh nguyện sâu rộng lớn
Cứu độ khắp mọi loài
Nghe tiếng kêu liền đến
Lợi ích chúng hằng sa
Nếu ai thường xưng niệm
Cảm ứng bất tư nghì.”
Bằng vào hạnh nguyện rộng lớn và thân thiết ấy, Bồ Tát Quán Thế Âm, hiện thân khắp nơi chốn, trong cõi giới khổ đau, lắng nghe tiếng kêu cầu, liền hiện thân kịp thời, nhanh tợ vang theo tiếng. Như tình thương của bà mẹ, khi thấy con thơ lâm nạn, liền ra tay cứu độ, không do dự tra vấn. Vì hành động thương yêu cứu khổ đầy thiêng liêng, mầu nhiệm của Mẹ mà mọi đứa con yêu của Mẹ đều kính mến và hằng nhớ tưởng đến Mẹ, thường kêu tên của Mẹ.
Trong tập sách này, chúng tôi ghi thuật lại những mẫu chuyện linh ứng về đức Quán Thế Âm Bồ Tát do tự thân chứng nghiệm, cùng những mẫu chuyện sưu soạn và chọn lọc có liên quan đến hạnh nguyện cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngoài các mẫu chuyện linh ứng của đức Quán Thế Âm, chúng tôi còn có trình bày thêm phần thực tập thiền quán qua đề mục niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và có phần Nghi thức trì tụng phẩm kinh Phổ Môn, nói rõ hạnh nguyện và năng lực cứu khổ của Bồ Tát Quán Thế Âm. mỗi phần mẫu chuyện có phụ bản phóng ảnh tám mươi bốn hình tượng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, trích dẫn từ kinh Quán Âm Ðại Bi Tâm Ðà Ra Ni, do sa môn Dà Phạm Ðạt Ma dịch từ phạn ngữ ra hán văn và do pháp sư Thánh Ấn soạn giải.
Ðọc tập sách này, mà bạn khởi phát được niềm tin sâu vững nơi Bồ Tát Quán Thế Âm, nguyện nổ lực cần mẫn trên tiến trình học hạnh yêu thương và giúp đỡ người thân đồng loại, đó chính là nhờ công năng quán chiếu tu tập hạnh lành của bạn theo tinh thần Từ Bi của đức Quán Thế Âm. Riêng quý vị đã có sẵn tín tâm, duyên lành với hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm, sau khi đọc xong tập sách này, chắc quý vị có thêm kinh nghiệm và tư liệu sống thực để hằng truyền phổ sâu rộng về công đức, hạnh nguyện thù thắng của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngay nơi bản thân chúng tôi, nhờ tin tưởng, xưng niệm, phụng thờ, lễ bái và thực hành hạnh nguyện thương yêu, lắng nghe đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà mỗi ngày tăng phần an lạc và hạnh phúc. Bằng vào đó mà chúng tôi tin tưởng vào năng lực cứu khổ mầu nhiệm cùa Bồ Tát Quán Âm một cách tuyệt đối. Nhờ vậy mà chúng tôi càng thêm vững chí trên đường tu tập và hành đạo. Mong bạn đọc qua những mẫu chuyện linh ứng Quán Thế Âm sẽ:
· Thấu rõ hạnh nguyện cứu khổ sâu rộng, mầu nhiệm của Bồ Tát Quán Thế Âm
· Tin sâu vào bản thể từ bi, diệu dụng, hóa hiện độ sinh bất khả tư nghì của Bồ Tát Quán Thế Âm
· Tin sâu đạo lý nhân quả và duyên sanh giữa ta và người, giữa hạnh phúc và đau khổ.
· Hằng phát nguyện hạnh thực tập và lắng nghe và cứu khổ bình đẳng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
· Hằng chuyên cần và nhất tâm xưng danh hiệu,lễ bái đức Quán Âm Bồ Tát không hề mỏi mệt.
· Nguyện cho mọi người, mọi loài sớm biết thực tập lời di huấn, giới răn, thiền định của Phật dạy để tiếp xúc được tự tánh thanh tịnh, từ bi, trí huệ ngay trong long thực tại.
· Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm có mặt khắp mọi nơi và mọi thời. Ở đâu có đau khổ, có hận thù tăm tối là ở đó có Pháp Thân, Ứng Thân và Hóa Thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.
· Xưng niệm, lễ bái, phụng thờ Bồ Tát Quán Thế Âm và muốn lời cầu nguyện có hiệu lực ta nên xả bỏ những tâm lý oán cừu, phiền hận và tham chấp.
· Phát nguyện làm điều lợi ích, cứu giúp, ban bố niềm vui cho người; xa lánh những điều ác, tránh sự giết hại, trộm cướp, gian dối, tà dục. Ðó chính là những điều kiện tốt để ta có cơ hội tiếp xúc với sự mầu nhiệm, linh cảm của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Ðức Quán Âm Bồ Tát
Ðã thành Phật lâu xa
Vì hạnh nguyện cứu khổ
Hết mọi loài chúng sanh
Trong luân hồi sáu nẻo
Ứng hóa vô lượng thân
Hiện ngàn muôn diệu ứng
Vào khổ cảnh ngục lao
Cứu giải trừ ách nạn
Ðem tin lành muôn nơi
Người tôn xưng Thánh Mẫu
Người gọi đức Quán Âm
Bậc đại hiền tự tại
Chăm kỉnh lể phụng thờ
Chuyên lòng trì danh hiệu
Vượt thoát mọi tai ương.
Thân chúc bạn đọc thường trau dồi hạnh phúc bằng chất liệu yêu thương, bằng khả năng quán chiếu; hằng đem tâm khách quan, tha thiết trong việc học hỏi, chiêm nghiệm, thực tập hạnh nguyện ban vui, cứu khổ của Bồ Tát Quán Thế Âm để niềm phúc lạc, bình an có mặt đích thực trong cuộc sống.
Thành kính tri ân quý pháp hữu, quý ân nhân, các đệ tử thân cận đã hết lòng góp phần tài chánh, đánh máy, trình bày và sữa soạn kịp thời cho tập sách này có đủ nhân duyên xuất bản như tâm nguyện:
Vì lợi ích tất cả
Vì hạnh phúc nhiều người
Vì đáp đền ơn nặng
Vì cứu khổ muôn loài
Vì dẫn độ quần sanh
Vào biển tuệ Như Lai
Nơi tình thương rộng lớn
Tự tại hằng an vui.
Thích Tịnh Từ.
(2) NAM MO A RI DA -(Nammo arya)-
Quán Âm hiện diện tướng
Ðộ đời chuyển pháp luân
Tay nâng ngọc như ý
Ban vui khắp mọi nhà.
socnho
03-19-2016, 12:00 PM
NHIỆM MẦU THAY ÐỨC TIN
Tôi hồi còn nhỏ học trường tư thục Thiên Chúa Giáo, trốn nhà vào chùa ở lúc mười bốn tuổi. Bổn sư tôi là Ðại sư Viên Giác, sáng lập tu viện Giác Hải ở làng Viên Tự, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh hòa, Nha Trang, thầy tôi rất thương tôi, nhưng người cho tôi là loại trẻ “cứng đầu”. Thầy tôi tin tưởng vào”mệ” Ðức Quán Thế Âm một cách lạ lùng, còn tôi thì hời hợt với chuyện này. Không phải chỉ lúc mới đi tu trí óc còn non dại, mà ngay đến khi thọ giới người tu trưởng thành, tôi vẫn quan niệm Ðức Quán Thế Âm như một hình ảnh biểu tượng về tình thương. Thờ Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng qua là hiếu kính người hiền và nặng lòng tín ngưỡng. Thầy tôi đã huy động dân làng và Phật tử khắp nơi dựng Quán Âm Ðiện Các ở trên đỉnh núi Ông Sư tại làng Xuân Tự để phụng thờ, tôi là người hưởng ứng và săn sóc hương khói một cách bất đắc dĩ.
Năm 1958, tôi không may bị chứng đau đầu thống trầm trọng. Lý do là tôi ham học và thiếu ngủ. Tôi mê say học kinh điển như một bộ môn triết lý đầy thú vị. Mặt khác tôi lo học chương văn hóa ở cấp trung học. Một đêm tôi không ngủ quá ba tiếng đồng hồ. Sau kỳ thi cử không bao lâu, tôi buông bỏ bút nghiên, sự nghiệp học vấn. Ðầu tôi đau như muốn vỡ tung từng mảnh và mắt xốn như bị bão cát lùa vào từng cơn. Mũi chảy ra nước xanh, nước vàng. Tôi bỏ ăn, bỏ ngủ. Bao nhiêu nhà thương, bác sỉ tây y có tiếng, tôi đều tìm đến. Bao nhiêu thầy giỏi thuốc bắc, thuốc nam gia truyền tôi đều khẩn cầu, nhưng tất cả đều vô hiệu. Tôi vào Sài Gòn chữa bệnh, tinh thẩn tôi càng thêm sa sút. Nhiều lần tôi muốn vào trong lòng đại dương tươi mát để tìm giấc ngủ an lành. Thầy tôi biết rõ tình trạng đau khổ, bi quan của tôi nên thường ở bên cạnh để săn sóc an ủi. Dồn hết để lo chữa bệnh cho tôi. Thầy tôi đã nhiều tháng thức trắng đêm với tôi và hai thầy trò cùng thường di bộ trên bờ biển hóng mát để tôi bớt dau nhức vì bệnh hành hạ về đêm.
Có một đêm ngồi trên vịnh eo biển Phan Rang, thầy tôi có vẻ buồn bã lắm, ngưởi bảo tôi rằng: “thầy thương quý con hơn cả vàng ngọc, nhưng nhiều lúc thầy rất giận con, vì con ngang ngược, cứng đầu, không chịu nghe lời thầy trì tụng kinh Phổ Môn, xưng danh hiệu đức Quan Thế Âm Bồ Tát để cầu ngài chữa bệnh cho con”. Ðó là đêm hai thầy trò chúng tôi ôm nhau mà khóc. Tôi nghe lời thầy tôi như con trẻ tin lời mẹ dạy. Tôi không còn đi cầu thầy chữa bệnh nữa, trở lại chùa ở Xuân Tự, nhập thất ba tháng, chuyên trì tụng chú Ðại Bi, kinh Phổ Môn và niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Sau ra thất bệnh chẳng thuyên giảm, tôi vào chùa Ông ở Nha Trang xin tịnh dưỡng tiếp tục nhập thất, lễ sám hối, chuyên cần trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát liên tục không ngớt. Kỳ diệu thay, sau hai tháng sám hối, nhất tâm xưng niệm danh hiệu NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH CẢM ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, tôi cảm ứng Mẹ Hiền Quán Âm cứu khổ và dứt trừ cơn bạo bệnh. Thân tâm tôi nhẹ nhõm như một cuộc tái sanh mới.
Tối đó là ngày rằm, khoảng đầu mùa hè năm 1960, tôi ngồi thiền và niệm chú Ðại Bi nơi gác chuông Chùa Ông mà có người còn gọi là Chùa Núi. Lúc đó khoảng hai giờ sáng, tôi thấy một luồng ánh sáng trên trời cao lùa vào gác chuông, rồi hiện ra một thiên nữ mặc áo trắng trao cho tôi mười hai viên thuốc tể nhỏ xíu và một bình nước trắng đựng trong lọ thủy tinh có buộc giải lụa màu xanh. Thiên nữ xoa đầu tôi và nói: “Ðây là thần dược, ngươi uống xong sẽ hết bệnh, hết khổ. Nhưng nên nhớ khi khỏe mạnh rồi, lo chăm chỉ hành đạo để cứu người, chớ có để vọng tâm buông lung, tình đời chi phối.” Lời thiên nữ hiền dịu như lời mẹ hiền, tôi cúi đầu đãnh lễ tạ ơn và phục mệnh.
Lúc ấy, tôi có cảm giác an lạc lạ lung. Tôi chấp tay cung kính cầm thuốc bỏ vào miệng uống mà không nói một lời nào. Vị thiên nữ bảo tôi nằm ngủ để lấy lại sự bình an trước khi người biến vào hư không. Sau một giấc ngủ dài, tôi thức dậy không cảm thấy đau đầu nữa. Bệnh tôi chấm dứt hẳn. Hình ảnh người thiên nữ mặc áo trắng kia là ai, tùy mỗi người đặt tên gọi. Sự “cứng đầu” cùa tôi đã bắt đầu “mềm” từ đó. Tôi tin tưởng và tích cực tìm hiểu về hạnh nguyện cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, khởi đi từ sự cảm ứng này. Hôm tôi lành bệnh trở lại chùa, trong bữa cơm liên hoan của đại chúng chào đón và mừng tôi, thầy tôi có tặng cho tôi bài thơ mà tôi đã nằm lòng:
Thương con như trái tim mình
Thương con vượt thoát ngục hình đớn đau
Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu
Trí bi song vận duyên lành ứng cơ
Tín tâm dứt mối nghi ngờ
Thuyền từ đưa đén bến bờ an vui
Ðường tu mãi tiến chớ lùi
Giới răng gìn giữ ngọt bùi chớ mê
Tịnh thiền định huệ đường về
Ngộ tâm đạt tánh nguyện thề độ sanh
Bồ đề quả kết chóng thành
Nối dòng Phật tổ cứu người trầm luân.
(3) BÀ LÔ YẾT ÐẾ THƯỚC BÁT RA DA
(Avalokiteshavaraya)
Quán Âm ngời tự tại
Hiện thân tướng trì bình
Cứu người lâm bệnh khổ
Tăng phước thọ diên trường.
socnho
03-20-2016, 08:55 PM
THOÁT NẠN NƯỚC CUỐN
Nước trôi sông bị chìm
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðược sống lâu thọ mạng
Nhờ Quán Âm thọ trì.
Hồi mới lên 6,7 tuổi, tôi và anh tôi cứ mỗi buổi trưa cuối tuần hay trốn mẹ ra sông để tắm. Một hôm gặp mùa mưa tháng tám, nước lớn từ trên nguồn tuôn về quá mạnh khiến con đê trong làng bị vỡ, nơi khúc sông cạn bỗng dưng nước ngập, xoáy sâu và chảy xiết. Cả hai anh em tôi đều bị cuốn theo dòng nước và vì sức yếu nên hai anh em chúng tôi không sao gượng nổi để vào bờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ kịp nghe tiếng anh tôi nhắc: “ em ơi! đừng sợ, niệm Phật Quán Âm đi.”, rồi anh tôi mất dạng. Tôi cũng chìm ngập trong biển nước xoáy. Nhờ lời nhắc niệm Phật Quán Âm của anh tôi, nên trong ý thức của tôi lúc đó rất bình tĩnh, sáng suốt và tôi nói thầm trong miệng: “Phật Quán Âm ơi! cứu con với! con mệt lắm rồi…” tôi cứ lẩm bẩm trong miệng hoài như thế không biết bao nhiêu lần, cho đến khi không còn biết gì nữa. Tôi đã bị chết trôi? Không, tôi đã được đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu sống đến bây giờ. Năm nay tôi đã 57 tuổi, kể ra tôi cũng thọ mạng đấy chứ.
Trong cơn mê man của một giấc ngủ dài, tôi nghe tiếng một ông lão gọi bên tai tôi: “Này con, thức dậy để đi tìm anh con vể nhà. Mẹ, ba con, ông bà nội của con đang nóng lòng chờ hai anh em con về ăn cơm trưa đó.” Qua tiếng gọi, tôi đã tỉnh ngủ. Khi thức dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một cồn cát trắng, sát bên cạnh một vùng nước mênh mông. Nhìn quanh bốn phía chẳng thấy nhà cửa, chẳng thấy bóng dạng người qua lại. Nhìn vào thân thể, tôi bỗng thẹn thùng vì thấy mình trần trục, không có quần áo gì cả. Nhìn vào ngực, tôi bắt gặp cái tượng đức Quán Thế Âm.
Bồ Tát nhỏ mạ vàng mà mẹ tôi đã đeo trong cổ cho tôi ngay hồi tôi mới sinh được vài tháng. Tôi mĩm cười, cầm cái tượng vân vê trên tay, rồi nói: “Phật Quán Âm ơi! Anh của con đâu rổi? Nếu anh của con mà bị nước cuốn trôi thì mẹ, ba, ông bà nội, ông bà ngoại của con khóc đó. Con cũng không chịu mất đi anh của con đâu. Phật Quán Âm ơi! chỉ cho con biết anh của con đang ở đâu để con tới dẫn anh con về nhà kẻo mẹ lo. Mẹ thương hai anh em con lắm đó.”
Vừa réo gọi Phật Quan Âm vài tiếng, tôi ngẩng đầu nhìn ra phía sóng nước trùng khơi, tôi thấy một con đò nhỏ đang chạy thoăn thoắt đi về phía tôi. Tôi reo lên mừng rỡ, chờ đợi và nhảy ra con nước ôm lấy anh tôi khi con đò vừa đến. Anh tôi đã đến trên một con đò nhỏ với ông lão. “Ồ, Anh ơi! chiếc đò và ông lão đi đâu mất rồi? Sau phút chốc, tôi ôm anh tôi mừng, tủi tủi; tôi quay lại thì không thấy chiếc đò và ông lão đâu nữa. Anh tôi cũng ngạc nhiên như tôi, cả hai anh em trố mắt tìm kiếm. Nhưng, giữa cánh đồng con nước mênh mông, vẫn im lìm không một bóng thuyền đò qua lại. Ông lão chèo đò biến dạng, chiếc đò cũng không còn.
Anh tôi thuật lại rằng khi cơn nước đẩy, anh tôi không nhìn thấy tôi đâu cả, nên anh tôi la lớn bảo tôi niệm Phật Bà Quán Âm để được Phật Bà giúp đỡ. Anh tôi biết mình sắp chết đuối và nhớ lời mẹ dặn là khi gặp tai nạn thì niệm Phật Bà Quán Âm. Lúc đó, anh tôi tin là có Phật Bà và nghĩ là Phật Bà rất linh thiêng, nên anh tôi không có lo sợ. Anh tôi nhắm mắt và thầm niệm: NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Anh tôi niệm tên của Phật Bà ước chừng được mười lần thì anh tôi chẳng còn hay biết gì cả. Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trên chiếc giường tre với bộ áo quần xanh mới, bên cạnh bếp lửa đang nấu nồi cháo trắng sôi sùng sục. Trong nhà chỉ có một mình ông lão tuổi chừng bảy mươi, tướng mạo rất đẹp, miệng luôn cười như Phật Di Lạc. Ông lão lấy cháo trộn với đường cát cho anh tôi ăn một tô lớn rồi ông khen anh tôi ngoan, giỏi, còn nhỏ mà biết tin Phật Bà Quán Âm. Anh tôi hỏi: “Bác có biết Phật Bà ở đâu không?” Ông lão cười và chỉ vào trái tim của anh tôi. Ý ông lão nói là Phật Bà ở trong tâm của anh tôi. Ăn cháo xong, ông lão nói với anh tôi là đi tìm tôi và sẽ đưa cả hai anh em về nhà. Anh tôi ngồi trên chiếc đò nhỏ và ông lão đưa anh tôi tới đây gặp tôi.
Tôi bảo anh tôi: “Như vậy ông lão đó chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà anh em mình thường nghĩ và niệm bấy lâu nay.”
Anh tôi gật đầu thốt lên: “ừ hơ, ờ hơ, anh có cảm giác là ông lão này lạ lùng lắm, không phải là một người thường…” Mặt trời chiếu lên cao, anh tôi cởi chiếc áo đang bận trùm lên mình tôi. Hai anh em tôi dắt nhau về nhà một cách bình an.
Chuyện này xảy ra tại thôn Phường Sắn là một thôn nhỏ tại làng Long Hưng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nơi tôi ra đời và lớn lên.
Nguyễn Năng Diêu, anh hai tôi ghi lại chuyện này trong nhật ký của người. Tôi cung kính chép lại nơi đây để cống hiến đến quý thân hữu xa gần và mong bạn đọc cho anh tôi một lời cầu nguyện. Anh tôi đã qua đời năm 1961 vì chiến tranh và bom đạn vô tình.
NGUYÊN QUANG
(4) BỒ ÐỀ TÁT ÐỎA BÀ DA (Bodhisattvaya)
Quán Âm bậc tuệ giác
Ðạt chơn tánh rạng ngời
Lòng từ bi quảng đại
Phổ độ khắp gần xa.
socnho
03-21-2016, 08:27 AM
NGƯỜI ÐƯA ÐƯỜNG DẪN LỐI
Quán Âm người dẫn lối
Ði tìm đại từ bi
Quán Âm thầy thắp sáng
Soi nẻo về thênh thang.
Năm tôi đi tu, đường đi nước bước không rành, chẳng biết chùa và thầy hiền ở đâu mà tìm kiếm. Mới mười bốn tuổi đầu, lòng tha thiết quyết chí đi tu, song chưa hề quen biết với bất cứ một vị thầy hay một sư chú nào trong chùa viện. Ðể thực hiện ý định đi tu của mình, ngày đêm tôi chỉ biết cầu nguyện và thầm xưng niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Cách niệm tôi tạm trình bày cho có vẽ “tươm tất” như sau:
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con gặp người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con được vào chùa tu học và có cơ duyên trau dồi tình thương cao rộng.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con gặp được vị thầy sáng suốt và hiền đức để được tu tập.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tai ương trên đường đi cầu đạo giải thoát.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con giữ vững niềm tin nơi bản thân và Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con không bao giờ thối chí trong mọi hạnh lành, đem niềm vui đến cho nhiều kẻ khác.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con sớm khai mở trí tuệ và có đìều kiện tốt để giúp người thoát khỏi khổ đau.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con có đủ tâm đại hùng, đại lực để cứu nhân sanh vượt ra mọi ngục hình tư tưởng trong đời sống.
· Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con mau thành Phật quả để đem đến hạnh phúc, lợi ích cho nhiều người, nhiều tâm hồn đang bị đọa lạc trong kiếp luân hồi.
Hồi ấy, tôi không thể nói ra thành lời như vậy, nhưng trong tâm tôi luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và hằng khởi lên những ý nghĩ tương tợ như thế.
Khuya hôm ấy, khoảng tháng 10 năm 1956, bên ngoài trời mưa tầm tã, gió nổi tứ bề, cây cảnh ngã đổ, nước lũ tràn khắp đường sá xóm làng. Lúc khoảng 12 giờ đêm, tôi rón rén mở cửa trốn nhà đi vào Huế tìm chùa, tìm thầy học đạo. Từ làng ra tỉnh và từ tỉnh Quảng Trị đón xe đò đi vào Huế đối với tôi lúc bấy giờ là một con đướng thăm thẳm, diệu vợi và hết sức khó khăn trong việc đi lại, song tôi không hề có chút chần chờ, lo ngại. Trong cái nãi xách tay của tôi chỉ có hai bộ áo quần màu xám và một tấm hình Quán Thế Âm nhỏ bằng giấy dán liền trên tấm ván mỏng được một anh huynh trưởng gia đình Phật tử trong làng cho tôi cách đó hai năm về trước. Ngoài cái “gia bảo” ấy, trong túi tôi còn có hai chục bạc để đi đường. Số tiền này đứa em gái đã cho tôi cách đó vài hôm khi em được phần quà thưởng lệ về việc học giỏi từ ông cậu ruột làm công chức gởi cho.
Ra khỏi nhà, tôi phải đi qua chiếc cầu tre bắc ngang một con sông rộng chảy qua làng. Rủi ro, cái cầu tre bị gãy và xoáy theo dòng nước chảy xiết khi tôi đang dò dẫm từng bước một trên chiếc cầu tre lắc lẽo ấy. Thế là tôi bị trôi sông, cuốn theo dòng thác lũ đưa về xóm Bàu. Nhờ sức niệm Bồ Tát Quán Âm mà tôi thoát tai nạn nước chìm. Không ngờ trong tai nạn ấy hóa ra tôi đã đi con “đường tắt”. Con đường từ xóm Bàu lên đường cái quan rất gần, chỉ đi bộ khoảng hai mươi phút thôi. Trong khi đó nếu tôi không bị giòng nước cuốn trôi, thì tôi phải đi con đường dài từ làng ra đường cái quan, lên tỉnh để đón xe đi vào Huế cũng phải mất mấy tiếng đồng hồ. Nhưng chưa chắc thành công, vì tôi có thể bị người nhà tìm bắt trở lại.
Nước lũ đưa đường chỉ lối cho tôi lên chùa
Nước lũ chỉ nẻo đường tắt đưa tôi về nguồn cội
Nước lũ giúp tôi đi mau tới đích
Và không bị cản, ngăn chướng ngại.
Lên xe đò vào Huế, ông tài xế thấy tôi còn nhỏ quá nên không lấy tiền. Khi xuống tại bến đò, tôi đang lay hoay tìm kiếm đường lên chùa, thì một bà cụ nói là bà ở trước chùa Báo Quốc, rồi bà tự động kêu xe xích lô bảo bác tài xế đưa tôi về chùa ấy. Lên đến cửa chùa, tôi lấy hai chục đồng bạc trong túi trả bác xích lô, bác nói là bà cụ khi nãy đã trả tiền xong rồi. Thế là gia tài số tiền mặt ấy tôi vẫn còn giữ hoài trong túi không bao giờ tiêu xài. Bà cụ thuê xe và chỉ đường lên chùa cho tôi là ai, tôi không biết rõ lai lịch?
Sau này tôi nghiệm lại, tôi mới biết đây là sự chỉ điểm của thánh hiền và sự mầu nhiệm đưa đường chỉ lối của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Chùa Báo Quốc tại Huế là một viện Phật học, đào tạo chư Tăng và nhân sự Phật Giáo tài đức để hoằng pháp, lợi sanh dưới sự dám viện của hòa thượng Thích Trí Thủ. Khi vừa bước chân lên cổng chùa thì tôi liền được sư chú Tâm Hòa tiếp đón rất niềm nở như người nhà, khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Vì dường như việc tôi đến đây sư chú có linh tính biết trước rất rõ ràng. Sư chú Tâm Hòa dẫn tôi vào phòng khách và nói cho tôi biết: “Có đại sư Thích Viên Giác sáng lập và Trú trì tu viện Giác Hải ở tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang đã đến đây ba hôm để đợi em đó. Em có phải từ tỉnh Quảng Trị vào và đang đi tìm thầy, tìm chùa để xuất gia học đạo không?”
Tôi chỉ cuối đầu dạ và chưa kịp nói thì sư chú Tâm Hòa nói tiếp: “Ðại sư Viên Giác cho tôi hay là được Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ điểm nên ngài đến chùa Báo Quốc từ Nha Trang để nhận một chú bé đem về chùa nuôi. Ngài bảo tôi ra đứng trước của Tam Quan suốt cả buổi chiều nay để đợi em. Em hãy vào trong để ra mắt vị thầy của em”.
Nghe sư chú Tâm Hòa nói, lòng tôi sung sướng vô vàn, tràn ngập hạnh phúc và nhẹ nhỏm như mình đang bay trên một không gian vô tận.
Bước chân vào phòng, tôi thấy một vị thầy mặc áo nâu rộng, thân thể gầy ốm nhưng đôi mắt rất sáng. Thầy trạc tuổi 40 đang ngồi kiết già vững chải, quay mặt về phía cửa chính như đang chờ đợi một người. Ngài chờ đợi tôi, đó là đứa bé mới 14 tuổi đầu, bỏ nhà, bỏ cha mẹ đi tìm thầy khai mở tâm linh.
-Con muốn tìm thầy để được tu tập phải không? – ngài nhìn tôi hỏi.
Tôi cúi đầu trả lời:
-Thưa thầy dạ phải.
-Con đi tu để làm gì?
-Thưa thầy, con đi tu để làm giảng sư để dạy cho cái tâm của con trở nên hiền lành và dạy cho người khác bớt đau khổ nhờ cái tâm sáng suốt.
Nghe xong, ngài cười và không hỏi thêm gì nữa. Tôi được sư chú Tâm Hòa và Ðiệu Trí giúp Ngài chuẩn bị việc làm lễ xuống tóc cho tôi. Sau khi cạo tóc và măc y phục của chú tiểu vào mình, tôi thấy mình là một con người mới. Sáng hôm sau mới khoảng ba giờ khuya, thầy trò tôi ra sân ga trở về tu viện Giác Hải Nha Trang. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Ðời tôi đã có vị thầy đưa đường chỉ lối, đó là đại sư Viên Giác, vị bổn sư của tôi, nuôi dưỡng tâm tôi khôn lớn.
Sau này tôi mới rõ, thầy tôi lập chùa Giác Hải được ba năm, dựng trên núi Ông Sư, làng Xuân Tự ở quận Quảng Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thầy có nuôi vài ba chú tiểu nhưng tất cả đều bỏ về nhà. Thầy tôi bèn tụng kinh Phổ Môn để nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát tìm giúp thầy tôi một chú tiểu có nhân duyên và căn khí để nối chí thầy tôi hoằng pháp trong tương lai. Nhờ đức Quán Thế Âm điểm hóa và thầy trò chúng tôi đã gặp nhau. Tôi được xem như đệ tử lớn của thầy tôi. Tâm ý giữa hai thầy trò chúng tôi rất tương đắc.
Quán Âm Bồ Tát rất nhiệm mầu
Thanh tịnh trang nghiêm nhiều kiếp tu
Khắp xứ người cầu đều cảm ứng
Biển trần qua lại độ quần mê.
Năm 1975 tôi qua Mỹ học, thầy tôi không vui lắm vì người lúc nào cũng muốn tôi ở bên cạnh để lo việc chùa viện và giao phó hoằng pháp, nuôi Tăng độ Chúng của thầy tôi. Song thấy chí xuất dương của tôi đã quyết nên thầy tôi không ngăn cản. Bao nhiêu tình thương và ánh sáng soi đường, thầy tôi gói trọn cho tôi trong bài kệ:
Trái đất quê hương mẹ
Trong tim có quê hương
Mầu nhiệm trong tỉnh thức
Thực tại nẻo quay về.
Nguyên Nguyện.
(5) MA HA TÁT ÐỎA BÀ DA – (Mahasattvaya) –
Quán Âm trì mật chú
Biến nước tịnh cam lồ
Diệt trừ tham sân hận
Mở trói buộc ưu phiền.
socnho
03-21-2016, 08:31 AM
THOÁT NẠN TRÊN BIỂN CẢ
Gia đình tôi gồm có bảy người, hai vợ chồng và năm đứa con nhỏ cùng vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ đánh cá với năm mươi hai người cùng xóm. Chổ khởi hành là cửa biển Thuận An, Huế vào tối hai mươi tháng tư âm lịch năm1979.
Ðó là một đêm tối trời và đầy kinh hãi, vì chúng tôi vừa cho tàu khởi hành vừa được bốn mươi phút thì bị tàu biên phòng Bình Trị Thiên phát giác và đuổi bắt. Chúng tôi ai cũng hoảng sợ, không còn đủ bình tĩnh để tính toán và nghĩ rằng, phen này tất cả đều bị bỏ tù, vì đây là lần vượt biên thứ ba bị phát giác của chúng tôi.
Trong khi nhiều người đang bối rối thì bác Tư Hiền, chủ bán tiệm vải ngày trước ở chợ Ðông Ba, hô to như ra lệnh cho mọi người trong tàu yên lặng, và bác bảo mọi người chắp tay thành kính niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Không ai bảo ai, mọi người răm rắp niệm Nam Mô Cứu Khỏ Cứu Nạn Linh Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát râm lên cả một góc trời, theo sự hướng dẫn của bác Tư Hiền giữa sóng nước mênh mông. Lạ thay, thình lình một cơn mưa nặng hạt đổ xuống tầm tã trên biển cả. Trong màn đêm dày đặc, sấm chớp nổi lên giữ dội, thét gào như cơn thịnh nộ của những vị hung thần. Kỳ diệu thay, trong lúc đó con tàu nhỏ của chúng tôi chạy vi vút như tên bay, hướng ra khơi bởi một sức mạnh phi thường nào đó, ngoài sự kiểm soát tay lái của tài công. Tài công hôm đó là anh Thông và tôi là người phụ tá cùng chấm địa bàn tay lái của anh. Cùng trong lúc ấy anh cảm thấy như đang rơi vào trong giấc ngủ, nằm kê đầu trên một thác nước chảy róc rách trên một sườn núi. Ở đây có nhiều khóm trúc và trên các cây cổ thụ xinh đẹp, treo sà xuống nhiều giò phong lan đủ màu, tỏa hương thơm ngát.
Trong khi đó, tiếng mọi người trên tàu vẫn tiếp tục niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ước độ mười phút sau, thì tàu chúng tôi vượt ra khỏi hải phận của công an kiểm soát biên phòng mà chúng tôi không hề hay biết. Thoát nạn, con tàu nhỏ của chúng tôi chạy thẳng vào đảo Hải Nam chỉ hơn bốn ngày sau. Thức ăn nước uống trên tàu còn hơn một nữa, vì vật thực chúng tôi chuẩn bị cho mọi người có thể sống đến ba tuần lễ trên đường lánh nạn.
Khi tàu ra khỏi hải phận, chúng tôi những người cùng đi hôm đó tôn bác Tư Hiền là mẹ đỡ đầu tinh thần. Bác Tư Hiền khiêm tốn không chịu, nhưng vì chúng tôi năn nỉ và trình bày chi tiết về sự quan trọng của đời sống tâm linh, nên bác Tư Hiền vui vẻ nhận lời. Mà bác Tư Hiền làm mẹ đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi là xứng lắm, vì bác đã trên sáu mươi tuổi, vóc dáng phương phi, nụ cười hoan hỷ, lời nói lúc nào cũng từ tốn, sắc sảo và đầy trìu mến. Hơn nữa, bác Tư Hiền đã quy y Tam Bảo năm giới, và thọ thập thiện, và thọ Bồ Tát Giới với hòa thượng Quy Thiện từ lúc bác mới ba mươi mốt tuổi. Hòa thượng đặt cho bác cái pháp danh là Thiện Yên. Vị bổn sư không phải đặt pháp danh cho bác theo dòng kệ mà đặt theo tâm địa hiền lành và bình yên của bác. Về sau chúng tôi thường gọi bác là cụ Thiện.
Cụ Thiện Yên đã ăn chay trường trên ba mươi năm kể từ ngày thọ Bồ Tát giới. Hằng ngày cụ thường trì tụng kinh Pháp Hoa, mà phẩm Phổ Môn cụ nằm lòng như kinh tụng mỗi ngày. Cụ không những tự mình tu hành tinh tấn, mà lúc nào cũng vui vẻ khuyên bảo con cháu, người xa kẻ gần, làm lành lánh dữ. Vì cụ Thiện Yên là người đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi nên chúng tôi đều lắng nghe lời dạy của cụ là phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày và cách tu tập hàng ngày là lấy yếu chỉ kinh Phổ Môn làm đề mục trì tụng, sống theo hạnh từ bi, lợi người, cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cụ Thiện Yên sống với đứa cháu nội làm nha sĩ ở bên Thụy Sĩ. Chúng tôi cả nhà may mắn được tàu Cao Ủy đưa về Hồng Kông tạm trú sáu tháng, và sau đó được chú em bảo trợ qua Mỹ, đã có nhà ở tại một thành phố nhỏ cận Monterey, tiểu bang Calofonia.
Gia đình chúng tôi mua vé máy bay mời cụ Thiện Yên, bà mẹ đỡ đầu tinh thần của chúng tôi qua Mỹ thăm hai lần. Cụ Thiện Yên cũng có đi Pháp, Cannada, đi Úc… thăm bởi những đứa con tinh thần của cụ bảo trợ tài chánh.
Chúng tôi đến Mỹ và thỉnh tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát về thờ ngay trong nhà. Trong nhà mỗi tuần tụng kinh Phổ Môn một lần và hàng ngày mỗi người đều trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà và đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi hết lòng tri ân và kính trọng cụ Thiện Yên như hình ảnh của một vị Bồ Tát, vì không những nhờ ảnh hưởng tu hành của cụ mà chúng tôi được thoát nạn; xa hơn, chính nhờ sự hướng dẫn của cụ mà cả gia đình chúng tôi biết hòa hợp, biết thương yêu và đùm bọc lẫn nhau một cách tốt đẹp trong nếp sống mới.
Quảng Ðại
Nguyễn Thanh Hậu
(6) MA HA CA LÔ NI CA DA – (Mahakarunikaya)
Quán Âm hiện thân tướng
Mã minh hưng đại thừa
Ma quân là chấn nhiếp
Hằng tự giác, độ tha.
socnho
03-22-2016, 05:27 PM
CỨU CON THOÁT NẠN GIAO THÔNG
Trong chánh điện chùa Từ Quang tại San Francisco, đối diện với tượng thờ đức Bổn Sư Thích Ca là Quan Âm Các. Ðiện này làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất đẹp, những đường nét uốn cong, chạm trổ rất công phu. Tượng đức Quán Thế Âm ngồi trên tòa sen cũng chạm trổ bằng gỗ trầm hương và thếp vàng lá. Ðây là một bảo vật vô giá về mặt tinh thần, được Hòa Thượng Nhất Văn, vị sư người Tàu liên lạc thỉnh từ Ðài Loan. Ðiện Thờ đức Quán Thế Âm được thỉnh về tôn trí tại chùa vào tháng 2 năm 1978. Kinh phí là 9 ngàn năm trăm Mỹ kim, do gia đình đạo hữu Nguyễn Thị Quy, pháp danh Quảng Lạc phát tâm cúng dường.
Hồi mới lập chùa Từ Quang, đạo hữu Quảng Lạc có nói với tôi rằng: “Bạch thầy, Ðức Quán Thế Âm linh hiển lắm, gia đình ba mẹ con của con sống sót trên đất khách quê người, lập nghiệp nên nổi là chính nhờ Ðức Quán Thế Âm cứu thoát mọi tai nạn. Ngài đã thường báo cho con nhiều điềm mộng dị thường. Hồi mới qua, con đi làm thuê đầu tắt mặt tối, đứa con trai đầu lòng của con mười hai tuổi đi học và đi bỏ báo, cháu gái út mới hai tuổi, phải nhờ hàng xóm coi chừng và trả tiền rất đắt. Tiền bạc thiếu kém, nhưng không đáng ngại, về mặt tinh thần của con thì lại quá trống trải buồn thảm, xuống dốc vô cùng trước nếp sống khác biệt mọi thứ. Nhưng may nhờ nhớ lời mẹ con ngày xưa dặn là hễ có tai nạn nên nhất tâm lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thì được giải cứu. Con đã làm theo và đã phát tâm thờ Phật Quán Thế Âm, tụng kinh Phổ Môn, bái sám hàng ngày nên cả nhà con đều được hạnh phúc và bình yên. Nay con xin phát nguyện và mong thầy hứa khả hoan hỉ thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm về thờ ở chùa nhà để Phật tử đến chùa có cơ duyên lễ bái và phát tâm tu tập theo hạnh từ bi của Ngài, phí tổn bao nhiêu cũng được, gia đình con xin nhất tâm tùy hỷ cúng dường.”
Ðó là nguyên do Ðiện Các Quán Thế Âm tại chùa Từ Quang được thỉnh về thờ. Rất nhiều câu chuyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện cứu nguy ba mẹ con đạo hữu Quảng Lạc trong những lúc hiểm nghèo mà đạo hữu đã kể cho tôi nghe. Ðây là câu chuyện Ðức Quán Thế Âm cứu đứa con trai gia đình thoát nạn lưu thông vào năm 1981 trên đường đi Nevada.
Thành, con trai của đạo hữu Quảng Lạc, hôm đó buồn mẹ bỏ nhà đi chơi một tuần lễ chưa về. Mẹ ở nhà lo lắng và nóng ruột quá, ăn không được, ngủ không yên, bèn đóng cửa tiệm ăn mấy hôm để tĩnh tâm tụng kinh và cầu nguyện cho Thành trở lại nhà. Linh tính cho đạo hữu Quảng Lạc cảm thấy có điều chi chẳng lành xảy ra cho đứa con trai duy nhất của mình. Thành đã bỏ nhà đi chơi nhiều lần, nhưng chưa có khi nào tâm thần đạo hữu Quảng Lạc bồn chồn, lo lắng nhu lần này. Vì không an tâm nên đạo hữu Quảng Lạc thức suốt nhiều đêm để niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Trước bàn Phật, đạo hữu Quảng Lạc mệt quá và thiếp đi chốc lát. Trong lúc đó, có một em bé trai độ mười lăm tuổi, bận áo màu xanh trông rất đẹp, tự xưng là đạo sĩ của Ðức Bạch Y đến báo mộng cho đạo hữu Quảng Lạc biết là Thành, đứa con trai của bà đã bị tai nạn xe hơi và đã được cảnh sát đưa vào nhà thương lớn nhất tại thành phố Nevada. Và, em bé trai bận áo xanh còn báo mộng cho đạo hữu Quảng Lạc luôn cả số đìện thoại của nhà thương nữa. Giật mình thức dậy, đạo hữu Quảng Lạc cuống cuồng, khóc lên ầm ĩ và quá sợ nên không dám gọi điện thoại, dù đạo hữu Quảng Lạc nhớ rõ số điện thoại em bé trai đã cho trong mộng. Thay vì liên lạc ngay để biết hư thực việc tai nạn xe hơi của con mình, đạo hữu Quảng Lạc với kéo tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thờ trên bàn cao xuống sàn nhà “hạch tội” Ðức Quán Thế Âm. Ðạo hữu kêu gọi tên Ngài không ngới rồi nói: “tại sao Mẹ Hiền không cứu sống con của con. Con chỉ có một đứa con trai duy nhất mà thôi. Tại sao nó phải chết sớm, chết một cách oan uổng như vậy?...” Ngay khi đạo hữu Quảng Lạc đang “đối chất” với pho tượng đức Quán Thế Âm thì có đìện thoại reo từ cục cảnh sát Nevada gọi về báo tin tất cả chi tiết tai nạn lưu thông của Thành cho đạo hữu Quảng Lạc biết. Tình trạng tai nạn của Thành vô cùng nguy khốn. Khi nghe tin sét đánh xác thực này, đạo hữu Quảng Lạc ngất xỉu nhiều lần trong đêm. Và trong con mê đạo hữu Quảng Lạc thấy rõ ràng, một người thiếu nữ mặc áo trắng xinh đẹp đến vỗ vai an ủi và báo cho đạo hữu Quảng Lạc hay là mạng sống của Thành đã được cứu thoát, đừng quá đau khổ, lo âu. Người áo trắng nói: “Nhờ phúc đức của mẹ biết làm lành và lễ niệm Ðức Quán Thế Âm mà con được nhờ”.
Sáng hôm sau, đạo hữu Quảng Lạc mua vé máy bay cấp tốc đến thành phố Nevada tìm con trai trong một tâm tư hết sức bình tĩnh. Bước vào phòng cấp cứu, bà trông thấy một cơ thể bất động bó vải trắng nằm sóng sượt trên giường. Chung quanh có bác sĩ và nhiều y tá túc trực săn sóc. Hồ sơ bác sĩ cho hay là Thành đã bị thương tích toàn cơ thể, và nhiều đốt xương sườn bị rạn gãy, bệnh nhân có thể ở đây từ năm đến sáu tuần lễ mới biết kết quả tốt hay xấu. Dẫu Ðức Quán Thế Âm, hiện thân là người áo trắng đã báo cho đạo hữu Quảng Lạc là con trai sẽ thoát hiểm, bình an trong tai nạn này, nhưng khi nhìn tình trạng mê man và thân thể bất động của con, đạo hữu Quảng Lạc lại hết sức lo lắng và rối loạn tinh thần nên réo gọi, kêu cầu Ðức Quan Thế Âm không ngớt.
Vì tiệm ăn quá đông khách, Ðạo hữu Quảng Lạc ở lại nhà thương với con ba hôm rồi lại phải về San Francisco xếp đặt công việc để yên tâm săn sóc con trai. Kỳ lạ thay, đạo hữu Quảng Lạc về nhà chưa đầy ba hôm, thì liền sau đó, Thành, con trai của bà cũng về nhà. Lúc về nhà, Thành tìm không thấy mẹ, cậu ta liền chạy đến chùa Từ Quang lễ tạ Ðức Quán Thế Âm và tìm mẹ. Hôm ấy, đạo hữu Quảng Lạc mua lễ vật đến chùa nhờ tôi cầu an cho Thành. Không ngờ, vừa tụng kinh Phổ Môn xong, thì Thành lù lù mở cửa đi ngay vào chùa, mỉm cười và dòn dã chào hỏi mọi người một cách tự nhiên như không có tai nạn gì xảy ra cho Thành cả. Mẹ của Thành cứ trân tráo nhìn con trai như vừa sung sướng, vừa tưởng Thành như một bóng ma hiện hình ban ngày.
Thành kể lại là trong khi chán nản, uống rượu say lúy túy, lái xe chạy quá tốc độ nên xe đâm vào núi và bị ép nhẹp như một đống sắt vụn. Trong lúc đó, Thành cảm thấy như một bàn tay vô hình nào ôm Thành ra khỏi xe và đặt Thành nằm bên lề đường. Nhờ vậy mà cảnh sát phát giác và đưa Thành đến nhà thương cấp cứu. Các nhân viên cảnh sát địa phương cũng vô cùng thắc mắc đìều này và tìm không ra câu trả lời, nên lúc Thành bình phục bị hỏi cung khá rắc rối. Cuối cùng, Thành bị cảnh sát phạt 80 dollars về tội lái xe quá tốc độ. Ông Brian, nhân viên cảnh sát nói: “Mừng cho bạn thoát nạn dị thường”.
Ba mẹ con đạo hữu Quảng Lạc hiện vẫn ở tại vùng Bay Area bắc Califonia. Cả nhà vẫn phát tâm tu học tinh tấn và rất ưa làm phước bố thí. Hàng năm các ngày lễ vía Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, gia đình đạo hữu Quảng Lạc đều lo hoa trái cúng Phật, thiết lễ trai tăng cúng dường rất chu đáo làm cơm khoản đãi cả chùa.
Tôi xin nhất tâm tùy hỷ ghi lại câu chuyện nầy ra đây để ấn chứng công đức gia đình đạo hữu Quảng Lạc và gây thêm đức tin lành cho mọi người Phật tử xa gần về sự linh cảm của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát.
(7) ÁN – (OM) –
Quán Âm hiện thân tướng
Quỷ vương độ quần tà
Thủ pháp trì mật ngữ
Án ma hàng phục ma.
socnho
03-23-2016, 05:18 PM
GIẢI TRỪ VONG NHẬP
Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý. Bà Hạnh đau rất kỳ cục, bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng mà sức vóc không hề hấn gì. Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều thì mí mắt sụp xuống, buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể lể những chuyện đau buồn. Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng cơ quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đình bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh tình cho bà.
Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh tình không thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sỉ cho có lệ và để ai nấy yên lòng.
Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nhìn qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong linh đang nhập trong người bà. Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức. Tôi gạn hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì. Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Ðại Bi thì bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh, hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ mười chin, hai mươi tuổi.
Tiếng người con gái này nói mình đã chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu chìm. Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm không rõ, chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm, Tâm Kinh Bát Nhã rồi đem cho bà Hạnh uống. Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước thì liền tỉnh dậy và bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày. Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong lưng quần và trải tà áo tràng mà bà đang mặc gói tất cả thức ăn, chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo bà.
Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu. Tôi bình tĩnh niệm chú Chuẩn Ðề và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và quỳ giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa. Lúc này, vong linh mới nói rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ. Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó, có gần một trăm Tăng Ni và Phật tử, vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố tát gần đến mùa Vu Lan Rằm tháng bảy.
Sau khi tụng kinh Di Ðà, niệm danh hiệu Phật, đến chổ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất bất tỉnh. Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài. Gia đình bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh bình phục. Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.
Hôm chứng kiến lễ đưa vong linh cô gái Việt Nam chết trên biển ra khỏi người bà Hạnh và ký tự vong linh bất hạnh ấy tại chùa Từ Quang, cụ Tâm Huy chép miệng thành thơ rằng:
Pháp Phật nhiệm mầu
Cứu người khổ đau
Quan Âm linh hiển
Hạnh nguyện thâm sâu.
(8) TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ - (savalavati) –
Quán Âm thị hiện thân tướng
Uy Tứ Ðại Thiên Vương
Hùng phục như oán tặc
Cùng các loài thiên ma.
socnho
03-24-2016, 10:32 AM
CẦU NGUYỆN NHƯ Ý
Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh Thanh Nhẫn hiện ở tại San Jose. Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường đi chùa lễ Phật, nghe quý thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ thuở còn bé. Mẹ tôi cũng bày cho tôi cách ngồi thiền, tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật thì tôi thích hơn. Mẹ tôi biết ý nên khuyên tôi tụng kinh Phổ Môn để làm yếu chỉ tu học . Sau một thời gian tụng kinh, tôi có đọc 108 danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Hồi còn trẻ, tôi tụng kinh niệm Phật không đều, bữa siêng, bữa nhác; nhưng bây giờ thì đã thuần thục rồi. Tôi thường tụng kinh, niệm Phật hàng ngày không hề bỏ sót.
Ngược dòng thời gian, năm tôi hai mươi tuổi bị bệnh nặng, người nhà đưa tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở Chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thương hàn nhập lý và lên cơn sốt dữ dội. Tôi bị mê man suốt hai ngày đêm. Các bác sĩ cho người nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đã nhiễm vào tim. cả nhà tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất bình tĩnh và khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tiếp niệm danh hiệu Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả một góc nhà thương. Ngay đêm đó, khoảng hai giờ sáng, tôi đang trong cơn mê mà cảm nghe như có dòng suối nước chảy, có tiếng chim hót và tiếng chuông chùa. Tôi thấy mình bước chân lên từng cấp của một cảnh nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi cao. Trước cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Ðà Sơn, bên bờ biển Nam Hải, nơi mà Ðức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong chùa có khoảng vài trăm người đang ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Ðông. Người nào cũng có tóc và mặc áo nhiều màu rất đẹp nên tôi không nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà. Riêng tôi thì được một người đàn bà mặc áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà tranh nhỏ, nằm giữa khóm trúc nên thơ. Trong cái thất ấy có đến hai cô thanh nữ mặc áo xanh; nét mặt cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. hai vị này cho tôi biết người mặc áo trắng là thầy của họ mà người xưng là Bạch Y Quán Thế Âm. Tôi mừng quá liền cúi sụp lạy, nhưng Ðức Bạch Y đưa tay cản lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh y rót nước trong bình tịnh thủy cho tôi uống. Uống xong, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ nhàng và đầy sung sướng. Tôi bèn ngỏ lời cảm ơn Bạch Y Quán Âm đại sĩ và hai tiểu đồng rối rít. Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng chung quanh giường và niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm. Hai hôm sau thì tôi xuất viện, vì bệnh tình của tôi khỏi hẳn. Ðiều này khiến cho các bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về bệnh trạng của tôi. Mẹ tôi bảo cho họ hay rằng, tôi được cứu thoát căn bệnh ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi cũng tin như vậy, và câu chuyện này đã gây tín tâm rất nhiều cho tôi và mọi người trong gia đình thân nhân của tôi.
Tôi là con dâu trưởng sinh sống với chồng tôi nhiều năm mà không có con. Chồng tôi thì thương tôi hết mực, song những người thân phía chồng tôi "nói vào nói ra" làm cho tôi rất buồn tủi. Họ bảo tôi rằng: “Ðàn bà chi mà không biết sanh đẻ”.
Thay vì giận, đau buồn, khóc lóc, tủi hổ thân phận thì tôi lại vui và âm thầm trì tụng kinh Pháp Hoa, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và mong có được một đứa con gái ra đời cho vui nhà.
Ðiều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều năm tu tập và cầu nguyện, một đêm tôi thấy mình trở lại núi Phổ Ðà vào viếng thăm chổ sơ sài của Ðại Sĩ Bạch Y Quán Thế Âm ở. Tôi mới bước chân nửa thềm đá cao, thì thấy hai thanh nữ hầu Ðức Quán Thế Âm bước lại gần tôi và trao cho một bé gái nhỏ xinh xinh. Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.
Con tôi ra đời đã đem lại cho tôi và chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé Hiền năm nay đã tám tuổi. Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu thảo. Cả nhà, các bác, các chú, bà ngoại, bà nội hai bên ai cũng thương cháu.
Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi:
Người vô tự quạnh hiu sau trước
Sửa tất lòng tác phước khẩn cầu
Từ bi linh hiển pháp mầu
Cho trai hiển đạt gái cầu hiền lương.
Cuối năm 1979, gia đình tôi rời khỏi Việt Nam vượt biên ra nước ngoài. Khi tàu rời bến được độ hai ngày đêm thì máy bị chết. Mọi người trên tàu đều bối rối, lo âu. Nước biển, sóng gợn ì ầm át cả tiếng khóc của trẻ con, tiếng cãi vả của nhiều người với chủ tàu là “ lấy tiền người ta mà làm ăn bê bối”. Riêng tôi ngồi nhìn đứa con đang ngủ trên tay và định tâm niệm Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kỳ lạ thay, vài tiếng đồng hồ sau thì con tàu chúng tôi nổ máy và chạy khoảng bốn tiếng đồng hồ thì gặp tàu tuần tiễu của hải quân Trung Hoa Quốc Gia giúp đưa chúng tôi vào địa phận Hồng Kông. Nếu không có chiếc tàu cứu khổ này thì chúng tôi đã đắm xuống biển 150 mạng vì con tàu bị chết máy, vừa bị sóng đánh mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra kịp.
Khi được đến Mỹ, gia đình tôi ở một ngôi nhà không đủ phòng rộng rãi, nhưng tôi quyết sắp xếp để nguyên một căn phòng có nhiều ánh sáng, đẹp làm nơi tĩnh tâm và thờ phượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi có làm bài thơ tám câu để tạ thâm ân cứu khổ của mẹ hiền Ðức Quán Thế Âm như sau:
Quán Âm Bồ Tát Ðấng Mẹ Hiền
Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên
Ứng thân diệu dụng vô cùng tận
Ðại nguyện từ bi rải mọi miền.
Con xin sám hối những sai lầm
Tinh tấn tu học để thanh tâm
Ngày đêm thiền tịnh không lơ đễnh
Giác ngộ chân tâm đẹp sáng ngời.
(9) SỐ ÐÁT NA ÐÁT TÃ - (Sudhanatasya) –
Quán Âm hiện thân tướng
Bộ Lạc Tứ Thiên Vương
Khiến cải ác theo thiện
Học tu đạo nhất thừa.
socnho
03-25-2016, 03:41 PM
HẦU BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM
Sống một đời lương thiện
Thác theo hầu Quán Âm
Mẹ hiền thương con trẻ
Thường đêm ngày chở che.
Mẹ tôi đã qua đời cách đây gần năm mươi năm về trước, vì một cơn bệnh ngặt nghèo. Năm qua đời, mẹ tôi mới ba mươi hai tuổi, tôi mới lên sáu bảy tuổi đầu. Chúng tôi có bốn anh em. Anh cả và hai em gái. Sau khi mẹ qua đời, chúng tôi được Dì Út săn sóc. Dì Út bây giờ còn sống và rất khoẻ, dù tuổi Dì đã hơn tám mươi. Chúng tôi xem Dì Út như mẹ yêu, nên mỗi mùa Vu Lan đến, tôi và mấy anh em tôi đều cài bông hồng màu đỏ lên áo.
Ðêm qua, chủ nhật ngày 27 tháng 7 năm 1997 tôi mơ thấy mẹ đến thăm tôi. Gặp lại mẹ, tôi mừng lắm. Mẹ tôi cũng mừng và cả hai đều xúc động đến chảy cả nước mắt. Mẹ tôi còn trẻ và đẹp lắm. Vóc dáng trông rất mảnh mai, dung nghi đỉnh đạc. Mẹ tôi khoẻ, nhan sắc hồng hào, tướng mạo đoan trang, thanh nhã như một bà tiên.
Ðêm qua nằm mơ thấy mẹ về
Mẹ về như cánh hạc sơn khê
Thiên y lộng ngọc bay trong gió
Mỉm cười nụ hoa tiên mẹ vỗ về.
Tôi hỏi lâu nay mẹ ở đâu?
Quán Âm Bồ Tát mẹ theo hầu
Cõi phàm qua lại quê Cực Lạc
Ði đứng tùy duyên với phép mầu.
Từ ngày mẹ tôi qua đời cho đến nay, lần đầu tiên tôi nằm mơ thấy người. Ðúng là giấc mơ, nhưng giấc mơ thật kỳ lạ. Ðêm ấy ba lần thức giấc, ba lần tôi thấy mẹ tôi khi vừa nhắm mắt trở lại. Hình ảnh mẹ tôi hiện ra như ban ngày và vẫn tiếp dẫn cùng câu chuyện. Tôi nhớ rất rõ từng lời nói, từng cử chỉ, từng câu nhắc nhở, khuyến khích, hỏi han của mẹ.
- Mẹ từ đâu tới?
- Ðủ duyên thì tới, chẳng chỗ tới, chỗ về.
- Mẹ lâu nay làm gì?
- Mẹ theo hầu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Thấy tôi phân vân, và có vẻ nghi ngờ, mẹ tôi nhìn tôi mỉm cười chậm rãi nói:
Thật ra các cõi giới khác nhau đều do tâm sở duyên và sở hiện, chứ chẳng phải đâu xa. Tâm vui thì cảnh giới vui, tâm buồn thì cảnh giới buồn. Tâm tương hợp và tạo nên mọi cảnh giới, mọi hiện tượng trong trời đất.
“ Từ khi mẹ tắt hơi thở, ai cũng nghĩ là mẹ đã mất. Kỳ thực, mẹ vẫn sống và còn có duyên lành theo hầu Ðức Quán Thế Âm đi lại khắp nơi để độ người, giúp kẻ lầm than, lâm hoạn nạn. Con là người có nhiều tai kiếp, nhưng lúc nào Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát và mẹ cũng luôn luôn có mặt bên cạnh con để hộ trì cho con, giúp sức cho con lập nên chí nguyện lớn, làm lợi ích cho nhiều người.”
“Thưa mẹ, mẹ nói là Bồ Tát Quán Thế Âm và mẹ luôn luôn có mặt bên cạnh để hộ trì cho con lập nên chí nguyện.”
“Quả như vậy, vì con là hài nhi của Ðức Quan Thế Âm gởi cho mẹ săn sóc; do đó, Ðức Quan Thế Âm và mẹ vẫn có liên hệ với con trên suốt hành trình tu tập, phụng sự của con.”
“Thưa mẹ, mẹ có thể chứng minh và nói rõ hơn điều này cho con nghe được không? Con xin thất lễ với mẹ là nếu con có Ðức Quán Âm, có mẹ nâng đỡ, thì con không bao giờ gặp đủ mọi gian nguy, bệnh tật, tai ách, chướng nạn trong cuộc đời đi tu, hành đạo của con?
“Con nên trầm tư, hồi tưởng lại vài sự việc nguy biến xẩy ra trong đời con, mà con vẫn được bình yên vô sự. Hơn nữa, tu tập mà không gặp khó khăn, chướng nạn thì do đâu mà lập chí? Mẹ muốn thuật lại một vài việc cho con nhớ:
1- Năm con trốn nhà đi tu, nửa đêm hôm ấy trời mưa to và bão lụt, nước ngập lối đi. Khi con vừa leo lên chiếc cầu nhỏ để qua sông thì chiếc cầu tre ấy bị nước cuốn trôi, con chìm trong biển nước mênh mông với thân hình chú bé mười bốn tuổi. Ai đã đưa con lên cồn cát, dẫn tới đường cái quan và cho xe đón vào chùa Báo Quốc, Huế mà không tốn tiền lệ phí?
2- Con vừa đến chùa Báo Quốc là có sư tổ khai sơn chùa Giác Hải, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên đứng đợi con tại cửa Tam Quan chùa. Tối đó, người làm lễ xuống tóc cho con và khuya hôm ấy, hai thầy trò đón tàu lửa về Nha Trang. Ai đã xếp đặt việc ấy cho con?
3- Chiều ngày 18 tháng 8 năm 1959, con bị té từ trên cây dừa lửa cao vút phía bên trái cổng chùa Giác Hải, thôn Xuân Tự, Nha Trang, Khánh Hòa. Dưới gốc dừa chất từng đống đá tổ ong để xây trường học, thế mà khi con té xuống đầu, mình và toàn thân của con không bị một chút thương tích nào, con tưởng con là hình đồng da sắt hay sao?
4- Thời gian con học nội trú bốn năm tại chùa Linh Quang, Huế. Ðó là ngày 20 tháng 05 năm 1968, con bị đau thương hàn nhập lý đưa vào bệnh viện, các bác sĩ đều bó tay và đã đưa con qua nhà xác. Sau đó vài phút, hóa thân thứ bốn mươi sáu của Ðức Quan Thế Âm và mẹ đã đến mang con trở lại phòng điều dưỡng, khiến cho quý thầy, chư vị Tăng Ni và các bác sĩ, y tá tại bệnh viện Huế đều hết sức kinh ngạc. Con còn nhớ chuyện ấy không?”
Nghe đến đây, tôi không còn ngạc nhiên và nghi ngờ gì về lời nói và việc làm của mẹ tôi nữa. Vì những điều mẹ tôi nhắc lại cho tôi nghe, đều hoàn toàn đúng như sự thật. không phải khi đang đối diện với mẹ tôi trong mộng, mà ngay trong khi thức giấc, tôi kiểm chứng lại những lời mẹ tôi kể không sai điểm nào, dù các việc xảy ra trong quá khứ tôi hầu như quên hết từ lâu.
Nằm mơ thấy mẹ về thăm
Tỉnh rồi như huyễn tháng năm miệt mài
Ngủ thức quả giấc mộng dài
Ðâu là chân cảnh là đài gương trong?
Bâng khuâng ấp ủ trong lòng
Trình ra thay giọt lệ lòng trầm tư
Nhân duyên có tự bao chừ.
Chân thân như thể thái hư sạch làu
Bây giờ cho đến ngàn sau
Tình thương của mẹ nhiệm mầu vô song
Năm mươi cách bóng mẹ hiền
Ðược duyên gặp mẹ thỏa lòng con thơ.
(10) NAM MÔ TẤT CÁT LẬT ÐỎA Y MÔNG A RỊ DA – (Namaskrittva naman arya) -
Tướng Long Thọ Bồ Tát
Quán Âm thị hiện thân
Hàng phục như tà phái
Hiển lý tánh chơn không.
socnho
03-26-2016, 10:49 AM
CẦU SINH CON GÁI TOẠI Ý
Quán Âm chuyên lễ niệm
Cầu con gái thỏa lòng
Ðược môn đăng rể quý
Cả nhà đều mừng vui.
Ông bà ngoại chúng tôi sinh liên tục ba người cậu, cả đại gia đình và dòng họ ai cũng đều lấy làm vui. Riêng ông ngoại có lúc ngồi một mình uống trà đăm chiêu, nghĩ ngợi và buồn rầu. Bà ngoại thấy vậy, gạn hỏi căn do nhiều lần, ông ngoại không dấu diếm được liền nói với bà ngoại rằng:
Tôi một mình tự ý hứa với Ngài chánh tổng trong làng là hễ trong nhà có sinh con gái thì sẽ kết nghĩa làm sui gia với bên họ Nguyễn. Thế nhưng đã hơn năm trôi qua mà thời gian hứa của tôi chưa thành sự thật. Bà đừng hiểu lầm là tôi trách bà nghe, chỉ là nhà ta thiếu phước nên chưa đủ duyên cùng làm người nhà với Ngài chánh tổng đó thôi.
Nghe ông ngoại nói xong, bà ngoại thấy thương chồng, sốt ruột và lại cũng đâm ra lo lắng. Bà ngoại dầu chưa bao giờ biết việc ông ngoại có hứa về vị chánh tổng nhà họ Nguyễn về việc ông ngoại âm thầm ước muốn trong nhà có một cô con gái cho nội ngoại đề huề, ấm áp gia phong. Ðồng tình, thuận ý như nhau, ông bà ngoại tôi đều nghĩ tới việc lên chùa cầu tự, xin Phật phù hộ được sinh con gái.
Hôm ấy nhằm tiết trung thu rằm tháng bảy, ông bà ngoại tôi về thăm chùa Sắc Tứ, tổ đình Quãng Trị cúng Phật và bày tỏ ý nguyện. Trong dịp ấy ông bà ngoại tôi được duyên may gặp tổ Bích Phong từ Huế ra giảng pháp, Ngài dạy ông bà ngoại tôi phát tâm mua ngói lợp lại ngôi Phật điện bị hư dột vì chiến tranh. Ông bà ngoại tôi lại được quy y với tổ và biết lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát từ đó. Tổ Bích Phong căn dặn ông bà ngoại tôi là nên phát nguyện ăn chay, giữ giới thanh tịnh, trong sạch thân tâm thì mọi ý mong cầu đều được toại nguyện. Nhân đó tổ ban cho ông bà ngoại tôi một bài kệ văn bằng chữ Nôm như sau:
“Quán Âm Bồ Tát từ bi
Cứu người đau khổ lâm nguy ách nàn
Ăn chay giữ giới làm lành
Cầu chi được nấy toại nguyền hôm mai
Muốn cầu con gái con trai
Thành tâm lễ niệm gái trai phỉ nguyền.
Quán Âm niệm niệm tinh chuyên
Tham sân chừa bỏ lặng yên sóng cồn
Ngồi thiền đèn tuệ rạng chong
Sống vì tất cả mát dòng chân minh
Một đời chớ có sát sinh
Nguyện lòng chớ có trộm cắp dâm tà
Dối gian lường gạt tránh xa
Rượu say cờ bạc quyết từ bỏ đi.
Quán Âm cứu khổ từ bi
Thiết tha cầu khẩn thỏa lòng ước mơ.”
Bằng vào lời dạy của Tổ, ông bà ngoại tôi hết lòng phát nguyện tu tập, giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm; thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát để thờ phượng, lễ bái, xưng niệm, cầu nguyện rất chuyên cần và tha thiết. Một năm sau điều nguyện ước mong của ông bà ngoại tôi được thỏa mãn. Bà ngoại thọ thai, mẹ tôi ra đời, rồi kế đến là Dì Út ra đời. Ông cố ngoại đặt tên cho mẹ tôi là Trần Thị Vui, đặt tên cho Dì Út là Trần Thị Mừng, là niềm vui lớn tràn ngập cả nhà mong ước nguyện cầu sanh con gái được sanh con gái của ông bà ngoại tôi. Chính nhờ sự linh ứng cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm có hiệu nghiệm này mà trong đại gia đình ông ngoại và trong đại gia đình ông nội tôi, cùng bà con giòng họ xa gần, dân chúng thôn trên xóm dưới, ai ai cũng một lòng tín cẩn, phụng thờ chăm lòng lễ niệm và sống theo hạnh lành của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chuyện này được viết theo lời kể của ông Trần Hải và Trần Phước, hai người con của ông bà ngoại, cậu ruột của tôi hiện còn sống tại Long Hưng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
(11) BÀ LÔ CÁT ÐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ÐÀ BÀ – (Avalokitashavara lantabha) -
Quán Âm thị hiện tướng
Viên mãn thân trang nghiêm
Tỳ Lô Giá Na Phật
Ðộ vô lượng chúng sanh.
socnho
03-27-2016, 05:41 PM
NGỒI THIỀN TRÊN SỪNG TRÂU
Cậu bé mặc áo đỏ
Trâu ô húc vướng sừng
Mang chạy quanh miếu cổ
Lão bà hiện, trâu quỳ.
Em bé trai bận áo đỏ chừng bốn tuổi, chạy tung tăng bắt bướm từ trong vườn ngôi miếu cổ của làng. Một con trâu mộng, sừng nhọn, to tướng đang ăn cỏ nơi vỉa hè ngôi miếu cổ, bỗng hai con mắt nổi lửa đỏ ngầu, sung sục chạy đến húc cậu bé cắm lên hai sừng, rồi chạy đến khắp đường làng, khiến ai nhìn thấy cũng đều kinh hoàng và hoảng sợ. Riêng cậu bé lắc lư trên sừng trâu như đang “tọa thiền” khoái chí. Con trâu mang cậu bé chạy cùng đường, rồi lạ thay nó chạy trở về lại ngôi miếu cổ. Vừa chạy vào sân miếu, con trâu thấy một bà lão tóc bạc, chống gậy đứng trước ngôi miếu, con trâu liền quỳ hai chân trước một cách cung kính và để bà lão ẵm em bé xuống đất một cách bình yên, rồi thì bà lão biến mất. Cậu bé ấy chính là tôi, chứ không ai khác. Vết sẹo năm xưa bị trâu húc sát bụng dưới của tôi, bây giờ vẫn còn là một “di tích lịch sử” chưa phai mờ.
Khi tôi lớn lên được người nhà thuật lại rằng, mẹ tôi hay tin em bé bận áo đỏ bị trâu húc liền run rẩy bà báo tin cho bà nội hay. Bà nội nghe xong hết sức bình tỉnh, bà thong thả thắp hương đèn trước bàn Phật, rồi gọi hết cả nhà cùng người ăn kẻ ở xúm lại đông gần năm mươi người cả thảy, đồng thanh niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chỉ trong vòng mười phút sau là tôi được cứu và mang về nhà. Mẹ tôi kể là, vì câu chuyện tôi bị trâu húc mà từ đó không mấy người ưa màu áo quần đỏ, cho chí khăn màu đỏ, ông bà nội tôi đều cấm con cháu dung tới.
Bà lão hiện thân đó là ai?
Tại sao trâu lại chống chân quỳ
Bé thơ ngộ nạn mà không chết
Có phải tổ tiên có đức dày?
Những nghi vấn trên đây, tùy nơi đức tin, kinh nghiệm, sự thực tập của mỗi người để trả lời. Riêng ông bà nội và mọi người trong gia đình tôi cho rằng, bà lão hiện thân trong miếu để ra uy cho con trâu mang tôi trở lại miếu và quỳ xuống để tôi không ngộ nạn, là hóa thân của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát.
(12) NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ – (Nammo Nilakantha)
Quán Âm thị hiện tướng
Tự tánh Tỳ Lô Hải
Thanh tịnh pháp thân Phật
Cứu khổ hằng ban vui.
socnho
03-29-2016, 03:38 PM
BÀ CỤ BÁN CHÈ THOÁT NẠN.
Cụ Sen trên sáu mươi lăm tuổi, cư ngụ tại Ðà Nẵng tỉnh Quảng Nam, ngày ngày trời mưa cũng như trời nắng, phải đi bán cho xong hai gánh chè rong, mới đủ ít tiền lời mua gạo nuôi một đàn cháu.
Cụ có một người con trai lấy vợ sinh được bốn cháu nội, ba trai một gái. Cháu đầu mười một tuổi, ba cháu sau cách nhau một đứa hai tuổi. Bốn cháu nội của cụ chưa khôn lớn nhưng rủi thay, cha mẹ chúng đã qua đời cùng một lúc vì mìn nổ khi cả hai bò qua hàng rào kẽm gai của một đồn lính cũ, lượm các lon bia và lon nước ngọt để đổi gạo nuôi các con trong cảnh nghèo khó. Tám đứa cháu ngoại khác, con của người con gái lớn của cụ cũng rất thương tâm. Ðứa đầu là con trai mười sáu tuổi, bị cụt hai chân vì chiến tranh. Em thường ở nhà bò lê trên nền đất của cái bếp nhỏ xíu, giúp bà ngoại nấu đủ các loại chè. Bảy bé gái, từ mười bốn tuổi trở xuống, chỉ cách nhau một đứa vài ba tuổi. May mắn là ba cô bé sau ở trong viện cô nhi Diệu Ðịnh, lâu lâu mới được phép kéo nhau về nhà thăm bà ngoại, bốn chị lớn và người anh tàn tật. Cha chúng đi lính bị chết, mẹ mắc phải bệnh đau tim và qua đời hồi đứa con gái mới sinh được ba tháng. Nhờ lúc còn sống, mẹ của các cháu hay đến cô nhi viện Diệu Ðịnh làm công quả, tắm giặt, lo cơm nước cho các em bé mồ côi, nên sau khi bà qua đời ba đứa nhỏ được ban giám đốc viện mồ côi ưu tiên giúp đỡ.
Tôi được biết chút ít về gia cảnh buồn tủi, khốn khổ của cụ Sen, vì tôi quen biết cụ bằng những chén chè nếp canh khuya khi cụ đi ngang qua chùa Phổ Ðà trên đường đi bán chè về nhà của cụ. Hồi đó, năm 1964 tôi đang chương trình đệ tứ trường trung học Bồ Ðề Ðà Nẵng. Ðêm nào tôi cũng thức để học bài và làm bài đến mười hai giờ khuya. Làm bài xong, ngồi canh chừng ở bờ tường có lổ hổng chờ cụ Sen đi bán chè về. Nếu may lắm thì những chén chè nếp nấu với đậu ngự còn sót lại, cụ chỉ bán cho tôi và các chú tiểu giá tiền phân nửa. Khi mua được những chén chè của cụ, chúng tôi phải ngồi ăn tại bờ tường để trả chén lại cho cụ. Có lần nghe tôi nói chuyện đi tu cũng nhớ cha nhớ mẹ, nhớ ông bà nội, ông bà ngoại lắm. Cụ nghe xong rồi chảy nước mắt. Từ đó cụ cho chúng tôi ăn chè mà không hề tính toán; hễ có chút ít tiền thì trả, bằng không thì thôi, cụ cho ăn miễn phí. Cụ nói cụ xem chúng tôi như cháu của cụ. Ăn chè của cụ mà được miễn phí nhiều lần quá, nên tôi rất ngại. Tôi liền nghĩ ra cách đền đáp cụ là dạy cho cụ Sen bán chuyên tâm lễ niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Một hôm tôi nói với cụ.
“Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát linh lắm cụ ơi! cụ có rãnh nên ghé vào chùa lễ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Bằng như quá bận rộn, thì cụ cứ chuyên tâm mà niệm “ Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” lâm râm trong miệng thường xuyên cũng được. Cụ rất tin và nghe lời. Nhưng vì cụ không biết chữ, nên tôi phải dạy cho cụ đến cả bảy lần cụ mới nhớ nổi. Cũng từ đó, tôi được nếm đủ các loại chè của cụ hoàn toàn miễn phí. Lần đầu tiên tôi được ăn chè hạt sen, một loại chè đắt tiền nhất trong các loại chè. Gọi là cụ Sen vì tôi được nhiều lần ăn chè hạt sen thượng hạng của cụ, nên tôi tự động đặt tên ấy cho cụ để nhớ lòng tốt của cụ.
Một ngày nọ, cụ Sen gánh chè đi bán, và vì trời quá nóng nên cụ ngồi sát bên bờ tường táp lô ở hông chùa Phổ Ðà để nghỉ. Vừa ngồi chốc lát thì cụ thấy có một người bận áo trắng, mặt mày rất xinh vừa đi vừa khóc như có chuyện buồn. Thấy vậy cụ động lòng trắc ẩn liền chạy theo để hỏi lý do và có thể an ủi người ấy. Nhưng khi cụ vừa đến thì nàng biến mất như một cái bóng liền ngay lúc đó, bờ tường cũ mà cụ Sen ngồi nghỉ mát bỗng ngã xuống rất mạnh, choán hết cả lối đi và làm tan nát gánh chè của cụ. Tôi và các chú trong chùa nghe mọi người hô hoán là bờ tường chùa bị đổ, chúng tôi chạy ra xem thì thấy cụ Sen mếu máo khóc vì tiếc rẻ gánh chè bị mất và soong nồi chén bát đều bị tiêu tán. Tôi đã an ủi cụ là “của mất mà người còn”. Và tôi “báo cáo” cho cụ Sen rõ, đó là nhờ cụ tin tưởng Ðứa Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhờ cụ thường niệm danh hiệu Ngài mỗi ngày nên có sự linh nghiệm. Thưa cụ, người thiếu nữ bận áo trắng mà cụ thầy kia chính là hóa thân thị hiện cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu không có Bồ Tát giả làm người con gái đến cứu cụ thì cụ đã theo ông bà rồi.
Không chỉ an ủi cụ Sen thôi, thực tế hơn tôi đã đi xin tiền các Dì Vãi trong chùa và các Phật tử quen thân để tạo “cơ nghiệp” gánh chè bán hàng rong cho cụ Sen. Tình nghĩa giữa gia đình cụ Sen và tôi đã khắn khít nhau từ đó. Tôi có làm bài thơ tặng cụ Sen:
Chú tiểu thức khuya để ăn chè
Ăn chè miễn phí thẹn ấp e
Bèn khuyên bà cụ Quán Âm niệm
Linh ứng cho nên thành khỏi đè.
(13) HÊ RỊ MA HA BÀN ÐA SA MẾ ( Srimahapatashami)
Quán Âm hiện thân tướng
Vị vua Dương Ðầu Thần
Hộ trì các hành giả
Ðạo quả chóng viên thành.
socnho
03-30-2016, 05:09 PM
BÀN TAY MẦU NHIỆM CỦA ÐỨC QUÁN THẾ ÂM
Tôi sống nhờ bàn tay mầu nhiệm
Ðức Quán Âm cứu khổ mẹ hiền
Một tai nạn lưu thông khó thoát
Một linh ngời linh diệu bình yên.
Hôm đó tôi đi lên bộ nội vụ với thầy Pháp Bạc để xin giấy tờ đi Mỹ. Trên đường đi, di chuyển bằng chiếc xe Vespa cũ của thầy Pháp Bạc và do thầy cầm lái. Không may, khi chiếc xe chúng tôi lướt nhanh trên đường từ Phú Lâm lên Sài Gòn thì bị một chiếc xe M.C của quân đội, do một anh lính hạ sĩ quan Việt Nam say rượu cầm lái, húc mạnh và cán lên chiếc xe Vespa của hai chúng tôi. Lúc vừa bị xe lớn cán lên xe và lên người hai chúng tôi, tôi thoáng thấy một bàn tay dài, lớn, mềm mại nhanh nhẹn ẵm lấy tôi đặt vào một gốc cây to sát lề đường. Nhiều người đi đường thấy hai ông thầy tu bị xe “chạy ẩu” cán nát bèn xúm lại và kéo ông tài xế xe M.C xuống để hạch tội, hành hung. Một số người khác dùng sức kéo chiếc xe Vespa nghiền nát như bánh tráng đang kẹp dưới chiếc xe lớn. Nhưng lạ thay, họ không thấy hai chúng tôi đâu cả. Ngồi yên trong gốc cây, tôi quán sát cảnh tượng náo nhiệt một hồi, rồi nhìn thấy thầy Pháp Bạc đang lom khom bò lên từ ống cống của rãnh nước. Kiểm soát kỷ, cả hai chúng tôi thấy không hề bị thương tích gì cả bèn chạy tới đám đông “cứu khổ” cho tài xế M.C. đang bị bà con tấn công chuộc tội. Tôi thong thả bước tới dang hai tay cản những người đang hành hung bác tài xế và nói to: “chúng tôi còn đây nè, cả hai thầy tu chúng tôi không bị thương tích gì cả trong tai nạn này, xin cảm ơn bà con cô bác đã quan tâm và xin tất cả vui lòng, tuyệt đối không nên làm khó dễ bác tài xế.” Nghe lời tuyên bố, cả đám đông gần mấy chục người yên lặng và vô cùng kinh ngạc nhìn hai chúng tôi với nét mặt mừng rỡ, cung kính. Riêng bác tài xế thì khóc sướt mướt và quỳ xuống đường chấp hai tay lạy chúng tôi như lạy tế trời.
Nhân đám đông và cảnh sát công lộ có mặt làm hồ sơ tai nạn lưu thông, tôi đã lợi dụng cơ hội này diễn thuyết một hồi về sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi nói vắn tắt mấy lời như sau:
“Kính thưa quý vị, hai chúng tôi bị tai nạn khủng khiếp, có thể chết trong đường tơ kẻ tóc. Nhưng quý vị xem thân thể hai anh em chúng tôi dây, không hề bị thương tích gì cả. Áo quần chúng tôi rất sạch sẽ, không bị lấm đất, không dính một giọt máu vì tai nạn. Quý vị thấy có lạ không? Ðây là pháp Phật nhiệm mầu. Hai anh em chúng tôi nhờ sớm biết đi tu, không gây tạo điều xấu ác, nên có thiện quả và có Phật Thánh, Hộ pháp, Long thiên, Chư thiên che chở. Vừa rồi hai anh em chúng tôi được thoát nạn, chính là nhờ bàn tay cứu vớt của Ðức Quán thế Âm Bồ Tát. Ngài là Phật, là vị Thánh linh hiển hay cứu giúp mọi người khi ai thường tin cẩn và niệm tên của ngài…” Nói tới đây, bổng tôi niệm lớn Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát và kỳ diệu thay, tất cả mọi người kể cả những cảnh sát viên cũng niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát theo sự hướng dẫn của tôi. Cũng nhờ vậy mà trong đám đông ấy có rất nhiều người trở thành Phật tử thân tín của tôi trước khi tôi đi học ở Mỹ.
Sau tai nạn ấy, tôi hỏi cách tu tập hàng ngày của thầy Pháp Bạc. Thầy nói, thầy đã tin Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát hồi còn chưa xuất gia và đêm nào thầy cũng trì tụng kinh Ðại Bi ba biến, niệm tên Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát 108 lần mới đi ngủ. Riêng tôi thì hay tụng kinh Phổ Môn và kinh Pháp Hoa suốt trong cuộc đời xuất gia. Tôi tin Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát như năng lực mầu nhiệm sẵn có trong tự tâm và năng lực ấy giao cảm được với năng lục tối cao của chư Phật, chư Bồ Tát. Và, Bồ Tát Quán Thế Âm, cứu khổ chúng sinh vô cùng tận trong đời vị lai. Ngài, vị thánh linh hiển.
(14) TÁT BÀ A THA ÐẬU DU BẰNG (Sarvadvatashubham)
Quán Âm hiện thân tướng
Bồ Tát Cam Lộ Vương
Tay cầm bình tịnh thủy
Cành dương giải oán thù.
socnho
03-31-2016, 03:40 PM
CHỮA LÀNH BỆNH BÀI BẠC
Bệnh bài bạc khảo đảo
Chuyên trì chú Ðại Bi
Niệm Quán Âm danh hiệu
Thoát khỏi khổ tai ương.
Dì Ẩn một nữ tu tại gia và phát nguyện lui tới ngôi chùa nhỏ, không có thầy trú trì để lau bàn Phật, quét tước và làm công quả. Quê của Dì ở Huế, nhưng vào trú ngụ với người cháu họ tại Ðà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Nam.
Tôi quen Dì vì có thời gian tôi xin thầy giáo thọ rời Phật học viện Phổ Ðà về khuôn hội Vĩnh An tạm trú để học bài thi và được Dì Ẩn lui tới nấu cơm, làm bánh nậm, bánh bèo cho ăn. Ăn hoài nên “mắc nợ” của Dì quá nhiều, tôi nghĩ tới chuyện đền đáp nên tìm cách hướng dẫn cho Dì Ẩn học thuộc mười hai lời nguyện của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi khuyên dì nên niệm danh hiệu Quán Thế Âm, cùng lễ lạy Bồ Tát mỗi sáng sau khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ. Dì rất vui, tha thiết tin theo và thực tập rất tin cần. Khoảng hai tháng sau, một hôm Dì tới chùa gặp tôi với nét mặt buồn rầu, mỏi mệt, chán nản, đau khổ. Hỏi ra tôi mới biết về chuyện “xấu” đã xảy đến cho Dì.
Dì Ẩn nói cách đây bốn tuần lễ, có một bà bạn cũ ghiền cờ bạc tới chơi nhà rủ rì rủ rê Dì nhập sòng bài “cầu tài”. Không dè tiền chẳng tới mà nhà cửa sa sút. Bao nhiêu vốn liếng làm việc cực khổ dành dụm bấy lâu bây giờ Dì đã đem tế sống cho “cô hồn ác đảng” lại còn phải mắc nợ mấy bà bạn “giàu lòng” thiện cảm nữa. Nói xong rồi Dì khóc nức nở và cho là Phật Bà Quán Âm không thương tưởng, không cứu khổ, không linh thiêng phò trì cho vụ nhập sòng đen đỏ của Dì.
Tôi nghe Dì kể xong mà phát giận. Giận vì Dì không tới chùa làm bánh cho ăn. Giận vì Dì để lòng tham xui khiến sa vào thói đỏ đen bài bạc rồi lại trách Phật Thánh, Bồ tát Quán Âm không cứu độ, phù hộ cho việc đánh bạc của Dì. Trong khi tôi bực bội quá đỗi, Dì lại năn nỉ tôi cứu Dì bằng cách cho Dì mượn mấy chục ngàn để trả nợ, nếu không tiền lời của chủ nợ sẽ làm lên ngập đầu. Tôi chịu hết nổi sự khóc lóc, kêu nài vô lý của Dì. Tôi bèn làm dữ với Dì và thay vì nói tới tiền bạc, tôi khuyên Dì Ần nên tiếp tục niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đọc kinh Ðại Bi mỗi ngày hai mươi mốt biến và phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa với tôi mỗi buổi tối tại chùa.
Dì Ần ở chùa làm công quả và tu tập được một tuần sau thì có hai bà to mập, phì nộn tới chùa tìm Dì Ẩn đòi tiền lời và tiền vốn cho Dì vay để đánh bạc. Tôi đã tiếp họ thay vì để Dì Ẩn chường mặt với hai bà phụ tá chủ sòng bạc kín tại thành phố Ðà Nẵng. Trong khi tiếp xúc với hai bà, tôi đã khéo lời khuyên hai bà ấy về “tội dụ dỗ” người hiền đánh bạc. Nhân đó tôi đọc một bài thơ cho hai bà nghe và Dì Ẩn ngồi trốn trong liêu cũng nghe nữa. Bà thơ ấy tôi không nhớ rõ là của ai, nhưng khi nó tuôn ra từ miệng của tôi thì có một năng lực kỳ diệu. Bởi vì tôi đọc xong và giải thích thêm về ý nghĩa, chi tiết của bài thơ thì hai bà rơi nước mắt. Sau đó, xin vào điện Phật lạy sám hối. Trước khi hai bà ra về, họ hứa với tôi là sẽ tìm thầy quy y học đạo, không tham gia vào nghề đen đỏ và họ hứa không đòi tiền nợ do Dì Ẩn mượn nữa.
Bài thơ ấy có nhan đề là "Đồng tiền phi nghĩa":
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền
Mi làm nhân loại hóa ra điên
Mi tô mặt nạ đen thành trắng
Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên.
Mi đạp luân thường vô một xó
Mi xô trí tín dẹp đôi bên
Mi xua thế giới đâm nhau mãi
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền.
Sau khi “cứu” được Dì Ẩn ra khỏi bệnh bài bạc, tôi rất có niềm tin nơi Ðức Quán Thế Âm Bồ tát. Vì tôi không ngờ chuyện khó “tầy trời” của Dì Ẩn và chuyện đòi tiền của hai bà nghề bài bạc mà có thể vượt qua được. Người tin tưởng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát sâu sắc, chân thành hơn tôi nữa, đó là Dì Ẩn. Vì từ khi có biến cố khó khăn cùng cực xảy ra và vượt qua khỏi, thì Dì Ẩn mới phát tâm tin hạnh cứu khổ của Ðức Quán Thế Âm nhiều hơn. Mừng chuyện tiến tu của Dì Ẩn tôi có làm bài thơ trào phúng tặng Dì như sau:
Dì Ẩn trong phòng trốn nợ kêu
Tim run muốn rớt nhịp không đều
Quán Âm thầm niệm thôi lia lịa
Ðể chú trọc đầu phải chịu trêu.
Quán Âm cứu khổ pháp linh mầu
Giúp người ra khỏi chốn sầu đau
Múa gậy đọc thơ đất chuyển động
Tình mê sáng dậy chiếu ngàn sau.
(15) A THỆ DỰNG ( Ashiyum)
Quán Âm hiện thân tướng
Phi Ðằng Quỷ Dạ Xoa
Ðộ những người hung hiểm
Bỏ ác theo pháp lành.
socnho
04-02-2016, 10:48 AM
MẮT MÙ LẠI SÁNG
Lúc 53 tuổi, mắt của Dì Mão tự nhiên bị đỏ lói rồi sưng to. Sau đó không bao lâu thì hai mắt của Dì bị mù. Các thầy thuốc đông y, tây y đều tìm đến chữa trị, song không có hiệu quả. Tình trạng này kéo dài rất nhiều năm, khiến Dì rất đau khổ và khó khăn cho đời sống vô cùng. Có một lần Dì mò ra bờ ao hái rau muống, không may bị trượt chân té xuống hồ sâu ngập nước, suýt chết. May có người hàng xóm đi qua nhanh tay cứu Dì qua cơn tai nạn.
Gặp lúc bệnh khổ ụp tới, cùng đường bí lối, Dì Mão mới quay về Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu Ngài cứu khổ, cứu nạn. Cộng thêm sự huy động tinh thần và lời khuyên dạy của Hòa Thượng Phổ Phổ Thiên, Trụ trì chùa Phổ Ðà tại Ðà Nẵng. Dì Mão tăng phần tín nhiệm, tin tưởng vào thần lực của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ đó, Dì Mão bắt đầu chuyên niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và lễ bái chuyên cần sớm tối, tha thiết mong cầu được sớm lành mắt, tai qua nạn khỏi. Cứ sau mỗi lần lễ bái, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm được 108 lần, dì Mão lại đọc lời tác bạch trước tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát:
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Dì cứ lặp đi lặp lại 21 lần rồi nói: “con là người mê muội, chữ nghĩa không rành, lý đạo chẳng thông, nghiệp chướng sâu dày, mang nhiều nổi khổ. Nay hai mắt bị mù lòa, tâm thần rối loạn, sống mà cũng như chết. Lòng con không an, khổ lắm. Mong Ðức Phật Bà Quan Âm cứu giúp, chữa trị cho hai con mắt của con sáng lại. Con nguyện sau khi hai mắt của con được sáng, con xin trọn đời vào chùa làm công quả, chuyên làm việc lành, phụng sự Tam Bảo, không hề luống phí thời gian, chuốc thêm nghiệp xấu, phiền não. Xin Ðức Phật mười phương soi sáng, xin Ðức Bồ Tát Quán Âm chứng giám cho lời phát nguyện chân thật của con”.
Kỳ diệu và linh nghiệm thay, sau gần ba tháng chuyên tâm trì niệm hồng danh, lễ bái và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, đôi mắt của Dì Mão được sáng lại như xưa. Trước khi lành bệnh có chuyện xảy ra là một buổi sáng Dì Mão đang ngồi lần chuỗi, miệng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tại góc chuông chùa Vĩnh An, thuộc khuôn hội Phật Giáo tỉnh Quảng Nam Ðà Nẵng thì bỗng có một người “khách lạ” nói giọng người con gái nhỏ nhẹ và tự xưng là học trò của Ðức Quán Thế Âm mang tới biếu người có lòng tin cậy, lễ niệm thuốc Phật Bà. Nói xong tự tay cô gái bỏ thuốc vào miệng cho Dì Mão và bảo là uống thuốc rồi chắc chắn sáng mai mắt sáng. Thì ra đó là giấc mơ của Dì Mão đã xảy ra đêm qua trước khi mắt dì được sáng lại. Dì nói giấc mơ rõ ràng như chuyện xảy ra ban ngày vậy.
Chuyện Dì Mão lành đôi mắt nhờ lễ niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát đã lan tràn khắp tỉnh và xóm làng. Khiến nhiều người chưa quy y, chưa biết gì về đạo Phật cũng đều phát tâm tín cẩn Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và đi thỉnh tôn tượng của Bồ Tát về thờ phượng, lễ bái.
Mắt mù khó sáng lại
Thuốc Ðông tây khó lành
Niệm Quán Âm lễ nguyện
Cảm ứng bất tư nghì.
Dì Mão là một thành viên rất thuần thành và hết sức tích cực trong việc hộ trì Tăng, Ni trẻ tu học thiếu điều kiện vật chất trong số đó có tôi. Từ khi Dì được Bồ Tát Quán Âm cứu khổ và điểm hóa, Dì Mão đã trở thành bà mẹ tình thương của rất nhiều trẻ thơ mồ côi, xấu số. Dì đã trải dài cuộc đời còn lại của mình để phụng sự Phật pháp và tình thương với nụ cười, đôi tay khoẻ trong trái tim giản dị, tươi mát, mộc mạc, hiền lành của Dì. Dì sống gần đến chin mươi mới qua đời. Nhà thơ Nguyễn Duy An đã từng thọ ơn của Dì Mão rất nhiều và có đọc tặng Dì bài thơ Bà Mẹ Tình Thương khi tiễn Dì lần cuối:
Dì không sinh con đẻ cháu
Mà con cháu đầy đàn
Tâm Dì hiền như Phật
Lòng Dì rộng thái không
Tình nào bằng tình mẹ
Tình Dì còn trội hơn
Một đời trong như ngọc
Lấy nụ cười hồn nhiên
Dùng đôi tay mềm nhẹ
Bên lời nói ngọt ngào
Với nghi biểu ngời sáng
Nuôi bé nghèo đơn côi
Dì tình mẹ cao vút
Nhớ hạnh Dì bao la
Lời không thể nói được
Kính thương Dì không nguôi.
Xin cầu Dì về bến
Cõi Cực Lạc Di Ðà
Sống an hòa tự tại
Hóa thân về thăm quê.
(16) TÁT BÀ TÁT ÐA ( NA MA BÀ TÁT ÐA) NA MA BÀ GIÀ
Quán Âm hiện thân tướng
Thần Vương Bà Già Bà
Hàng phục các ma chướng
Ðộ những kẻ hữu duyên.
socnho
04-03-2016, 05:43 PM
ÐỨC QUÁN ÂM ÐIỂM HÓA
Bất đắc làm thiện sự
Chán hầu điện Quán Âm
Bồ Tát hóa thân nữ
Dẫn độ tiểu đồng vui.
Chú tiểu mười bốn tuổi, đến tu chùa Giác Hải, núi Ông Sư. Chùa dựng lên trên mấy chục mẫu đất, cây cảnh xanh tươi, có nhiều thú dữ. Ðỉnh núi Ông Sư có điện Quán Âm thờ Phật Bà, tiếng đồn rất linh hiển. Chùa thiêng, cảnh rộng, việc tụng kinh, quét tước và tạp dịch có muôn thứ, thế mà trong cảnh già thanh lam thanh tịnh, u tịch chỉ có bóng dáng hai thầy trò, sớm tối lễ bái, chuyên tay làm đủ mọi thứ không có giờ giấc nghỉ ngơi. Ðã thế, có lúc sư phụ phải đi xa, ít thì vài ba tuần và nhiều thì vài ba tháng, để lại chú tiểu ở nhà một mình quán xuyến tất cả.
Nỗi lo lắng, sợ hãi và bối rối nhất của chú tiểu là cứ mỗi buổi chiều mặt trời sắp lặn thì chú tiểu phải leo lên đỉnh núi Ông Sư để thắp hương, lau các bóng đèn hột vịt và châm dầu vào các bình đèn lồng. Ðể trốn sự lo lắng, sợ hãi về bóng tối, cọp, ma, quỷ, thần linh…chú tiểu phải leo lên điện Quán Âm lúc trời đứng bóng. Nhưng chú tiểu vỡ lẽ là không thể châm dầu và thắp đèn lúc này được, vì lên đèn sớm quá dầu lại hết khi trời mới nhá nhem tối. Chú tiểu lại “lỡ” học bài và “lỡ” hứa với sư phụ là không thể làm dối, nói dối. Thế là sự lo lắng, sợ hãi và bối rối của chú tiểu mặc sức bành trướng và bao trùm. Từ đó chú tiểu đâm ra giận dỗi sư phụ, giận dỗi Ðiện Bà và Phật Bà Quán Âm. Dù biết giận dỗi như thế là vô lý song chú tiểu vẫn không biết làm gì khác hơn.
Một hôm trời còn sáng, chú tiểu ngồi bậc dưới chân Ðức Quán Thế Âm, mắt ngước nhìn diện mạo Phật Bà, khóc tức tưởi. Khóc đã thèm rồi đôi co với tượng Phật Bà
“Sư phụ đi vắng, con ở nhà một mình sợ gần chết, sợ té nước trong quần mỗi tối lên đây thắp dầu. Phật Bà có linh thiêng thì giúp con làm cho các cây đèn hột vịt này sáng hoài, bóng sạch sẽ hoài và dầu trong bình không hề cạn. Phật Bà mà làm không được thì không thể gọi là Phật Bà linh thiêng được, phải không Phật Bà ?!.”
Nói xong, chú tiểu như trút được một ít sự bực nhọc, lo lắng, sợ hãi và giận dữ trong lòng. Dù vậy, chú tiểu vẫn không tin tưởng là Phật Bà làm được chuyện nhỏ thắp đèn mà chú cằn cựa thách đố. Vì vậy, mỗi lần lên điện Quán Âm lau bóng đèn, châm dầu là chú lại ngồi khóc, bực tức, giận dỗi, thách đố và cằn cựa với Ðức Quán Âm bằng cách lập đi lập lại sự đòi hòi của mình. Một buổi chiều mưa bão lớn, cây cối ngã đổ khắp vườn chùa, chú tiểu không hề nhìn và không màng nghĩ tới. Trời mới ráo cơn mưa, chú tiểu cấm đầu chạy ù leo lên đỉnh núi vội vàng vào điện Quán Âm để kiểm tra mấy cây đèn hột vịt thắp trong điện thờ Phật Bà. Trực nhìn vào điện thờ, chú tiểu kinh hãi vô cùng và run lên như cầy sấy, vì ba mươi hai cây đèn hột vịt bóng còn trong sáng, tim đèn còn cháy và các bình còn đầy dầu nguyên vẹn không hao hụt. Bão to, gió lớn và cơn mưa ầm ầm như thác chảy, thế mà các cây đèn hột vịt nhỏ nhoi kia và mấy dãy đèn có lồng kiến bốn góc kia không một cây nào đổ bể. Chú tiểu từ đó, không dám “cằn cựa” và “hằn học” với Ðức Quán Âm nữa. Một hôm khác, chú tiểu vừa lên điện Quán Âm, xa xa có thấy ba bốn cô thiếu nữ mặc áo trắng rất xinh đẹp từ điện Phật Bà đi ra và bay nhẹ trong gió. Chú tiểu vào điện Bà quán sát, các cây đèn vẫn sáng, bóng đèn như vừa mới được lau và dầu trong các bình còn đầy nguyên vẹn.
Chú tiểu đó chính là tôi đây. Ai đã lau bóng đèn? Ai đã châm dầu và các bình dầu? Ai là các thiếu nữ mặc áo trắng bay trong gió và biến dạng vào hư không? Những câu hỏi ấy không ngừng khơi dậy trong đầu một chú bé như tôi. Tôi có đem chuyện này kể lại cho sư phụ tôi nghe. Người nói: “Ðó là Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân để điểm hóa con. Từ nay con phải hết sức kỉnh lễ, niệm danh hiệu và phụng sự Ngài, chớ đem tâm dể duôi, thất kính đối với Ðức Quán Thế Âm nữa.”
Hồi đó, sư phụ nói vậy tôi nghe vậy, lòng tin cậy vào sự gia ân, thị hiện cứu độ của Ðức Quán Thế Âm đối với tôi vẫn còn nghi ngờ, xa lạ. Nhưng bây giờ thì đã khác hẳn, không những tôi tin năng lực cứu độ mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm thôi mà tôi còn tập sống theo hạnh từ bi của Ngài một cách tích cực và bền bỉ.
(17) MA PHẠT ÐẠT ÐẬU – (Ma bhate tu) –
Quán Âm hiện thân tướng
Quân Tra Lợi Thắng Vương
Mặt có ba con mắt
Soi suốt tâm con người.
socnho
04-04-2016, 04:23 PM
CẢN NGĂN SỰ GIẾT CHÓC
Ðiện Quán Âm linh ứng
Trên đỉnh núi ông sư
Cản ngăn sự giết hại
Lính đôi bên an toàn.
Năm 1960, đó là đêm trăng sáng, Rằm tháng Tám âm lịch. Một đại đội nghĩa quân hợp tác với lính phòng vệ quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa do trung úy Nam, người thiên chúa giáo âm thầm kéo quân lên điện Quán Âm, đỉnh núi Ông Sư, chùa Giác Hải, thôn Xuân Tự để phục kích lính Việt cộng nằm vùng để cổ động dân làng hội họp, tuyên truyền, chống đối chính sách quốc gia dưới trào ông Ngô Ðình Diệm, Rủi thay hôm đó lính quốc gia đã tới trễ một bước, lính du kích Việt Cộng đã đến trước và dàn binh bố trận xung quanh Ðiện Quán Âm để tàn sát lính quốc gia. Họ đã nổ sung và ném lựu đạn vào đội binh quốc gia do trung úy Nam chỉ huy. Song kỳ lạ thay, Việt Cộng khai hỏa trước, nhưng các nòng sung đều bị điếc. Các quả lựu đạn như trái khế được ném tung ra để ném đội binh quốc gia, nhưng chúng lăn lóc như đá núi, không có trái nào nổ cả. Hai bên hô hoán, xáp chiến vật lộn nhau một hồi, rồi tản mạn và rút lui có trật tự, không một bên nào bị tổn thất nhân mạng.
Cũng từ đó, lính du kích Việt Cộng không bao giờ bén mảng đến chân núi Ông Sư, chứ nói chi là vô ngồi cười nói vô lễ, thất kính, ngổn ngang trong công viên điện thờ Phật Bà như những lúc trước. Ðại đội lính nghĩa quân trong làng Xuân Tự và lính canh phòng quân Vạn Ninh lại đều kiêng nể Phật, Bồ Tát, thánh linh Quán Âm từ dạo xảy ra chuyện “Ðức Quán Thế Âm ngăn cản sự giết choc” trong khuôn viên núi Ông Sư, điện Phật Bà Quán Thế Âm.
Chuyện này chúng tôi biết rõ tự sự từ chi tiết, vì chỉ ngày hôm sau xảy ra cảnh lính đôi bên “ẩu đả” nhau trên núi linh thờ Phật Bà, đại úy tiểu đoàn phó giữ an ninh biên phòng quận Vạn Ninh và trung úy Nam hướng dẫn khoảng hơn một trăm người ăn bận lịch sự, mang lễ vật hương đèn, trái cây, gạo nếp, dầu thắp và một số tiền mặt đến chùa Giác Hải, gặp bổn sư chúng tôi, tức là Ðại sư Viên Giác trú trì chùa Giác Hải, sáng lập điện Quán Âm trình bày chuyện Quán Âm linh ứng, cứu thoát trên năm trăm mạng người, nhờ các nòng súng AKa và lựu đạn trái khế của Việt Cộng được Ðức Quán Âm hãm ngòi.
Không bao lâu chuyện này được lan truyền khắp thôn xóm, tỉnh lỵ xa gần và đến tai các cấp chủ chiến đôi bên. Từ dạo ấy núi Ông Sư, chùa Giác Hải, Ðiện Quán Âm không còn là nơi sát phạt, thù nghịch lẫn nhau giữa người quốc gia và Việt Cộng nữa. Cũng từ dạo ấy người Phật tử, khách bàng quan, từ các tỉnh trong ra tỉnh ngoài và từ các tỉnh ngoài vào các tỉnh trong, ai ai cũng ghé chiêm cung, đãnh lễ điện Nam Hải Phật Bà ngày lại tháng qua đông như hội Tết. Nhân việc này, Bác Bảy Trưởng Bạn Hộ Niệm và nghi lễ chùa Giác Hải có thơ đề:
TA BÀ NỞ HOA
Nam bắc anh em một nhà
Là con của mẹ Âu cơ hiền hòa
Giết nhau chi huyết lệ nhòa
Tổ tiên đắng mật khổ nhục cháu con
Ðất trời cây cỏ núi sông
Giọt sầu thiên cổ xa trông mỏi mòn
Hiển linh sáng dậy đầu non
Quán Âm hóa giải oan gia thâm thù
Ðêm về trăng sáng trời thu
Súng đôi bên hãm, mây mù sương tan
Quân thoát nạn, dạ bình an
Quán Âm Bồ Tát giải nàn ách tai
Hoa từ bi kết sen đài
Thánh linh Nam Hải độ đời lầm than
Chấp tay quỳ tụng Ma- ha
Xin cho khổ não ta bà nhẹ vơi
Xin cho tình lại về ngôi
Ðể cho súng đạn là hoa trôi dòng
Xin cho vận nước long đong
Biến thành hoa tạng khơi nguồn yêu thương
Xin cho vạn đợt tai ương
Biến thành chân thể bên đường trầm luân.
(18) ÐÁT ÐIỆT THA – (Tadyatha) –
Quán Âm hiện thân tướng
A La Hán vào đời
Tùy phương tiện thuyết pháp
Giác hóa độ nhân sinh.
socnho
04-05-2016, 04:20 PM
GIẢI NHẬP OAN KHIÊN
Vong nhập người con gái
Thuốc khó chữa trị lành
Quán Âm thường lễ niệm
Giải oan khiên khó trừ.
Ở Ninh Hòa, cách tỉnh Nha Trang một giờ lái xe, có người con gái con một gia đình người Tàu giàu có tên là A Thố. A Thố người to, tướng mạo đẹp, mạnh khỏe, phương phi như một nữ võ tướng. Tuy vậy tâm tánh của A Thố rất hiền lành, thích đến chùa làm công quả, tụng kinh, niệm Phật và may y phục cho quý Thầy. Những mùa an cư, A Thố thường đến Phật học viện Hải Ðức ở Nha Trang phụ các dì nấu cơm, gánh nước cúng quý Thầy trong dịp lễ tự tứ, mãn ba tháng an cư kiết hạ. Nhờ biết tu tập, kính trọng chư Tăng, siêng năng làm việc, nói năng chất phác, vui vẻ nên từ trên Hòa Thượng Giám viện đến dưới đại chúng và các dì đều thương mến A Thố. Vì tìm được không khí an tịnh và niềm vui trong thời gian ở chùa làm công quả, nên A Thố có ý xin xuất gia làm đệ tử Ni sư Chánh Lượng ở chùa Hang, sau này gọi là chùa Hải Ấn, gần xóm Bóng, Nha Trang.
Khi biết con gái có ý định xuất gia, cha mẹ A Thố rất mừng, vì hai ông bà và cả nhà rất trọng đạo, tổ tiên nhiều đời tin Phật, quy y Tam Bảo. Nhưng ý định đi tu của A Thố không được suông sẻ, vì cha mẹ có hứa gả A Thố cho một cậu con trai con một của ông bà Phú Hưng, một gia đình người Việt gốc Tàu, làm tiệm thuốc bắc ở Ninh Hòa rất khá giả. Nửa lòng thì muốn xuất gia làm ni cô, nửa lòng thì muốn lấy chồng, giữ chữ tín cho cha mẹ đối với ông bà sui, cha mẹ chồng tương lai. Vì sự việc này, nguyện xuất gia của A Thố kéo dài ba năm mà chưa thành. Trong cái rủi lại gặp cái may, cậu con trai của ông bà Phú Hưng, người chồng tương lai của A Thố bị tai nạn qua đời nên việc chọn đường đi tu của A Thố trở nên dễ dàng. Chừ trong cái may lại phải gặp cái rủi. A Thố đến lúc sữa soạn vào chùa để thế phát xuất gia thì bỗng nhiên nàng bị lên cơn điên.
Bệnh điên của A Thố rất dễ sợ và khác thường. Mỗi khi A Thố lên cơn, nàng có đủ sức mạnh để lật ngược hay kéo lôi nổi một chiếc xe hơi đang chạy trên đường. A Thố rất thích và khoái chí làm việc này, nên cả nhà và ai biết tới, thấy đều kinh hoàng khiếp sợ. Vì vậy mà tay chân A Thố luôn luôn được trói bằng những sợi dây xích sắt to tướng. Thế nhưng mỗi khi A Thố lên cơn, nàng thét lên từng hồi, hai mắt đỏ ngầu như lửa, rồi nàng vùng vẫy một lúc. Cuối cùng các dây xích đều bị đứt từng khúc, tiếng kêu loảng xoảng hòa với tiếng cười vang như thách đố, ngạo nghễ và trêu chọc rồi nàng ném các đoạn dây xích bị đứt vào tận xa tít lên không. Cái sở thích khi A Thố lên cơn là nàng luôn giựt lấy các bóng đèn điện để ăn ngấu nghiến như nhai những ổ bánh mì nướng dòn. Những lúc đó, A Thố thường nổi cơn giận dữ, nghiến răng, dậm chân và thoát ra giọng the thé nơi cái miệng đầy máu me với âm thanh của một gã đàn ông: “Trời là kẻ đại gian ác, bất công. Trần gian là ngục tù là dày đặc bóng tối.” Câu nói này thường bị đứt quãng, vì uất nghẹn và bực tức.
Có điều lạ là A Thố đã lên cơn suốt gần ba tháng, không hề chịu ăn uống gì cả mà thân thể không hề bị sút giảm, sức mạnh của A Thố còn tăng gấp mấy chục lần đối với lúc bình thường. Các bác sĩ giỏi trong các bệnh viện đều bó tay vì họ khám nghiệm đủ cách mà không tìm ra bệnh lý của A Thố. Cùng đường, gia đình được người mách bảo, họ đã xiềng A Thố vào trong một chiếc xe bọc lưới sắt và đưa A Thố đến chùa Giác Hải ở làng Xuân Tự nhờ đại sư Viên Giác chữa trị bệnh vong nhập.
Ðại sư Viên Giác là thầy của chúng tôi, người chữa bệnh điên do tà nhập, quỷ ám rất thần diệu. Thấy A Thố bị trói xích sắt, tỏ vẻ hung hăng và giận dữ, thầy chúng tôi chỉ nhìn thẳng vào mặt A Thố rồi niệm chú lâm râm một hồi. A Thố quy phục và cúi đầu xuống đất. Thầy chúng tôi bảo người nhà mở trói cho bệnh nhân. A Thố ngồi yên, không la hét, không chạy nhảy và không bạo động. Thầy chúng bèn nhẩm niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và trì ba biến chú Ðại bi vào trong chén nước trong đem cho A Thố uống. Vừa uống xong chén nước, tóc A Thố dựng ngược lên và xoay tròn như gió thổi mạnh vào một đám lau sậy. A Thố gục đầu xuống khóc rồi mở lời the thé của một vong thức đàn ông bằng tiếng Việt lơ lớ: “ta là một anh linh ngoài vòng cương tỏa. Ai dám dùng danh nghĩa Quán Âm Bồ tát để hù ta, làm chướng ngại ước muốn của ta.”
Ðại sư Viên Giác lên tiếng:
“Ta là tỳ kheo, tự Chiếu Nhiên, trú trì chùa Giác Hải. Ta nương vào thần lực của đức Hóa thân Quán Thế Âm Bồ tát để khai tâm, độ thoát cho nhà ngươi. Nhà ngươi mau mau nói rõ tên tuổi ra để ta điểm hóa cho, chớ si mê cố chấp theo ái kiến mà phải đọa lạc luân hồi, ác thú trong kiếp này và vô lượng kiếp về sau, khổ cực vô tận, khó nguôi.”
Vẫn một âm thanh the thé của đàn ông như khó thở vì bị thương tích từ cuống họng và bị dập tim gan:
“Thưa sư phụ, con đây tên là T.M.H là vị hôn phu hụt của A Thố. Con chết vì tai nạn xe hơi khi đi chở hàng từ Sài Gòn ra Nha Trang, xe lật xuống chân núi vì mìn của lính Việt Cộng. Con chết quá đột ngột, không thể đi đầu thai được. Lại vì thương A Thố nên con đi theo A Thố để được sống bên nhau, đâu có ý làm hại A Thố.”
Ðại sư Viên Giác hạ giọng thương xót và giải khuyên: “Ta đây thật thông cảm nổi khổ đau của nhà ngươi. Thôi hãy chí thành quy y theo Phật và chí tâm sám hối, niệm Phật theo lời ta dạy để được sớm giải thoát, đi đầu thai làm người, xả sạch oán thù. Nhà ngươi hãy đọc theo lời ta: “lời hướng dẫn hằn chấn của đại sư Viên Giác:
“Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài giúp con chuyển thế làm người.
Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài lấy nước cam lồ rửa sạch cho con mọi oan khiên.
“Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài độ cho A Thố chóng khôi phục sức khoẻ và chí tu học vững bền.”
Ðại sư tiếp tục dìu dắt vong linh:
“Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Phật.
Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Pháp.
Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Tăng.
Con đã quy y Phật rồi, không đọa vào địa ngục.
Con đã quy y Pháp rồi, không đọa vào ngạ quỷ.
Con đã quy y Tăng rồi, không đọa vào súc sanh.”
Khi đại sư Viên Giác, thầy của chúng tôi dẫn dắt vong linh kia lặp lại ba lần quy y Tam Bảo vừa xong, bỗng nhiên A Thố ngã lăn trên mặt đất chừng năm phút rồi tỉnh dậy như một giấc ngủ dài mê man. A Thố ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình. A Thố lành bệnh, sức khoẻ bình phục ngay lúc đó khiến cha mẹ và mọi người trong thân quyến A Thố hết sức vui mừng. Chùa Giác Hải nhiều người biết tới nhờ thầy chúng tôi niệm đức Quán Thế Âm chữa lành bệnh vong nhập cho A Thố. Gạo cơm chùa dư nuôi điệu chúng, vải vóc có đủ may mặc, vài căn nhà sinh hoạt được xây dựng khang trang, chính là nhờ sự phát tâm cúng dường tích cực của gia đình A Thố và bà con dòng họ của A Thố. Thầy chúng tôi có bài thơ tặng gia đình A Thố mà tôi đã nằm lòng sau đây:
Lễ Niệm Ðức Quán Thế Âm.
Hằng ngày lễ kính mẹ hiền
Quán Âm thường niệm vô biên linh mầu.
Gặp cơn rối rắm khổ đau
Quán Âm lễ niệm lệ sầu nhẹ vơi.
Sóng lòng dẫu có trùng khơi
Quán Âm lễ niệm đất trời chuyển rung
Muộn phiền oan nghiệp tương phùng
Quán Âm lễ niệm tâm không thoát nàn.
Mạng vong hồn phách cơ hàn
Quán Âm lễ niệm lạc bang hướng về.
Nguyện mau chứng quả bồ đề
Ta bà hóa hiện độ đời trầm luân.
(19) ÁN A BÀ LÔ HÊ – (Om I Avaloka) –
Quán Âm hiện thân tướng
Ngôi tòa sen trang nghiêm
Lòng từ bi vô lượng
Hằng cứu khổ ban vui.
socnho
04-07-2016, 04:21 PM
NƯỚC CAM LỒ CHỮA NGƯỜI CÂM
Cam lồ trừ não nhiệt
Chữa lành người bị câm
Xuất gia cầu chí đạo
Ân nghĩa xin đền bồi.
Tỉnh Quy Nhơn, xã Phù Cát có anh Nguyên Lợi làm nghề thợ hồ. Sau khi xây mộ cho một gia đình ở Tu Bông gần Vạn Giả, tự nhiên hai hôm sau anh lên cơn sốt nói mê sảng và sau một tuần lễ chữa trị đủ thuốc mà không thuyên giảm. Thế rồi bị câm, thỉnh thoảng anh Nguyên Lợi lên cơn, cởi áo quần chạy khắp làng xóm. Có khi anh đến ngôi mộ anh xây ngồi yên lặng nhiều giờ, chốc chốc lại khóc và hú lên những tràng âm thanh dài ghê rợn, ai nghe cũng khiếp sợ, không dám lại gần. Ngày lại ngày, tay của anh mọc lông dài như lông heo rừng. Bà con anh cho đây là chuyện oan hồn, ma quái, âm binh trừng phạt anh vì có lẽ anh xây mộ cho người chết mà tâm anh bất chánh, hoặc có làm điều gì lầm lỗi với gia chủ và với vong thức người đã qua đời. Họ tin như thế, vì người nhà của anh Nguyên Lợi mỗi khi mua cau trầu, xôi, chuối đến khấn vái trước ngôi mộ anh ấy xây, cầu cho anh ta lành bệnh thì quả nhiên anh lành bệnh được ba hôm, sau đó tái phát trở lại và bệnh câm của anh kéo dài gần cả năm mà chưa chấm dứt.
Một hôm vợ anh Nguyên Lợi được người mach bảo là sư ông chùa Giác Hải, núi Ông Sư có điện Quán Âm Nam Hải, ngài chữa bệnh ma nhập, quỷ ám rất thần diệu, nên cả nhà gồm có hai người anh trai, một em gái và vợ anh Nguyên Lợi đưa anh vào chùa Giác Hải trình với sư ông tất cả tự sự. Sư ông sau khi hỏi tên tuổi người bệnh và tên tuổi người chết mà anh Nguyên Lợi đã xây mộ. Hỏi xong, sư ông hướng dẫn anh Nguyên Lợi và cả gia đình của anh lên điện Quán Âm cầu nguyện. Hồi đó, tôi còn là chú sa di nhỏ theo hầu sư ông, nhưng tôi rất để ý những chuyện sư ông cầu đức Quán Thế Âm để chữa các bệnh lạ, nhất là các bệnh có ảnh hưởng từ cõi âm, cõi của người đã qua đời.
Hôm ấy sư ông bảo tôi gõ mõ để đọc thần chú đại bi với sư ông. Tay sư ông cầm chén nước trong, bắt ấn cam lồ búng vào trong chén nước. Ðọc ba lần, rồi sư ông tiếp niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát khoảng trên một trăm lần. Kế đến sư ông đem cho anh Nguyên Lợi uống. Kỳ diệu thay, anh Lợi uống xong ly nước trong vừa được sư ông chú nguyện là anh Lợi khai khẩu được ngay, câu nói đầu tiên của anh Lợi là Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Anh tự một mình niệm ba lần như thế, sau đó sư ông ra hiệu cho mọi người cùng niệm danh hiệu bồ tát Quán Thế Âm để trợ hóa cho anh Nguyên Lợi. Trong tiếng niệm Quán Âm, tôi nghe xen lẫn tiếng khóc của người nhà anh Nguyên Lợi, vì họ quá xúc động về sự linh nghiệm và phép cứu khổ nhiệm mầu của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tôi thấy nhiều người khóc tự nhiên tôi cũng khóc. Tôi khóc vì không những xúc động khi thấy anh Nguyên Lợi bị câm cả năm bây giờ nói lại được, mà tôi khóc vì tôi thấy thầy tôi giao cảm được với Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát nên tôi rất bội phục, rất kính nể người. Tôi tự hỏi, tại sao Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát rất linh hiển, thầy tôi cầu nguyện cho ai cũng đều có linh nghiệm, mà tôi đứng ra cầu cho người có tai nạn thì không thấy có kết quả? Tôi nhớ ít nhất là có hai người bị bệnh bởi vong thức người chết nhập vào, gia đình dẫn người bệnh đến chùa Giác Hải nhờ cứu chữa. Vì sư ông đi vắng, tôi rất mừng là có cơ hội để thay thế sư ông cứu người cùng thử nghiệm “tài đức” cầu nguyện của mình, nhưng cả hai lần đều thất vọng nên tôi cảm thấy bị “mất mặt bầu cua” và phải đợi sư ông về mới trị được bệnh tình cho hai người kia.
(20) LÔ CA ÐẾ - (Lokate) –
Quán Âm hiện thân tướng
Vua trời Ðại Phạm Thiên
Có mặt khắp cõi giới
Cứu thoát khổ u đồ.
Đức Tâm
02-03-2019, 11:55 AM
Trong đám mía !
Khoảng lên 7, 8 tuổi, một hôm tôi xin phép mẹ dẫn đứa em trai nhỏ hơn tôi hai tuổi đi theo một nhóm bạn vào con suối trong bìa rừng để moi đất sét. Chúng bạn làm thủ công với đất sét đủ màu, cam, lục, xanh da trời, lam, đỏ, vàng, và đen mun. Nhìn trái đu đủ hoặc trái cam chúng bạn làm để được chấm điểm thủ công, tôi chết mê. Kịp khi lũ bạn rủ đi lấy đất sét có màu thiên nhiên ấy, tôi đã năn nỉ mẹ cho tôi đi theo. Con đường từ nhà tôi đến con suối phải đi hết đoạn cái quan trải nhựa hư hỏng loang lỗ, băng xuống dốc đồi thông theo lối mòn dẫn đến một con suối, nơi mà tôi thưòng theo mẹ đi tắm, còn mẹ thì giặt quần áo trên chiếc cầu sắt bắt ngang qua giòng chảy, từ con suối băng theo lối zigzag xuyên qua nhiều dãy ruộng mía do người dân tộc trồng thì tới sát vách núi nơi có đất sét đủ màu. Ở đây vừa sạch, vừa nên thơ như cảnh đào nguyên. Hai anh em tôi có thể được xem là kém ''lịch duyệt'' nhất trong đám trẻ thời bấy giờ. Cứ mãi mê tắm mát dưới giòng suối toàn bằng đất sét đầy màu sắc hiếm khi được thấy, thì chợt nghe sấm sét nổ đùng nhiều tiếng như bom ngay trên đỉnh đầu, mây giăng đen kịt, trời bỗng từ xế chiều chuyển ngay sang chạng vạng tối, nhìn lại chỉ còn có hai anh em, bọn trẻ đang cuốn quần áo chạy sắp mất hút khỏi rừng mía. Em tôi sợ quá khóc thét như chưa bao giờ nó hãi hùng đến thế. Tôi cũng sắp sửa khóc òa như em, nhưng sứ mệnh làm anh bỗng bừng dậy, tôi vội xỏ nhanh chiếc quần sọt, bặm môi kéo áo phủ lên người em, một tay dắt em, tay kia ôm áo chạy theo hướng ra khỏi rừng mía. Lúc đó, khốn thay là mưa xối xuống như tạt, và gió thổi mãnh liệt từng cơn kèm theo sấm chớp liên hồi. Giữa rừng mía, bên kia con suối là đồi cao sừng sững và nghe đâu có cọp thỉnh thoảng về gầm hú, hai anh em tôi như hai con kiến nhỏ cuống quít chạy tứ phía mà không cách nào tìm được lối ra khỏi ruộng mía cao hơn người lớn đứng giơ tay. Em tôi há mồm khóc như ai đâm dao vào nó. Tôi sợ như chưa từng sợ từ lúc sinh ra đời. Và trong sự sợ hãi tột cùng ấy, tôi tự nhiên niệm Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát không ngưng. Đó là do mẹ tôi thường làm như vậy mỗi khi bà có điều gì bất an, bà dạy tôi cũng phải biết niệm Phật Quan Âm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi niệm tên bà ấy như một cái máy mà không đợi mẹ nhắc. Niệm thì niệm chứ mắt vẫn đăm đăm nhìn về trước và tay vẫn nắm tay đứa em, vẫn ôm chặt chiếc áo sơ mi sờn rách chạy như điên như cuồng không định hướng. Trong cơn vô vọng và kinh hoàng ấy, cứ nghĩ là sẽ chết giữa rừng mía, trời lại tối sẩm thêm như càng muốn hăm dọa hơn với bóng ma bóng cọp, thì một cái chớp sáng rực bầu trời tóe lên như pháo bông, kèm theo một tiếng sấm ở đầu kia ruộng mía, tôi điếng hồn nhìn về phía tia chớp, một cánh tay vươn lên khỏi đọt mía vẫy vẫy gọi tên tôi, Ê ! T. ơi, ra đây này. Không cần biết ất giáp, và như con cheo nhỏ, tôi dắt em lao nhanh về phía ấy. Quả nhiên, chỉ chừng vài phút sau, tôi đến ngay chỗ mà tôi thấy bàn tay. Đây chính là bìa rừng mía, tôi gặp ngay con đường mòn dẫn về cây cầu sắt bắt ngang con suối, ở đây hoàn toàn quang đãng không còn gì che chắn tầm mắt, tôi nhìn về phía cuối đường mòn dẫn ngược lên con lộ cái quan ở phía đằng xa, chẳng có lấy bóng một người, các bạn tôi đã chạy không còn một đứa. Trong thâm tâm, tôi tuyệt nhiên chẳng nghĩ gì đến Phật Trời, chỉ cho rằng thằng bạn nào đó đã kêu tôi, sau khi kêu, nó bỏ chạy mất, thế thôi.
Bẵng đi một thời gian, cho đến khi đã vào đại học, nhân dịp đi chơi với một đám bạn, ngang qua một ruộng mía ở vùng phụ cận Nha Trang, tôi bỗng nhớ tới cái rừng mía của người dân tộc canh tác lúc còn bé, và tôi giật mình suy nghĩ : bây giờ tôi đã cao được gần 1,7 mét, tôi vẫn giơ tay không qua khỏi đọt mía một cách dễ dàng, thế thì thằng bạn nào có đủ chiều cao giơ cánh tay lên đến ngang nách qua khỏi đọt mía mà gọi tên tôi lúc còn bé?
Tôi kể câu chuyện này hôm nay, không cho rằng đó là phép lạ của Đức Quán Thế Âm, nhưng vẫn hoang mang không thể giải thích thế nào.
Trần Trọng Sỹ
Powered by vBulletin® Version 4.2.3 Beta 3 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.